Những nội dung cơ bản của Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế

05/04/2006
Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14-6-2005, Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 24-6-2005, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-1-2006. Luật này thay thế Pháp lệnh ngày 20-8-1998 về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế.
Văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên của nước ta quy định về lĩnh vực này là Pháp lệnh năm 1989 về ký kết và thực hiện điều ước quốc tế. Pháp lệnh này đã được thay thế bằng Pháp lệnh năm 1998. Tuy nhiên, quy định của pháp luật và thực tiễn công tác ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế trong thời gian qua đã phát sinh nhiều yếu tố chủ quan và khách quan, đòi hỏi phải nâng Pháp lệnh năm 1998 lên thành Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.

Việc ban hành luật có ý nghĩa quan trọng cả về đối nội và đối ngoại; luật đã thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, đường lối của Ðảng, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện khuôn khổ pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ ngoại lực và phát huy tối đa nội lực để xây dựng và phát triển đất nước.

Về đối nội, luật góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp luật đồng bộ, với những quy định đầy đủ, chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của các cơ quan (Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, cơ quan đề xuất, cơ quan kiểm tra, cơ quan thẩm định, cơ quan giám sát thực hiện điều ước quốc tế); khắc phục những bất cập trong pháp luật hiện hành và thực trạng của công tác về điều ước quốc tế, qua đó góp phần tăng cường hơn nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế của Việt Nam, thúc đẩy tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, phục vụ xây dựng và phát triển đất nước.

Về đối ngoại, luật thể hiện rõ chủ trương của Việt Nam coi trọng hợp tác với cộng đồng quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy", đồng thời khẳng định rõ cam kết của Việt Nam tuân thủ và bảo đảm thực hiện các thỏa thuận nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế và các chủ thể khác của pháp luật quốc tế. Các quy định cụ thể của luật về việc tuân thủ và thực hiện điều ước quốc tế, góp phần tạo thuận lợi cho tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam tham gia các thể chế kinh tế quốc tế như Ngân hàng Thế giới, Tổ chức Thương mại thế giới... Luật cũng bảo đảm sự tương thích với các quy định trong Công ước Viên về Luật Ðiều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế gồm chín chương, 107 điều (Pháp lệnh năm 1998 về ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế gồm sáu chương, 35 điều). Luật này quy định về việc ký kết, gia nhập, bảo lưu, lưu chiểu, lưu trữ, sao lục, công bố, đăng ký, thực hiện, giải thích, sửa đổi, bổ sung, gia hạn, chấm dứt hiệu lực, từ bỏ, rút khỏi, tạm đình chỉ thực hiện điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

So với quy định của pháp luật hiện hành, luật này có những nội dung mới chủ yếu dưới đây:

Một là, Luật quy định chỉ áp dụng đối với hai loại điều ước quốc tế được ký kết, gia nhập nhân danh Nhà nước và nhân danh Chính phủ (Ðiều 1). Thỏa thuận quốc tế được ký kết nhân danh bộ, ngành theo Pháp lệnh năm 1998 được coi là điều ước quốc tế, nhưng theo luật này thì không còn là điều ước quốc tế và do đó không được điều chỉnh tại luật này.

Việc ký kết và thực hiện các thỏa thuận quốc tế nhân danh bộ, ngành, tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nghề nghiệp với các cơ quan, tổ chức tương ứng của nước ngoài sẽ được điều chỉnh bằng một văn bản quy phạm pháp luật khác dưới hình thức Pháp lệnh và sẽ được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua.

Hai là, Luật quy định các nguyên tắc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế tại một điều (Ðiều 3), gồm sáu nguyên tắc, trong đó có hai nguyên tắc mới so với Pháp lệnh năm 1998, đó là điều ước quốc tế được ký kết hoặc gia nhập phải:

- Phù hợp lợi ích quốc gia, đường lối đối ngoại của Nhà nước Việt Nam;

- Phải được trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến trước khi đàm phán, ký hoặc gia nhập, nếu có quy định trái hoặc chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; trong trường hợp đàm phán, ký, gia nhập điều ước quốc tế có quy định trái hoặc chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội cho ý kiến.

Ba là, Luật quy định mới về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế với các văn bản quy phạm pháp luật trong nước;

a) Luật khẳng định một nguyên tắc chung đã được quy định trong hầu hết các luật, pháp lệnh, nghị định..., đó là trong trường hợp các văn bản này khác với quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế đó (Ðiều 6 khoản 1).

b) Luật quy định việc soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật phải bảo đảm không làm cản trở đến việc thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên (Ðiều 6 khoản 2). Ðây là một quy định mới so với quy định trong Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.

c) Ngoài ra, lần đầu tiên trong một văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam, Luật quy định điều ước quốc tế có hiệu lực đối với Việt Nam được áp dụng trực tiếp theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền tại quyết định về việc ký kết, phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế. Trong trường hợp không thể áp dụng trực tiếp một số quy định của điều ước quốc tế, cơ quan có thẩm quyền khi quyết định ký,  phê chuẩn, phê duyệt hoặc gia nhập điều ước quốc tế đó, quyết định ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế (Ðiều 6 khoản 3).

Bốn là, Luật quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thống nhất cho việc ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế. Các quy định này bao gồm từ khâu đề xuất việc đàm phán, ký, gia nhập điều ước quốc tế; đến kiểm tra các đề xuất đó (do Bộ Ngoại giao chịu trách nhiệm); thẩm định các đề xuất đó (do Bộ Tư pháp hoặc Hội đồng thẩm định tiến hành); thẩm tra đề xuất trình Quốc hội việc phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế (do Ủy ban Ðối ngoại của Quốc hội chủ trì thực hiện); thống nhất quản lý Nhà nước và triển khai thực hiện điều ước quốc tế (do Chính phủ tiến hành); tổ chức giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (do Quốc hội tiến hành).

Năm là, Luật quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục trình xin ý kiến của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc đề xuất đàm phán, ký hoặc gia nhập điều ước quốc tế trong trường hợp điều ước quốc tế đó có quy định trái hoặc chưa được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Các quy định này góp phần gắn kết quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế với Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội; tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện có hiệu quả các cam kết quốc tế của Việt Nam.

Sáu là, Luật lần đầu tiên quy định về việc bảo đảm kinh phí cho việc đàm phán, ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế (Ðiều 105). Quy định này của luật là cần thiết vì cho tới nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về việc cấp kinh phí cho hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế, trong khi hoạt động này bao gồm những quy trình có tính chất phức tạp, đòi hỏi có các khoản kinh phí để triển khai.

(Theo báo Nhân dân)