Nghị quyết số 30c/NQ-CP đã xác định cải cách thể chế là một trong ba trọng tâm cải cách hành chính trong giai đoạn 2011-2020, với 08 nhóm nhiệm vụ cụ thể tại khoản 1 Điều 3. Khái quát chung kết quả 10 năm thực hiện cải cách thể chế theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP có thể được đánh giá qua các nhóm nhiệm vụ nổi bật như sau:
Thứ nhất, về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung
Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta. Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đặc biệt là những luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, được các cơ quan từ trung ương đến địa phương quan tâm, chỉ đạo sát sao. Trong giai đoạn 2011-2020, hệ thống pháp luật nước ta được hoàn thiện một bước quan trọng trên cơ sở cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013. Rất nhiều luật, pháp lệnh và các văn bản quy định chi tiết trong các lĩnh vực về tổ chức bộ máy nhà nước, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh và bảo vệ Tổ quốc đã kịp thời được sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới.
Kết quả xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện 05 mục tiêu của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, trong đó có việc hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước. Kết quả công tác xây dựng thể chế 10 năm qua có tác động trực tiếp, tích cực và sâu rộng tới mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, tăng cường quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế và góp phần bảo vệ, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân.
Thứ hai, về đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật
Trong giai đoạn 2011 - 2020, Chính phủ đã trình Quốc hội sửa đổi Luật Ban hành VBQPPL hai lần vào năm 2015 và 2020 với nhiều nội dung bổ sung, sửa đổi mang tính đột phá theo hướng nâng cao chất lượng, minh bạch, chặt chẽ, dân chủ hơn; thống nhất trình tự, thủ tục ban hành VBQPPL ở cả trung ương và địa phương; giảm hình thức và cơ quan có thẩm quyền ban hành VBQPPL; bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành VBQPPL; đổi mới một cách cơ bản, toàn diện quy trình xây dựng, ban hành văn bản theo hướng tách bạch quy trình xây dựng chính sách và quy trình soạn thảo ở một số loại văn bản; tăng cường tính công khai, minh bạch trong xây dựng, ban hành văn bản.
Việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có nhiều đổi mới. Từ việc xây dựng Chương trình nhiệm kỳ 05 năm (theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2008) đến xây dựng Chương trình hằng năm (theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2015), tạo sự linh hoạt, tăng cường tính thích ứng nhanh của chính sách với các vấn đề kinh tế, xã hội; chương trình xây dựng VBQPPL hàng năm của Chính phủ cũng có nhiều tiến bộ, bảo đảm cơ chế để Chính phủ hoạch định chính sách công khai, minh bạch, cơ chế để Nhân dân tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật và giám sát thi hành pháp luật.
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh do Chính phủ đề xuất đã thể hiện rõ thứ tự ưu tiên đối với một số lĩnh vực trọng điểm có ý nghĩa then chốt để tập trung nguồn lực thực hiện, bám sát vào nhiệm vụ chính trị, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn.
Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương đã quan tâm công tác xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết, với việc thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, nhằm tạo sự đột phá, tháo “
nút thắt” trong quản lý điều hành, triển khai thi hành luật, pháp lệnh; chất lượng văn bản được nâng lên; tiến độ thực hiện nhanh hơn, từng bước đáp ứng yêu cầu triển khai đồng bộ việc thi hành luật, pháp lệnh. Công tác xây dựng, ban hành văn bản thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã được đẩy mạnh, có thời điểm, Chính phủ không còn tình trạng nợ ban hành văn bản quy định chi tiết.
Bên cạnh đó, việc tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu, các tổ chức đoàn thể và nhân dân trong hoạt động xây dựng pháp luật đã được triển khai thực hiện nghiêm túc trên thực tế. Các hình thức, phương pháp lấy ý kiến dự thảo văn bản của các cơ quan nhà nước khá đa dạng. Sự tham gia xây dựng, góp ý và phản biện của doanh nghiệp, người dân vào quá trình soạn thảo văn bản đã được cải thiện (cả về hình thức, tần suất và hiệu quả). Các cơ quan soạn thảo đã chú ý hơn đến tầm quan trọng của hoạt động này, nhất là một số dự thảo văn bản có nội dung liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người dân, công tác dân tộc, tôn giáo, chính sách đối với người có công với cách mạng, hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số…, cơ quan soạn thảo luôn tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên, các tổ chức xã hội đóng góp ý kiến.
Thứ ba, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về dân sự, kinh tế, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong giai đoạn 2011 - 2020, pháp luật về dân sự, kinh tế với trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng phát triển và phù hợp hơn với luật pháp, thông lệ quốc tế.
Pháp luật về sở hữu và bảo đảm quyền tự do kinh doanh không ngừng được hoàn thiện; các quyền và nghĩa vụ tài sản được thể chế hóa tương đối đầy đủ . Hiến pháp năm 2013 ghi nhận cụ thể về chế độ sở hữu toàn dân, được cụ thể hóa trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và trong nhiều đạo luật chuyên ngành ban hành trong giai đoạn này; trách nhiệm pháp lý của nhà nước là đại diện thực hiện quyền của chủ sở hữu đối với tài sản thuộc sở hữu toàn dân và chủ sở hữu khác được xác định rõ; khuyến khích phát triển chế độ sở hữu tập thể; quyền sở hữu tư nhân được nhà nước bảo hộ; quyền sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài được quan tâm, khuyến khích; quyền tự do kinh doanh được bảo đảm.
Pháp luật về đầu tư, kinh doanh không ngừng được hoàn thiện theo hướng thông thoáng, thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp nhưng vẫn bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước. Luật Quy hoạch là bước cải cách về thể chế tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật về quy hoạch, góp phần thay đổi phương thức quản lý nhà nước theo hướng Nhà nước kiến tạo và phục vụ; trong đó Nhà nước chỉ quy hoạch những ngành hạ tầng thiết yếu (hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, hạ tầng sản xuất) để kiến tạo sự phát triển trên cơ sở tôn trọng quy luật của kinh tế thị trường; việc phân bổ nguồn lực cũng sẽ theo cơ chế thị trường để tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội và thúc đẩy việc huy động các nguồn lực của xã hội cho đầu tư phát triển nhằm giảm bớt gánh nặng đầu tư công của khu vực nhà nước, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Thể chế pháp luật cho các loại thị trường được xây dựng, thiết lập và ngày càng đồng bộ. Hầu hết các loại hàng hóa, dịch vụ được xác lập theo cơ chế thị trường. Pháp luật về thị trường bất động sản đã được ban hành cơ bản đầy đủ và ngày càng hoàn chỉnh, tạo hệ thống cơ sở pháp lý để giúp cho thị trường bất động sản phát triển ổn định, lành mạnh, từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế; tăng khả năng cung cấp hàng hoá bất động sản, nhất là nhà ở và các cơ sở sản xuất, kinh doanh; bảo đảm bình ổn thị trường theo quy luật cung cầu, đồng thời góp phần thực hiện chính sách xã hội; mở rộng phạm vi kinh doanh bất động sản cho các tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài để thu hút nguồn lực đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, góp phần thúc đẩy thị trường bất động sản phát triển, giải quyết việc làm, tạo sự tăng trưởng cho nền kinh tế.
Hệ thống chính sách, pháp luật về lao động ngày càng được hoàn thiện phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) và quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đảm bảo các quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định, cũng như tăng cường các quy định bảo vệ nhóm lao động đặc thù; mở rộng độ bao phủ, điều chỉnh các chính sách lao động, việc làm đến toàn bộ lực lượng lao động, tăng cường cơ hội việc làm cho lao động khu vực phi chính thức; nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội, phù hợp với quá trình chuyển đổi của nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng nguyện vọng đông đảo người lao động, bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Bên cạnh đó, Luật An toàn, vệ sinh lao động năm 2015 được ban hành đã tạo cơ sở pháp lý bảo đảm an toàn và sức khỏe người lao động, nhất là người lao động trong những lĩnh vực có nguy cơ cao về tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ đã tạo hành lang pháp lý an toàn, thúc đẩy sáng tạo văn học, nghệ thuật và khoa học, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người sáng tạo, nhà sử dụng và công chúng thụ hưởng; cơ bản phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Thể chế, pháp luật trong lĩnh vực này dần được hoàn thiện, góp phần bảo đảm nguyên tắc cân bằng lợi ích giữa người sáng tạo, nhà sử dụng và người thụ hưởng, kế thừa các giá trị pháp luật đã được thực tiễn kiểm nghiệm, tiếp thu các chuẩn mực quốc tế, phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được mở rộng phù hợp với Hiệp định TRIPS của WTO về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Pháp luật trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ - tín dụng đã tạo môi trường lành mạnh, bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, khuyến khích cạnh tranh trong hoạt động tín dụng;
hoàn thiện hành lang pháp lý để phát triển các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam, đảm bảo an toàn trong các giao dịch thanh toán; điều hành chính sách tiền tệ hiệu quả, giúp ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát; khơi thông nguồn vốn tín dụng cho nền kinh tế, tháo gỡ khó khăn cho các khu vực sản xuất kinh doanh, hỗ trợ đắc lực chuyển dịch cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế, khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn...; bảo đảm hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn, xử lý các ngân hàng yếu kém, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người gửi tiền; lập lại trật tự trong hoạt động kinh doanh vàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, ổn định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước, thúc đẩy xuất khẩu, thu hút đầu tư nước ngoài, khuyến khích kiều hối, hạn chế tình trạng đô la hóa nền kinh tế.
Thể chế, pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán cũng luôn được quan tâm, hoàn thiện, phát triển. Luật Chứng khoán được Quốc hội khóa XIV thông qua tại kỳ họp thứ 8 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2021) với nhiều nội dung sửa đổi quan trọng, được thị trường kỳ vọng sẽ tạo nên một cú huých, không chỉ nâng cao chất lượng hàng hóa, mà góp phần làm thị trường chứng khoán minh bạch hơn. Qua đó đã có những đột phá trong việc tái cấu trúc thị trường chứng khoán; thúc đẩy thị trường chứng khoán có những bước phát triển, tạo kênh huy động vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia thị trường, tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các tổ chức tham gia thị trường; có chính sách hiện đại hoá cơ sở hạ tầng cho hoạt động của thị trường chứng khoán, tạo cơ sở cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh và ổn định, có khả năng hội nhập sâu hơn với các thị trường vốn quốc tế và khu vực và thực hiện các cam kết của Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Pháp luật về thuế, phí, lệ phí được ban hành sớm và không ngừng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý thuế toàn diện, thống nhất, nhằm mục đích tạo cơ sở cho quản lý thuế hiện đại, tiếp cận tới những chuẩn mực, thông lệ quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế, cơ quan quản lý thuế, đơn giản hóa thủ tục hành chính, thúc đẩy phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của dịch vụ, hàng hóa sản xuất trong nước, khuyến khích xuất khẩu, đầu tư, đổi mới công nghệ, cải thiện môi trường sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện để khai thác hiệu quả các nguồn lực và sức sản xuất của các thành phần kinh tế; bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước; cải cách thủ tục hành chính, thu hút đầu tư và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Thứ tư, về xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước
Giai đoạn 2011 - 2020, pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị nói chung, của Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính nhà nước nói riêng, pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức được xây dựng đầy đủ và không ngừng hoàn thiện.
Thể chế về Nhà nước pháp quyền XHCN được bổ sung, hoàn thiện. Nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước được quy định đầy đủ hơn trong Hiến pháp năm 2013. Nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được thể chế hóa, là cơ sở cho việc tiếp tục tăng cường cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của tổ chức bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn và có những bước tiến mới trong hoạt động. Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước được xác định rõ hơn. Vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước, trong quản lý xã hội ngày càng được đề cao.
Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015 tiếp tục khẳng định Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, đồng thời phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của Thủ tướng với các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, đề cao trách nhiệm cá nhân, tính kỷ luật hành chính và yêu cầu minh bạch, tinh gọn bộ máy hành chính trong điều kiện hiện nay. Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013 và các chủ trương, định hướng của Đảng; đồng thời kế thừa những nội dung hợp lý và sửa đổi, bổ sung các vướng mắc trong 12 năm thực hiện Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương, theo đó: đã bổ sung thẩm quyền của Chính phủ trong quản lý về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, chế độ công vụ, cán bộ, công chức, viên chức; bổ sung thẩm quyền cho Thủ tướng Chính phủ về ủy quyền thực hiện những nội dung thuộc thẩm quyền quyết định của Thủ tướng Chính phủ về quản lý công chức, viên chức trong các cơ quan hành chính nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đồng thời bỏ thẩm quyền của Thủ tướng trong quyết định các tiêu chí, điều kiện thành lập hoặc giải thể các cơ quan chuyên môn đặc thù thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện do chuyển nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của Chính phủ; bổ sung thẩm quyền của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với tư cách là người đứng đầu bộ, cơ quan ngang bộ trong cho “từ chức” và “biệt phái” và “điều động, luân chuyển, biệt phái” đối với công chức, viên chức thuộc phạm vi quản lý; mô hình tổ chức chính quyền địa phương được quy định theo hướng linh hoạt…
Pháp luật về cán bộ, công chức, viên chức khá đầy đủ, tạo điều kiện cho các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp triển khai công tác tuyển dụng, sử dụng, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm; bố trí, phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ, năng lực và đánh giá cán bộ, công chức, viên chức theo các tiêu chuẩn cụ thể; thực hiện chế độ thi nâng ngạch theo nguyên tắc cạnh tranh; quản lý cán bộ, công chức, viên chức theo hướng đảm bảo nguyên tắc đề cao vai trò, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan và trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân, cơ quan quản lý cán bộ, công chức, viên chức; hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ, quyền của cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời quy định rõ nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong thực thi công vụ. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức (
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020) với nhiều điểm mới quan trọng như: khái niệm công chức, phân loại công chức, tuyển dụng công chức… bỏ chế độ “Biên chế suốt đời” đối với viên chức.
Thứ năm, về xây dựng, hoàn thiện pháp luật về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân
Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, việc ghi nhận, đề cao các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân tại các đạo luật trên các lĩnh vực từ dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được tăng cường và củng cố mạnh mẽ nhất từ trước tới nay, cơ bản phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Công tác chuyển hóa nội dung của các điều ước này vào pháp luật trong nước đã và đang được thực hiện tương đối tốt, phù hợp điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội của Việt Nam.
Nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng về đề cao nhân tố con người, xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, nhiều dự án luật do Chính phủ chuẩn bị nhằm thể chế hóa các quyền con người, quyền cơ bản của công dân trên mọi lĩnh vực được ban hành, cụ thể như: Bộ luật Dân sự, Luật Giáo dục, Luật Thanh niên… Pháp luật đối với nhóm người yếu thế cũng được quan tâm, phát triển như Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017…
Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ các quyền đó, xử lý nghiêm minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là ưu tiên trong công tác xây dựng pháp luật, thể hiện thông qua việc ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam năm 2015, Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Thi hành án dân sự, Luật Thi hành án hình sự, Luật Đặc xá, Luật Giám định tư pháp năm 2020, Luật Tố tụng hành chính năm 2015; Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước sửa đổi năm 2017…
Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước; công dân đủ 18 tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 28 và Điều 29 Hiến pháp năm 2013). Các quyền hiến định này được cụ thể hóa trong nhiều đạo luật như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2014; Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018; Luật Tố cáo năm 2018, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015… Cùng với đó là việc mở rộng tự do, dân chủ, tăng cường công khai hóa trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về quyền con người nói riêng đã tạo cơ chế thu hút các tổ chức, cá nhân tham gia vào việc nghiên cứu, đề xuất và phản biện chính sách pháp luật và các công đoạn trong quy trình xây dựng VBQPPL.
Như vậy, với những kết quả nổi bật nêu trên, có thể khẳng định, việc triển khai thực hiện nhiệm vụ cải cách thể chế theo Nghị quyết số 30c/NQ-CP trong 10 năm qua đã góp phần nâng cao chất lượng thể chế, đóng góp quan trọng vào việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của đất nước./