Giới thiệu về hệ thống Tòa án và cơ cấu tổ chức, chức năng nhiệm vụ chính của Bộ Tư pháp An-giê-ri

05/06/2015
Phục vụ cho chuyến công tác của Bộ trưởng Hà Hùng Cường tháp tùng Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thăm chính thức Angieri, Vụ Hợp tác quốc tế tổng hợp, tóm tắt chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của hệ thống Tòa án và của Bộ Tư pháp nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Angieri.

Hệ thống Tòa án của An-giê-ri

Trước năm 1962, An-giê-ri là thuộc địa của Pháp nên pháp luật và hệ thống tư pháp cơ bản chịu ảnh hưởng của nền tư pháp Cộng hòa Pháp. Sau khi giành độc lập, Tòa án tối cao An-giê-ri được thành lập ngày 2-3-1964. Khi mới thành lập, Tòa án tối cao An-giê-ri không có thẩm phán là người An-giê-ri, phải sử dụng thẩm phán người Pháp, chỉ có Thư ký tòa và Thừa phát lại là người An-giê-ri (sau này được thay thế dần).

Từ năm 1962 đến nay, Hiến pháp An-giê-ri đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, lần sửa đổi bổ sung quan trọng nhất là năm 1989, theo đó, quyền lực Nhà nước được chia thành ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp (theo mô hình tam quyền phân lập); tòa án có 2 hệ thống độc lập gồm hệ thống tòa án tư pháp và hệ thống tòa án hành chính.

1. Hệ thống Tòa án hiện nay (từ năm 1989)

Về cơ cấu, tổ chức: Hệ thống tòa án có 3 cấp: tòa án sơ thẩm, tòa án phúc thẩm và Tòa tối cao, (gồm 197 toà sơ thẩm, 37 tòa phúc thẩm và Tòa án tối cao). Trong Tòa án tối cao có Tòa đại hình. Theo quy định của Hiến pháp, Tòa án tối cao có nhiệm vụ theo dõi, quản lý toàn bộ hệ thống tòa phúc thẩm, tòa sơ thẩm, xác định quy tắc áp dụng pháp luật, ban hành án lệ áp dụng thống nhất trên toàn quốc và phá án. Tòa Đại hình làm nhiệm vụ xét xử sơ chung thẩm các án hình sự nặng. Tòa án tối cao có cơ cấu bộ máy gồm các phòng, dưới phòng là các ban khác nhau, phụ trách việc xét xử từng loại án, bên cạnh các phòng, ban chuyên trách còn có phòng Thư ký hành chính và phòng Thư ký tòa án, mỗi phòng do một thẩm phán phụ trách. Hệ thống các phòng thuộc Tòa án tối cao gồm: Phòng Dân sự, Phòng Thương mại, Phòng Đất đai, Phòng Lao động, Phòng Hình sự tội vừa và tội nhỏ, Phòng Hình sự tội lớn (Tòa đại hình). Tòa án tối cao An-giê-ri là đơn vị ngân sách độc lập, không phụ thuộc vào Bộ Tư pháp như trước đây.                                                                                        

Hội đồng thẩm phán tối cao An-giê-ri gồm 18 thành viên do Tổng thống đứng đầu và các thành viên khác gồm: Bộ trưởng Tư pháp (kiêm Trưởng Công tố), Chánh án Tòa án tối cao, 10 thẩm phán do đồng nghiệp bầu, 4 người khác do Tổng thống chỉ định, những người này có thể không phải là thẩm phán mà là bác sỹ, kỹ sư.. nhiệm kỳ của Hội đồng là 2 năm. Hội đồng có trách nhiệm chỉ định thẩm phán, quyết định việc chuyển công tác của thẩm phán…, trong Hội đồng có Ban thư ký giúp việc. Hội đồng thẩm phán tối cao thành lập một Ủy ban kỷ luật thẩm phán, đứng đầu là Chánh án Tòa án tối cao. Việc kỷ luật đối với Chánh án Tòa án tối cao được thực hiện như đối với các thẩm phán khác.

Thẩm phán tại An-giê-ri do Tổng thống bổ nhiệm không thời hạn, (thẩm quyền này quy định trong Sắc lệnh của Tổng thống), nhưng trước đó phải thông qua Hội đồng thẩm phán tối cao. Tuổi nghỉ hưu của thẩm phán là 60, (nữ thẩm phán có thể nghỉ hưu ở tuổi 55) và có thể kéo dài đến tuổi 65, đối với thẩm phán Tòa án tối cao, tuổi nghỉ hưu là 70. Tổng thống chỉ định Chánh án Tòa án tối cao; bổ nhiệm, miễn nhiệm Chánh án các tòa án khác. Việc bổ nhiệm thẩm phán tòa án hành chính cũng được thực hiện như thẩm phán tư pháp nhưng có tiêu chuẩn khắt khe hơn, phải là người có nhiều năm làm thẩm phán tư pháp (ít nhất là 25 năm). Thẩm phán tòa án hành chính cũng như các thẩm phán khác, do Hội đồng thẩm phán tối cao đề nghị Tổng thống bổ nhiệm nhưng chịu sự quản lý hành chính của Bộ Tư pháp.

a.Tòa sơ thẩm:

Tòa sơ thẩm là cấp xét xử cấp cơ sở, thông thường được phân thành 4 lĩnh vực: dân sự, hình sự, lao động và thương mại. Gồm có một chánh án, thẩm phán xét xử, công tố và thư ký tòa, quyết định đưa ra theo nguyên tắc một thẩm phán trong mọi lĩnh vực trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác. Như là trường hợp ví dụ tòa án xét xử vị thành viên và tòa án xã hội thường xét xử theo hội đồng với sự có mặt của tòa án liên quan và hai hội thẩm viên.

b.Tòa phúc thẩm:

Pháp lệnh năm 1997 về việc phân chia thẩm quyền tư pháp đã thiết lập 48 tòa án phúc thẩm dựa theo đơn vị hành chính. Việc phân chia đơn vị tư pháp xác định thẩm quyền địa hạt của các tòa án, khác với thẩm quyền hành chính theo nghĩa hẹp.

Tòa án phúc thẩm là cơ quan xét xử theo hình thức hội đồng. Tòa án phúc thẩm gồm có một chánh án, các chánh tòa, ủy viên hội đồng, viện công tố và phòng thư ký. Mỗi một tòa án phúc thẩm gồm có nhiều tòa, có thể phân nhỏ theo lĩnh vực, nếu cần.

Phòng nghị án, được thành lập trong mỗi tòa án phúc thẩm, là cơ quan thẩm tra cấp hai. Chánh án có quyền kiểm tra và theo dõi hoạt động của các tòa thẩm tra. Tòa thẩm tra đảm bảo việc kiểm tra hoạt động của các cán bộ cảnh sát tư pháp.

c.Tòa án tối cao:

Tòa án tối cao đã được thành lập năm 1963 (luật số 63 – 218 ngày 18 tháng 6 năm 1963 thành lập tòa án tối cao). Đây là cơ quan xét xử tư pháp cao nhất. Tòa án tối cao đánh giá hoạt động của các tòa án và tòa án phúc thẩm, bảo đảm thống nhất án lệ của cơ quan xét xử tư pháp trên phạm vi toàn quốc và theo dõi việc tuân thủ pháp luật.

Tòa án tối cao hiện nay được điều chỉnh theo luật năm 1989 sửa đổi và bổ sung, gồm có 8 phòng (dân sự, đất đai, xã hội, tội phạm, tội ít nghiêm trọng và lỗi vi cảnh, liên quan đến con người, phòng thương mại và biển, phòng điều tra). Tòa án tối cao có quyền tự chủ tài chính và tự chủ quản lý. Việc quản lý các cơ quan hành chính do một tổng thư ký đảm nhiệm, với sự hỗ trợ của một vụ trưởng vụ hành chính và vụ trưởng vụ tư liệu.

Tòa án tối cao có thẩm quyền, đặc biệt để quyết định những khiếu nại trước tòa phá án đối với những quyết định và phán quyết cấp chung thẩm của các tòa án phúc thẩm và tòa án mọi cấp trừ những cơ quan xét xử thuộc hệ thống cơ quan xét xử hành chính.

d. Tòa án quân sự:

Tòa án quân sự là cơ quan xét xử đặc biệt có trách nhiệm xét xử một số hành vi phạm tội về quân đội và những người làm việc trong quân đội. Quyết định của tòa án quân sự đặt dưới sự kiểm tra của Tòa án tối cao.

2. Hệ thống Tòa án hành chính hiện nay

Hệ thống Tòa án hành chính có 2 cấp: Tòa án hành chính và Tham chính viện (Hội đồng nhà nước). Trong Tham chính viện được tổ chức thành các phòng, gồm: Phòng phụ trách tài sản công; Phòng tranh chấp liên quan đến thuế, ngân hàng, chức năng nhà nước; Phòng trách nhiệm dân sự; Phòng đất đai, giải quyết sở hữu, thu hồi đất; Phòng giải quyết tranh chấp đảng phái, chính trị.

Hiện nay ở An-giê-ri có 37 tòa án hành chính đặt ở 37 tỉnh, thành và Tham chính viện ở Trung ương. Tòa án hành chính có thẩm quyền xét xử tranh chấp giữa một bên là công dân với  một bên là cơ quan nhà nước. Khi xét xử các vụ án hành chính bắt buộc phải có luật sư, nếu cá nhân không có điều kiện mời luật sư thì Thanh tra Nhà nước của tòa án hành chính sẽ cử luật sư. Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán không trực tiếp gặp đương sự mà chỉ gặp luật sư của họ. Tòa án hành chính có quyền buộc một cơ quan hoặc một cá nhân làm hoặc không làm một việc để bảo vệ quyền lợi người dân, của cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, đồng thời có quyền phạt hành chính. Theo quy định của luật hành chính, việc xét xử vụ án hành chính không có phúc thẩm, vì vậy phán quyết của thẩm phán Tòa án hành chính được thi hành ngay. Tham chính viện có thẩm quyền phá án và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và áp dụng án lệ, ngoài ra còn có quyền thảo luận, tham vấn về tính hợp pháp, hợp hiến và sự phù hợp với các Công ước mà An-giê-ri đã ký kết hoặc tham gia trước khi các dự án luật được trình xem xét, thông qua.

3. Về quá trình cải cách tư pháp

Trước năm 1989, Hiến pháp An-giê-ri chủ yếu quy định chức năng của hệ thống tư pháp, còn sự độc lập của hệ thống tư pháp chưa được xác định đầy đủ, tuy nhiên, hoạt động của tòa án cũng có sự độc lập nhất định. Hệ thống tư pháp thực hiện chức năng của Nhà nước, vì vậy tính độc lập trong hoạt động của các cơ quan tư pháp khó được đảm bảo vì sự can thiệp của các cơ quan hành chính Nhà nước và sự phụ thuộc rất nhiều vào người đứng đầu Nhà nước.

Khi trao đổi với Đoàn công tác, phía bạn cũng nhấn mạnh, để bảo đảm sự độc lập của hệ thống tư pháp, vấn đề quan trọng không lệ thuộc vào cơ chế chính trị một đảng hay đa đảng, nhà nước không nhất thiết phải tổ chức theo mô hình tam quyền phân lập, mà điều quan trọng là người đứng đầu nhà nước phải thật sự khách quan và pháp luật được thực thi nghiêm minh, đảm bảo công bằng đối với mọi chủ thể, đồng thời có cơ chế đảm bảo vị trí độc lập của thẩm phán. Tại An-giê-ri, thẩm phán chịu sự quản lý, kỷ luật, bổ nhiệm của một cơ quan, đó là Hội đồng thẩm phán tối cao, cơ quan này chỉ tuân theo Hiến pháp khi thực hiện nhiệm vụ.

Cải cách tư pháp của An-giê-ri do Tổng thống quyết định vào năm 2000. Để tiến hành cải cách, An-giê-ri đã thành lập Ủy ban Cải cách tư pháp gồm 100 giáo sư, luật sư, bác sỹ…, có nhiệm vụ xem xét, đánh giá hệ thống tư pháp của An-giê-ri. Ủy ban đã tập trung nghiên cứu trong thời gian 10 tháng để báo cáo Tổng thống và đưa ra khuyến nghị cải cách. Những khuyến nghị này được Chính phủ triển khai thành Chương trình hành động quốc gia. Mục tiêu của Chương trình hành động quốc gia là xây dựng nhà nước pháp quyền, tăng cường vị trí độc tôn của pháp luật, bảo vệ quyền con người trong xã hội, đảm bảo quyền cơ bản của công dân, phòng ngừa, trấn áp tội phạm có hiệu quả.

Ủy ban Cải cách tư pháp đã kiến nghị một số biện pháp cấp bách cần làm ngay để giải quyết các bức xúc trong xã hội : (1) cải cách tư pháp về hình sự với quan điểm dựa trên nguyên tắc mọi đối tượng tình nghi phải được coi là vô tội, (2) đảm bảo tôn trọng quyền con người trong điều tra, truy tố, xét xử, đặc biệt quan tâm tới việc cải thiện điều kiện giam giữ, cải tạo, (3) đảm bảo đủ số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tư pháp và đặc biệt là hiện đại hóa hệ thống các cơ quan tư pháp.

a. Cải cách hệ thống pháp luật

Tổng thống đương nhiệm được bầu từ năm 1999. Sau khi nhậm chức, ông đã thực hiện chính sách hòa giải dân tộc với ưu tiên hàng đầu là đảm bảo hòa bình, ổn định, chống xung đột sắc tộc, tôn giáo. Cải cách tư pháp được thực hiện, hệ thống tư pháp đã có sự thay đổi lớn, mục tiêu giai đoạn này là tập trung kêu gọi lực lượng khủng bố, phiến loạn bỏ vũ khí, tiến hành hòa giải, tập trung xây dựng và phát triển đất nước. Chính phủ đã có chính sách ưu tiên xây dựng hệ thống pháp luật nhằm bảo đảm quyền tự do, quyền con người, cải thiện điều kiện giam giữ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp; bổ sung những quy định tạo thuận lợi cho người dân (cả trong và ngoài nước) trong việc tiếp cận với tòa án (trợ giúp pháp lý); quy định một số hành vi mới thuộc loại tội phạm phi truyền thống và tăng hình phạt đối với tội tra tấn phạm nhân; quy định bồi thường thiệt hại trong các vụ việc oan sai; tăng cường hỗ trợ pháp luật nhất là đối với người tàn tật, người nghèo, người không tự bảo vệ được mình; tăng cường các biện pháp hỗ trợ và giám sát xã hội; sửa đổi, bổ sung luật gia đình, kết hôn, nhận con nuôi, nhập quốc tịch, tăng cường các biện pháp bảo vệ công dân trước sự xâm nhập, tấn công của tội phạm có tổ chức; ban hành luật chống tham nhũng, buôn lậu, phòng chống ma túy, tăng cường xử lý tội phạm rửa tiền và tài trợ cho các tổ chức khủng bố; hạn chế tối đa việc áp dụng biện pháp giam giữ, thay thế bằng các biện pháp đặt  tiền, tài sản, giám sát hành chính.

Đồng thời, An-giê-ri tăng cường nội luật hóa các Điều ước, cam kết quốc tế, các văn bản pháp lý quốc tế mà An-giê-ri ký kết hoặc tham gia, đến nay đã sửa đổi và soạn thảo hơn 2000 điều luật, cụ thể: tiến hành sửa đổi luật hình sự, (bổ sung tội tra tấn phạm nhân trong tù); trong tố tụng hình sự đưa thêm quy định về lệnh tạm giữ và rút ngắn thời gian tạm giam; sửa đổi tố tụng dân sự, bổ sung các quy định về hỗ trợ tư pháp; sửa đổi luật chống tham nhũng, buôn người, tội phạm về công nghệ thông tin, phòng chống ma túy, sửa đổi luật về gia đình, luật quốc tịch, luật dân sự,  luật thương mại, luật sở hữu trí tuệ…

 Về cơ bản, hiện nay An-giê-ri đang theo hệ thống luật thành văn, tuy nhiên, vẫn kết hợp với việc áp dụng án lệ đối với các bản án điển hình (Trong luật không quy định án lệ, nhưng một số bản án điển hình do Tòa án tối cao hoặc Tham chính viện tuyên có thể thay thế chỗ trống trong luật pháp). An-giê-ri đang chuẩn bị tổ chức một số hội thảo về vai trò của án lệ và hội thảo quốc tế về kỹ thuật soạn thảo quyết định của Tòa án tối cao, Tham chính viện để có thể áp dụng trong công tác xét xử.

b. Cải cách tư pháp hình sự

Sau ngày giành độc lập, An-giê-ri có tòa án đặc biệt xét xử các vụ phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội phạm ảnh hưởng đến sự tồn vong của chế độ. Hiến pháp năm 1989 đã xóa bỏ tòa án đặc biệt này. Từ năm 1992, do hoạt động khủng bố của những phần tử cực đoan Hồi giáo gia tăng và phát sinh nhiều các loại tội phạm mới, để tăng cường trấn áp đối với các loại tội phạm  như: khủng bố, rửa tiền, công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia, ma túy, tham nhũng…, Bộ luật tố tụng hình sự có thay đổi, bổ sung những quy định như: tăng thời gian tạm giữ là 12 ngày, tăng thẩm quyền cho cảnh sát (có thể khám xét, điều tra vào ban đêm); thành lập Tòa án đặc biệt thuộc hệ thống tòa án tư pháp chỉ xét xử các vụ án hình sự đặc biệt (xét xử cả người chưa thành niên phạm tội, liên quan đến tội phạm khủng bố). Tòa án đặc biệt được tổ chức tại 4 vùng (Đông, Tây, Bắc của đất nước và thủ đô Angie), Tòa án đặc biệt tuân theo pháp luật và nguyên tắc xét xử chung, tuy nhiên có các bộ phận chuyên biệt phục vụ việc xét xử đặc biệt, Trưởng công tố là người có quyền quyết định vụ án nào cần đưa ra Tòa án đặc biệt. Tòa án đặc biệt chỉ tồn tại từ năm 1992 đến tháng 3-1995, sau thời điểm đó, tội khủng bố được xét xử tại tòa bình thường.

Từ khi cải cách đến nay, Bộ luật tố tụng hình sự cũng được sửa đổi  theo hướng đảm bảo nguyên tắc thẩm phán độc lập chỉ tuân theo pháp luật. Đặc biệt từ năm 2004 đã bổ sung những quy định nhằm bảo đảm tăng thêm tính độc lập của thẩm phán như: công tố chỉ được quyền đưa ra khuyến nghị, thẩm phán khi xét xử chỉ chịu trách nhiệm trước pháp luật, vai trò độc lập của thẩm phán còn thể hiện ở quy định khi thụ lý, xét xử họ không bị chi phối bởi các cấp quản lý trong hệ thống tòa án.  Đồng thời, tăng cường bảo vệ quyền con người như: giảm biện pháp tạm giam, tăng cường giám sát tư pháp, tăng cường các biện pháp hành chính như cấm đi khỏi nơi cư trú, phong tỏa tài khoản….Người bị hại có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gửi đơn tố giác đến tòa về việc bị xâm hại (có thể được tòa án thụ lý giải quyết mà không cần sự cho phép của Viện Công tố). Thời hạn tạm giam đối với bị can tại An-giê-ri là 4 tháng và có thể gia hạn thêm nhưng thủ tục gia hạn rất chặt chẽ (theo nguyên tắc hạn chế tối đa việc gia hạn); pháp luật cho phép người thân vào thăm nuôi ngay trong thời gian bị tạm giam.

Bộ luật hình sự quy định tội nhẹ, tội vừa, tội nặng (tội nhẹ có mức phạt đến 2 tháng tù, tội vừa từ 2 tháng đến 5 năm tù, tội nặng từ 5 năm tù đến tử hình). Khung hình phạt dành cho vị thành niên tùy thuộc vào độ tuổi và mức độ phạm tội. Vị thành niên phạm tội vẫn được coi là nạn nhân. Từ năm 1993 đến nay, An-giê-ri vẫn giữ hình phạt tử hình, tuy nhiên rất hi hữu mới áp dụng hình phạt này, trong thực tế, chưa xét xử với mức án tử hình đối với phụ nữ và trẻ em. Đối với tội nhẹ và tội vừa, khi xét xử sơ thẩm chỉ có 1 thẩm phán duy nhất, xét xử phúc thẩm có 3 thẩm phán, đối với tội hình sự nặng không xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Hội đồng xét xử gồm 3 thẩm phán và 2 hội thẩm. Hiện nay các chuyên gia, các nhà chính trị, những người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật vẫn đang tranh luận về việc có nên thực hiện 2 cấp xét xử đối với tội hình sự nặng hay không. Hiện nay An-giê-ri đã thành lập Tòa án chuyên trách xét xử người chưa thành niên (dưới 18 tuổi) phạm tội. Tuy nhiên, đối với người chưa thành niên phạm trọng tội cũng có thể đưa ra xét xử tại tòa án cho người đã thành niên. Nếu trong một vụ án, có cả người phạm tội nặng, người phạm tội nhẹ thì việc xét xử có thể tách riêng (người chưa thành niên xét xử tại Tòa án giành cho người chưa thành niên phạm tội). Trường hợp cần thiết chủ tọa phiên tòa sẽ quyết định đưa những đồng phạm là người thành niên đến phiên tòa với tư cách là người làm chứng. Các phiên tòa xét xử người chưa thành niên phạm tội thường không công khai, sự tham dự của cha mẹ hoặc người giám hộ là bắt buộc. Phương pháp làm việc tại tòa án vị thành niên cũng có khác biệt: có phần gặp gỡ, tiếp xúc trước với cán bộ xã hội, người làm công tác tâm lý. Pháp luật của An-giê-ri cho phép thẩm phán có quyền can thiệp khi phát hiện người chưa thành niên bị xâm hại hoặc sống trong môi trường có nguy cơ bị xâm hại. Ví dụ khi trẻ em bị bố mẹ bạo lực, trẻ em bị bỏ rơi ngoài đường phố không ai chăm sóc hoặc có cha mẹ nhưng cha mẹ không đủ tư cách nuôi dưỡng, giáo dục (như nghiện, có hành vi bạo lực...) thì thẩm phán có quyền yêu cầu thực hiện các biện pháp bảo vệ như gửi trẻ em vào một gia đình khác hoặc gửi đến trung tâm nuôi dưỡng trẻ em và những trẻ em này có thể được nuôi dưỡng đến 21 tuổi. Việc giam giữ đối với vị thành niên có hệ thống riêng, tùy mức độ phạm tội của vị thành niên mà có thể đưa các em vào trại giáo dưỡng.

Bộ luật hình sự cũng đã bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân khi vi phạm pháp luật tại An-giê-ri. Theo quy định, nếu một pháp nhân vi phạm pháp luật thì tùy mức độ có thể bị phạt hành chính hoặc giải thể; mức phạt tiền đối với pháp nhân thông thường gấp từ 1 đến 5 lần so với mức phạt được áp dụng đối với thể nhân.

c. Cải cách thi hành án và bổ trợ tư pháp

* Về thi hành án dân sự

Trước đây, thi hành án dân sự thuộc chức năng của tòa án, sau năm 1989 tổ chức Thừa phát lại được thành lập để thi hành án dân sự. Nếu người phải thi hành án không chịu thi hành thì lực lượng cảnh sát sẽ hỗ trợ thừa phát lại tịch thu tài sản hoặc cưỡng chế thi hành án (kết quả thi hành án dân sự đạt trên 90%). Thừa phát lại là đơn vị dịch vụ công hoạt động trên cơ sở thu phí dịch vụ của người phải thi hành án.

* Về thi hành án hình sự

Hiện nay công tác thi hành án hình sự tại An-giê-ri do Tổng cục quản lý trại giam và tái hòa nhập cộng đồng (gọi tắt là Tổng cục Thi hành án hình sự) quản lý. Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm quản lý về mặt hành chính, nhân sự và tài chính; Tòa án và Viện Công tố chịu trách nhiệm về thi hành án (giam giữ, cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng).

Tổng cục Thi hành án hình sự gồm có một Tổng cục trưởng và 4 trợ lý (tương đương Cục trưởng), Chánh Thanh tra thi hành án (là công tố hoặc thẩm phán), 5 Trưởng ban và 17 Phó trưởng ban. Tổng cục thi hành án hình sự có 5 Ban: (1) Ban công tác quản giáo; (2) Ban an ninh thông tin; (3) Ban đào tạo (tổ chức học tập, dậy nghề cho phạm nhân và tái hòa nhập cộng đồng); (4) Ban tổ chức và phát triển nhân lực; (5) Ban tài chính và hậu cần; (6) Trường đào tạo quản lý trại giam. Hệ thống tổ chức các trại giam hiện nay gồm 140 trại giam, được phân ra các loại trại, trường và trung tâm như sau: các trại giam dành cho phạm nhân có mức án trên 5 năm; các trại dành cho phạm nhân có mức án dưới 2 năm tù; các trại giam dành cho phạm nhân có mức án từ 2 đến 5 năm tù; các trại giam mở (thực hiện giam giữ kết hợp với lao động, sản xuất, học tập đối với phạm nhân tiến bộ, có nghề và phạm nhân phạm tội về kinh tế); các trại giam dành riêng cho phụ nữ; Trung tâm giáo dưỡng trẻ em từ 13 đến 18 tuổi; các trung tâm xúc tiến dịch vụ hỗ trợ sau khi ra tù, tái hòa nhập cộng đồng. Lực lượng canh gác bảo vệ và đảm bảo an toàn các trại giam được tổ chức theo chế độ vũ trang dân sự, có cấp hàm sỹ quan, hạ sỹ quan do Bộ trưởng Tư pháp quyết định.

Mục tiêu, yêu cầu, nội dung cải cách tư pháp trong giam giữ và cải tạo phạm nhân bao gồm: Hoàn thiện hệ thống pháp luật trong giam giữ cải tạo; cải thiện điều kiện giam giữ; phát huy nguồn nhân lực, nâng cao giá trị con người trong giáo dục cải tạo; hoàn thiện chính sách, chương trình tái hòa nhập; tăng cường cơ sở vật chất cho các trại giam (xem chi tiết ở phần Phụ lục 1).

* Hoạt động bổ trợ tư pháp    

Hoạt động bổ trợ tư pháp là hoạt động dịch vụ công do các Hiệp hội quản lý về chuyên môn, Bộ Tư pháp công nhận và bãi miễn chức danh luật sư, thừa phát lại, giám định viên, công chứng viên, dịch thuật…Tại An-giê-ri hiện nay có khoảng 30.000 luật sư, 1.800 công chứng viên, 6000 giám định viên và chuyên gia tư pháp khác, hàng năm có bổ sung, thay thế. Tại mỗi tòa án đều có danh sách những người hỗ trợ tư pháp, khi cần thiết, thẩm phán có thể trưng cầu những người này hỗ trợ một số vấn đề mà thẩm phán cần có ý kiến chuyên gia. Thẩm phán có quyền sử dụng hoặc không sử dụng kết quả giám định của các chuyên gia. Chi phí giám định do người dân trả hoặc Nhà nước hỗ trợ.

d. Hiện đại hóa hệ thống tư pháp

Một trong những định hướng quan trọng của cải cách tư pháp là hiện đại hóa hệ thống tư pháp. Định hướng hiện đại hóa được thực hiện theo lộ trình, gồm giai đoạn nghiên cứu, tổ chức thí điểm ở một số địa phương để kiểm chứng, đánh giá, rút kinh nghiệm, sau đó triển khai ứng dụng đại trà trong các cơ quan tư pháp của tất cả các địa phương trên toàn quốc. Theo đó, Cục Hiện đại hóa thông tin tư pháp thuộc Bộ Tư pháp được thành lập tháng 11-2002 (theo đề xuất của Ủy ban cải cách tư pháp), trong Cục có bộ phận đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,  bộ phận kỹ thuật và Trung tâm thông tin, thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin cho công chức, cán bộ cơ quan tư pháp và pháp luật có liên quan, các chuyên gia nghiên cứu pháp luật và công chúng có nhu cầu tiếp cận thông tin tư pháp. Từ năm 2006, Chính phủ An-giê-ri đã đưa ra Chương trình hiện đại hóa hệ thống thông tin được áp dụng tại tất cả các tòa án. Thực hiện chương trình này, Chính phủ đã thành lập Ủy ban liên ngành về hiện đại hóa hệ thống thông tin tư pháp, tham mưu cho Ủy ban có Ban Chỉ đạo. Ban Chỉ đạo lập Nhóm nghiên cứu về hiện đại hóa hệ thống thông tin tư pháp do 2 thẩm phán điều hành và tuyển dụng khoảng 100 kỹ sư tin học để xây dựng “Đề án hiện đại hóa hệ thống thông tin tư pháp”. Mục tiêu của Đề án là ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong hoạt động tư pháp, đảm bảo cho người dân tiếp cận thông tin tư pháp nhanh nhất; các cơ quan tư pháp sử dụng tối đa và hiệu quả thông tin tư pháp và được bảo mật. Nhóm nghiên cứu đã xây dựng các Đề án về thiết bị, nhân sự và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, dự trù kinh phí, xây dựng hệ thống phần mềm tin học và xác định lộ trình thực hiện trong phạm vi toàn quốc để báo cáo Ban Chỉ đạo. Tại các địa phương cũng có các Ban Chỉ đạo liên ngành xây dựng quy chế phối hợp, thực hiện chương trình hiện đại hóa (do Ban Chỉ đạo Trung ương thành lập).

Có hai hệ thống thông tin chính được thiết lập gồm: Hệ thống thông tin phục vụ yêu cầu của người dân và hệ thống thông tin nội bộ giúp các cán bộ tư pháp, các cơ quan chức năng thực hiện các nhiệm thuộc thẩm quyền và nghiên cứu hoạch định các chính sách đúng đắn và có chất lượng. Hệ thống phục vụ người dân gồm một Trung tâm quốc gia về lý lịch tư pháp, cung cấp lý lịch tư pháp, cho phép một công dân đến bất cứ điểm giao dịch nào trên lãnh thổ đều lấy được lý lịch tư pháp trong vòng 10 phút, người An-giê-ri ở nước ngoài cũng có thể đến cơ quan đại diện của nước mình ở nước sở tại để được cung cấp thông tin về lý lịch tư pháp, nhanh chóng thuận tiện như ở trong nước. Hệ thống mạng quản lý hồ sơ vụ việc làm nhiệm vụ cung cấp thông tin nội bộ trong toàn bộ hệ thống tư pháp và cho phép người dân có liên quan đến vụ việc do Tòa án giải quyết được tìm hiểu tiến trình giải quyết vụ việc của mình thông qua mã số hồ sơ và được bảo mật.

Hệ thống quản lý thông tin các vụ án cho phép quản lý hồ sơ tư pháp quy trình giải quyết vụ việc từ đầu đến khi kết thúc; những người liên quan và luật sư có thể truy cập được hồ sơ, nắm được diễn biến cơ bản của quá trình xét xử vụ án theo mã số vụ án được bảo mật, cán bộ tư pháp có thể truy cập để thống kê, phân tích, tổng hợp phục vụ cho công tác nghiên cứu, tham mưu xây dựng các chính sách. Áp dụng hệ thống này cho phép tiết kiệm thời gian, người dân ít phải đi lại nhiều mà vẫn nắm được thông tin về tiến độ giải quyết vụ việc. Tại trụ sở các Tòa án đều được trang bị hệ thống máy tính để người dân có thể truy cập thông tin về vụ án của mình hoặc công dân có thể tra cứu tài liệu liên quan tại tòa án địa phương mà không cần phải đến Tòa phúc thẩm, Tòa án tối cao hay Tham chính viện. Đặc biệt từ tháng 2-2009, người dân có thể kháng cáo lên Tòa tối cao thông qua tòa cấp dưới, không cần phải gặp cán bộ tòa án, mà tự đến tòa địa phương tra cứu, sao bản án để thực hiện việc kháng cáo.

Nhằm giúp người dân hiểu được hệ thống tư pháp hiện đại, An-giê-ri đã tăng cường tuyên truyền, hướng dẫn, phát tờ rơi, giúp dân tra cứu thông tin. Đối với người khuyết tật như người mù, người câm điếc sẽ có hệ thống chữ nổi hoặc phiên dịch cử chỉ phục vụ. 

Trong trại giam cũng áp dụng hệ thống thông tin hiện đại, nhằm các mục tiêu: Đưa ra chương trình tái hòa nhập, lập hồ sơ tội phạm học, tạo điều kiện xem xét ân xá; tăng cường công tác lưu trữ, cung cấp thông tin, hỗ trợ pháp lý cho phạm nhân, cung cấp thông tin cho luật sư, thừa phát lại…

Mặc dù có những khó khăn trong thời gian đầu, nhất là trong việc tuyển chọn chuyên gia, kỹ thuật viên và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ sử dụng các thiết bị tin học, nhưng đến nay, toàn bộ hệ thống từ Trung ương đến địa phương đã vận hành tốt (đã tuyển chọn được 300 kỹ sư, hơn 400 kỹ thuật viên, cán bộ hành chính phục vụ cho hệ thống và đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng sử dụng cho đội ngũ thẩm phán, công tố viên, cán bộ các cơ quan tư pháp). Hiện nay, Trung tâm hiện đại hóa hệ thống thông tin tư pháp đã kết nối với Tòa án tối cao, 37 tòa phúc thẩm, 197 tòa sơ thẩm, hệ thống tòa án hành chính, trung tâm trợ giúp pháp lý, trung tâm cai nghiện ma túy và các trại giam (khoảng 600 cơ sở đã được kết nối), giúp cho việc quản lý được thông suốt, nhanh và chính xác.

Bộ Tư pháp hiện đang xây dựng một trung tâm cung cấp ứng dụng tin học, xây dựng chương trình ưu tiên cho việc lập và phân loại phạm nhân, thống kê chi tiết, tiến tới sẽ thực hiện dự án số hóa tư liệu tư pháp giúp người dân tiếp cận hồ sơ khi họ cần. Trước tiên sẽ ưu tiên số hóa các phán quyết của Tòa án tối cao, tòa phúc thẩm, sau sẽ đến các loại dữ liệu khác. Dự án tiếp theo là xây dựng hệ thống hỏi cung bị can qua mạng, nhất là đối với tội phạm nguy hiểm nhằm hạn chế việc dẫn giải và tiếp theo là xây dựng hệ thống xét xử qua mạng, nhưng để thực hiện được điều này phải sửa đổi luật Tố tụng hình sự.

Kinh nghiệm cho thấy, thành công của việc hiện đại hóa hệ thống tư pháp là sự quan tâm đầu tư đồng bộ với Chương trình, đề án chung, thiết bị kỹ thuật đồng bộ, đào tạo cán bộ sử dụng và có cơ chế vận hành thống nhất (Chính phủ An-giê-ri đã dành kinh phí khoảng 200 000 di-na để đầu tư ban đầu và vận hành/năm). Quá trình hiện đại hóa phải có sự tham gia bắt buộc của các cán bộ, cơ quan tư pháp từ khi nghiên cứu đến triển khai thực hiện; việc thực hiện phải theo lộ trình thích hợp từ thực hiện thí điểm tại một số tỉnh, thành để đánh giá, rút kinh nghiệm, khắc phục, hoàn thiện trong hai năm rồi mới triển khai đại trà. Khâu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp (đặc biệt là thẩm phán) được quan tâm nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tin học để sử dụng có hiệu quả hệ thống thông tin tư pháp.

đ. Cải cách tiền lương

Cải cách về tiền lương cho thẩm phán làm việc tại tòa án của An-giê-ri được quan tâm thực hiện ngay khi bắt đầu quá trình cải cách. Việc xác định mức lương khởi điểm dựa trên tính độc lập của thẩm phán. Để đảm bảo cho thẩm phán độc lập khi làm nhiệm vụ, Nhà nước đã áp dụng một mức lương đảm bảo cuộc sống và phù hợp với vị thế, trách nhiệm của thẩm phán trong xã hội, theo đó mức lương khởi điểm đối với thẩm phán cao gấp 5 lần mức lương tối thiểu chung của cán bộ, công chức (18.000 dina) và được hưởng trợ cấp nhà ở một lần khoảng 48.000 dina, ngoài ra còn được vay ưu đãi mua nhà, xe v.v. Thẩm phán được nâng bậc lương theo niên hạn và khi nghỉ hưu được hưởng nguyên lương.

3. Đào tạo thẩm phán và công tố viên

Trước năm 1990, Trường Hành chính Quốc gia An-giê-ri đào tạo tất cả đội ngũ cán bộ các cấp, trong đó có cán bộ tư pháp. Năm 1989, An-giê-ri thành lập Trường thẩm phán để đào tạo thẩm phán và công tố viên Thời gian đào tạo lúc đầu là 2 năm. Từ năm 1996, để nâng cao trình độ của thẩm phán và công tố viên đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tổng thống chỉ đạo kéo dài thời gian đào tạo lên 3 năm. Chương trình đào tạo được áp dụng chung cả thẩm phán và công tố viên, nhưng có áp dụng chương trình đào tạo chuyên sâu riêng cho thẩm phán và công tố viên sau khi được phân công công tác. Quy trình đào tạo nghề tại Trường Đào tạo thẩm phán  như sau: (1) Để đồng bộ hóa trình độ, học viên được học lý thuyết cơ bản về pháp luật và học ngoại ngữ (2) Đi thực tế tìm hiểu công việc tại tòa án (3) Thực tập tại công ty luật (4) Học lý thuyết kết hợp với thảo luận làm bài tập tình huống (5) Thực tập tại cơ quan điều tra và tại các trại giam (6) Thực tập kỹ năng tại tòa án, viện công tố (7) Thực tập tại tòa chuyên ngành và thi tốt nghiệp ra trường. Sau khi tốt nghiệp, nhà trường phối hợp với Tòa án tối cao, Viện Công tố, Bộ Tư pháp…  tổ chức phân công công tác cho học viên tốt nghiệp. Sau khi  phân công, nhà trường tiếp tục đào tạo nghề theo chuyên ngành được phân công cho các thẩm phán, công tố viên…          

Việc bồi dưỡng kiến thức mới hàng năm được chú trọng và thực hiện bắt buộc đối với tất cả các thẩm phán và công tố viên; các thẩm phán, công tố viên muốn chuyển đổi vị trí công tác, thay đổi công việc và nâng bậc bắt buộc phải tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng.

Cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp An-gie-ri

I. Tổng vụ về Tư pháp và pháp luật có các nhiệm vụ (trong khuôn khổ các quyền hạn được giao cho Bộ Tư pháp và Trưởng ấn):

- Giám sát hoạt động của Toà án (phạm vi xét xử - hoạt động xét xử) trong các lĩnh vực Dân sự, Thương mại, Hành chính, Xã hội, Trọng tài và các hoạt động về Bổ trợ tư pháp cũng như các vụ việc liên quan đến Quốc tịch, Hộ tịch và Thi hành án;

- Giám sát các hoạt động và kiểm tra hoạt động của các Viện Công tố, các Cơ quan) điều tra, các Toà án Hình sự cũng như là việc thi hành hình phạt và Cảnh sát Tư pháp;

- Triển khai các nghiên cứu pháp luật và soạn thảo các dự thảo luật liên quan đến ngành Tư pháp cũng như là chuẩn bị và bảo đảm việc quản lý văn bản chung cũng như các văn bản đặc biệt;

- Tham gia chuẩn bị và soạn thảo các Thoả thuận Tư pháp và các Công ước quốc tế ; đề xuất các sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật để gia nhập và hài hoà hoá với các Điều ước quốc tế;

- Chuẩn bị các nghiên cứu trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp.

Tổng vụ về Pháp luật và Tư pháp có 4 vụ:

1/- Vụ các vấn đề dân sự và con Dấu của nhà nước có nhiệm vụ giám sát hoạt động của Toà án trong lĩnh vực Dân sự, Thương mại, Hành chính, Xã hội và Trọng tài cũng như các hoạt động về Lục sự và Bổ trợ Tư pháp.

Vụ này có nhiệm vụ:

- Giám sát hoạt động của Toà án trong phạm vi được giao;

- Ngiên cứu và đề xuất, trong phạm vi được giao, tất cả biện pháp cần thiết để quản lý hành chính trong lĩnh vực tư pháp;

- Quản lý việc thi hành các quyết định của Tòa án trong giới hạn được giao;

- Quản lý việc thực hiện kiểm soát về Hộ tịch;

- Thẩm tra yêu cầu và chuẩn bị hồ sơ về Quốc tịch;

- Kiểm soát việc thực hiện các quy định pháp luật áp dụng đối với hoạt động Bổ trợ Tư pháp;

- Thi hành các quy định của pháp luật (theo thẩm quyền, về dấu của nhà nước.

Vụ này bao gồm 4 phòng, bao gồm:

a) Phòng về Tư pháp Dân sự, có nhiệm vụ:

- Giám sát hoạt động các Toà án trong lĩnh vực được giao;

- Giám sát việc phân bổ một cách hợp lý các Thẩm phán giữa các Toà và các cấp xét xử khác nhau trong các Toà án ;

- Kiểm tra việc chỉ định Hội thẩm trong lĩnh vực xã hội và thương mại ;

- Thẩm tra các đơn kháng án trong lĩnh vực dân sự thuộc thẩm quyền, tổng kết và đề xuất các biện pháp giải quyết ;

- Tham gia thực hiện các hoạt động trong lĩnh vực pháp luật quốc tế trong lĩnh vực được giao ;

- Thực hiện việc chuyển giao các giấy tờ ủy thác tư pháp ra nước ngoài hoặc từ nước ngoài vào trong nước theo các quy định của pháp luật hiện hành của pháp luật ;

- Nghiên cứu và chuẩn bị các hồ sơ về các vụ kiện liên quan đến Bộ Tư pháp ; theo sát quá trình tố tụng này ;

- Nghiên cứu và khai thác các Tạp chí liên quan đến các Toà án Dân sự và đề xuất các nội dung có liên quan đến các Toà án này.

b) Phòng Quản lý Bổ trợ tư pháp và con dấu của Nhà nước có nhiệm vụ:

- Theo dõi hoạt động và kiểm soát việc hoạt động của Lục sự;

- Tổ chức các nghề về Bổ trợ Tư pháp và duy trì sự kiểm tra hoạt động của các tổ chức Bổ trợ Tư pháp theo quy định pháp luật ;

- Tham gia soạn thảo hình thức và nội dung các sổ, hướng dẫn và biểu mẫu giấy tờ và in ấn các giấy tờ cần thiết khác cho hoạt động Bổ trợ Tư pháp;

- Chuẩn bị và soạn thảo các quyết định phê chuẩn danh sách giám định viên, thẩm tra các khiếu nại có liên quan và đề xuất các biện pháp xử lý.

- Cấp các giấy phép liên quan tới việc khắc dấu khô và ướt (dấu dùng mực và dấu nổi) cũng như việc in lại dấu trên các giấy tờ, văn bản hành chính và các tấm thiệp nghề nghiệp theo quy định hiện hành;

- Đề xuất chính sách đào tạo giám định tư pháp và giám sát quá trình thực hiện.

c) Phòng Hộ tịch và Quốc tịch có nhiệm vụ:

- Nghiên cứu các đề nghị thay đổi tên, thiết lập hồ sơ, đề xuất các biện pháp giải quyết và giám sát việc thực hiện;

- Phối hợp với các Viện Công tố trong các hoạt động kiểm tra liên quan tới Hộ tịch, nhất là việc thiết lập, công bố và cập nhật các giấy tờ Hộ tịch;

- Gửi, thẩm tra, chuẩn bị hồ sơ về các trường hợp gia nhập, mất quốc tịch, giám sát các tranh chấp cũng như việc thực hiện các quyết định trong lĩnh vực này.

d) Phòng Giám sát việc thực hiện các Quyết định Tư pháp (Quyết định của Tòa án) – Thi hành án, có nhiệm vụ:

- Bảo đảm sự giám sát việc Thi hành án;

- Phối hợp và hỗ trợ các hoạt động Thi hành án;

- Nghiên cứu và phân tích dữ liệu thống kê liên quan tới Thi hành án;

- Đề xuất các biện pháp cần thiết (lập pháp và lập quy) theo quy định hiện hành  trong lĩnh vực này.

2/- Vụ Hình sự và Ân xá, có nhiệm vụ giám sát hoạt động và kiểm soát sự vận hành của các Viện Công tố, các Cơ quan điều tra các Toà án Hình sự:

Vụ này có nhiệm vụ:

- Duy trì, đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực tư pháp hình sự;

- Giám sát, phối hợp và kiểm soát hoạt động công tố;

- Duy trì, đảm bảo việc thực hiện các quyền hạn được giao cho Bộ Tư pháp và Trưởng ấn và cơ quan tư pháp khác trong việc hướng dẫn, giám sát và kiểm tra cảnh sát tư pháp;

- Duy trì, đảm bảo trong phạm vi thẩm quyền, việc thi hành hình phạt;

- Kiểm tra đơn phúc thẩm trong lĩnh vực hình sự và đề xuất các biện pháp giám sát;

- Tham gia soạn thảo các Thỏa thuận tư pháp và giám sát việc thực hiện;

- Duy trì, đảm bảo về trình tự và nghiên cứu các hồ sơ ân xá;

- Đảm bảo việc quản lý về lý lịch tư pháp ở cấp Trung ương;

Vụ này gồm có 4 phòng, gồm:

a) Phòng Tư pháp Hình sự, có trách nhiệm:

- Giám sát, kiểm tra và đánh giá hoạt động của các Viện Công tố.

- Giám sát và đánh giá hoạt động của các Tòa án điều tra;

- Giám sát và đánh giá hoạt động của các Tòa Hình sự;

- Đề xuất các giải pháp thuộc về lập pháp và lập quy để nâng cao hoạt động về tư pháp hình sự;

- Nghiên cứu và khai thác các Tạp chí về các phán quyết hình sự;

- Tiếp nhận và thẩm tra đơn phúc thẩm theo thẩm quyền;

- Nghiên cứu các yêu cầu về xét lại các bản án trong lĩnh vực hình sự

b) Phòng Tư pháp Hình sự chuyên biệt, có trách nhiệm:

- Giám sát hoạt động các Toà án Hình sự chuyên biệt;

- Giám sát các vụ việc thuộc thẩm quyền của các Toà án Hình sự chuyên biệt nhất là các vụ việc kinh tế, xâm phạm lợi ích Nhà nước cũng như tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia;

- Giám sát các hoạt động của Tòa án Vị thành niên và kiểm soát hoạt động của các Tòa án đó;

- Giám sát các yêu cầu dẫn độ và việc thực hiện các thủ tục theo quy định của pháp luật hiện hành;

- Tiến hành chuyển giao các uỷ thác tư pháp xét xử quốc tế trong lĩnh vực Hình sự và kiểm soát việc tống đạt các giấy tờ tố tụng ra nước ngoài và từ nước ngoài vào trong nước;

- Nghiên cứu việc xét lại các bản án.

c) Phòng Thi hành hình phạt và ân xá, có nhiệm vụ:

- Giám sát việc thi hành hình phạt có bảo đảm bởi các Viện Công tố khác nhau;

- Tiếp nhận các yêu cầu ân xá, lập và kiểm tra hồ sơ;

- Duy trì, bảo đảm việc quản lý tốt về lý lịch tư pháp ở trung ương, cũng cấp thông tin về lý lịch tư pháp và các nội dung khác;

- Kiểm soát hoạt động của Sở lý lịch tư pháp.

d) Phòng Cảnh sát Tư pháp có nhiệm vụ:

- Duy trì việc áp dụng các quy định pháp luật có liên quan tới hoạt động của Cảnh sát Tư pháp;

- Giám sát và tham gia chuẩn bị các nội dung kiểm tra các Sở Cảnh sát Tư pháp;

- Giám sát việc “truy tố” Cảnh sát Tư pháp do Viện công tố ; 

- Điều phối các hoạt động của Cảnh sát Tư pháp và các tổ chức quản lý về hành chính đối với Cảnh sát Tư pháp.

3/- Vụ nghiên cứu Tư pháp, có nhiệm vụ chuẩn bị và triển khai các nghiên cứu về Tư pháp.

Vụ này có nhiệm vụ:

- Nghiên cứu và soạn thảo các dự án luật;

- Tham gia soạn thảo các Thoả thuận tư pháp và các Công ước quốc tế;

- Thực hiện việc thúc đẩy lập pháp trong phạm vị quốc gia và quốc tế;

- Nghiên cứu và tổng hợp Án lệ;

- Thực hiện việc hài hoà hoá các quy định pháp luật trong lĩnh vực tư pháp để làm tương thích các quy định của quốc gia với pháp luật quốc tế;

- Quản lý văn bản và tư liệu.

Vụ này có 4 phòng:

a) Phòng Lập pháp và Pháp điển, có nhiệm vụ:

- Nghiên cứu, chuẩn bị và soạn thảo các dự thảo luật của Bộ Tư pháp;

- Tham gia ý kiến đối với những dự án, dự thảo luật do các Vụ chức năng  khác trong Bộ chuẩn bị;

- Nghiên cứu dự thảo luật do các Bộ khác chuẩn bị, được gửi lấy ý kiến của Bộ Tư pháp;

- Tham gia chuẩn bị và soạn thảo các dự án văn kiện tư pháp quốc tế thuộc lĩnh vực của ngành tư pháp;

- Tham gia vào việc hài hòa hoá và làm cho tương thích giữa các quy định của luật trong nước với các quy định, văn bản của các tổ chức quốc tế;

- Pháp điển hóa các quy định pháp luật có liên quan tới ngành Tư pháp.

b) Phòng Án lệ và Học thuyết

- Theo dõi sự phát triển của Án lệ qua quá trình tập hợp và nghiên cứu các bản án của các cấp xét xử khác nhau;

- Theo dõi sự phát triển của các Học thuyết;

- Nghiên cứu và tổng hợp về tổ chức và hoạt động của các hệ thống tư pháp nước ngoài.

c) Phòng Thống kê và Phân tích, có nhiệm vụ

- Tập hợp thông tin và thống kê tư pháp và bảo đảm việc sử dụng, khai thác cũng như công bố;

- Xử lý và công bố các thông tin thống kê liên quan đến ngành tư pháp theo các quy định hiện hành;

- Phân tích các dữ liệu về hoạt động của các Toà án cũng như các dữ liệu về các loại tội phạm, góp phần vào xây dựng chính sách về hình sự để dự báo về tội phạm ;

- Phân tích các dự liệu về tình trạng phạm tội để áp dụng các biện pháp chiến lược nhằm ngăn chặn việc tái phạm;

- Phân tích các dữ liệu liên quan đến tranh chấp ở tất cả các Toà án khác nhau;

- Xây dựng báo cáo, tổng kết, nghiên cứu và tổng hợp các dữ liệu thống kê phục vụ việc khai thác của Toà án và các Vụ chức năng khác thuộc Bộ;

- Hợp tác với các tổ chức trong và ngoài nước về thống kê.

d) Phòng Văn bản và Tư liệu, có nhiệm vụ:

- Bảo đảm quản lý văn bản chung và chuyên ngành;

- Cập nhật các luật và các văn bản pháp quy liên quan đến ngành tư pháp;

- Chuẩn bị và soạn thảo, xây dựng các Tạp chí và hướng dẫn trong lĩnh vực tư pháp;

- Xây dựng các phông văn bản, bảo quản và khai thác tư liệu của Bộ Tư pháp;

- Xuất bản các bản tin chính thức của Bộ Tư pháp;

- Bảo đảm việc dịch văn bản, văn bản chính thức và dự thảo luật.

4/- Vụ Hợp tác pháp luật và Tư pháp có nhiệm vụ tham gia chuẩn bị và soạn thảo các Thỏa thuận quốc tế và đề xuất những sửa đổi bổ sung những quy định pháp luật cho phù hợp với pháp luật quốc tế.

Vụ này có nhiệm vụ:

- Chuẩn bị và thực hiện các Thỏa thuận tư pháp;

- Tham gia nghiên cứu và soạn thảo các Điều ước quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật và giám sát việc thực hiện;

- Tham gia soạn thảo chính sách về hợp tác pháp luật và tư pháp của Bộ;

- Tham gia, giúp cơ quan có thẩm quyền trong việc đàm phán song phương và đa phương liên quan đến lĩnh vực tư pháp.

Vụ này có hai phòng :

a) Phòng Nghiên cứu Công ước có nhiệm vụ:

- Tham gia chuẩn bị các Thỏa thuận về tư pháp song phương, khu vực và đa phương;

- Phối hợp soạn thảo các Điều ước quốc tế;

- Bảo đảm sự áp dụng các Thỏa thuận quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật;

- Đề xuất các biện pháp để hài hòa hoá và làm cho các quy định pháp luật phù hợp với các Điều ước quốc tế;

- Xây dựng và quản lý phông dữ liệu liên quan tới các Thoả thuận quốc tế;

- Đánh giá các Thỏa thuận và Điều ước trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, theo dõi quá trình phát triển  của pháp luật quốc tế trong lĩnh vực này;

- Đề xuất những biện pháp phù hợp để thúc đẩy việc xây dựng pháp luật quốc gia, thẩm tra những hồ sơ có liên quan;

b) Phòng Hợp tác Quốc tế có nhiệm vụ:

- Tham gia soạn thảo chính sách trong lĩnh vực hợp tác về pháp luật và tư pháp, tham gia vào việc tổ chức thực hiện các chính sách này;

- Thúc đẩy và điều phối các hoạt động của Bộ tư pháp trong lĩnh vực pháp luật quốc tế về Dân sự , Hình sự, Thương mại cũng như quyền con người và Luật So sánh;

- Tổ chức, phối hợp với các tổ chức quốc tế có liên quan, đại diện cho Bộ trong các cuộc đàm phán và hội nghị quốc tế;

- Thực thi các biện pháp để thúc đẩy việc hợp tác khu vực và quốc tế trong lĩnh vực tư pháp và pháp luật.

II. Tổng vụ về Nguồn nhân lực: có nhiệm vụ quản lý nhân sự trong ngành tư pháp

Đơn vị này có nhiệm vụ:

- Đảm bảo việc quản lý và tổ chức các ngạch nhân sự;

- Thúc đẩy việc hợp tác liên quan tới đào tạo, thông tin, bồi dưỡng và đào tạo lại cán bộ;

Tổng vụ này có 3 vụ:

1- Vụ Thẩm phán có nhiệm vụ soạn thảo và triển khai thực hiện các chương trình về bồi dưỡng và phát triển các ngạch Thẩm phán.

Đơn vị này có nhiệm vụ là:

- Tham gia tổ chức thực hiện các chương trình tuyển dụng Thẩm phán;

- Giám sát sự quản lý các ngạch Thẩm phán và các vấn đề xã hội có liên quan.

Vụ này có hai phòng:

a) Phòng Quản lý các ngạch Thẩm phán, có nhiệm vụ:

- Giám sát quản lý các ngạch Thẩm phán;

- Bảo đảm việc giám sát về kỷ luật đối với Thẩm phán

b) Phòng Các vấn đề Xã hội, có nhiệm vụ:

- Tổ chức và giám sát các hoạt động xã hội liên quan tới Thẩm phán theo các quy định pháp luật;

- Giám sát, theo dõi các hồ sơ liên quan tới việc bảo vệ các Thẩm phán;

2- Vụ Lục sự và Nhân viên Hành chính, duy trì việc cung cấp dịch vụ pháp lý và quản lý hành chính thuộc về Lục sự và Nhân viên hành chính.

Vụ này có nhiệm vụ:

- Xây dựng chương trình tuyển dụng nhân sự;

- Bảo đảm việc quản lý và giám sát các ngạch Lục sự và Nhân viên hành chính;

- Bảo đảm việc thúc đẩy và quản lý các vấn đề xã hội có liên quan.

Vụ này có hai phòng:

a) Phòng quản lý Lục sự, có nhiệm vụ:

- Xây dựng chương trình về các ngạch Lục sự, giám sát và bảo đảm việc thực hiện;

- Bảo đảm việc giám sát các hồ sơ xử lý kỷ luật;

- Giám sát và tham gia quản lý các vấn đề xã hội có liên quan.

b) Phòng Quản lý Nhân viên Hành chính, có nhiệm vụ:

- Xây dựng chương trình về các ngạch Nhân viên Hành chính, bảo đảm việc quản lý và giám sát việc thực hiện;

- Bảo đảm giám sát các hồ sơ xử lý kỷ luật;

- Giám sát và tham gia quản lý các vấn đề xã hội có liên quan.

3- Vụ đào tạo, có nhiệm vụ:

Đào tạo Thẩm phán cũng như đào tạo nhằm hoàn thiện, đào tạo lại Lục sự và Nhân viên hành chính.

- Cùng với các Vụ có liên quan trong Bộ, soạn thảo chương trình và kế hoạch dài hạn và hàng năm về đào tạo và  thông tin cho Thẩm phán, bồi dưỡng và đào tạo lại Lục sự và Nhân viên Hành chính;

- Thực hiện và bảo đảm việc giám sát chương trình và kế hoạch đào tạo và đánh giá kết quả;

- Quản lý chương trình hợp tác và trợ giúp kỹ thuật trong lĩnh vực đào tạo;

- Tham gia tổ chức theo định kỳ việc kiểm tra kỹ năng nghề nghiệp, các cuộc thi và ra các quyết định đối với các nội dung này.

Vụ này có hai phòng:

a)- Phòng Đào tạo và Thông tin đối với Thẩm phán:

- Thực hiện việc đánh giá nhu cầu đào tạo và thông tin đối với Thẩm phán ;

- Chủ trì, phối hợp với các cơ sở đào tào có liên quan xây dựng chương trình đào tạo ban đầu và đào tạo đặc biệt cho Thẩm phán;

- Thực hiện các chương trình và bảo đảm sự đánh giá các chương trình đó.

b)- Phòng Đào tạo, Bồi dưỡng và Đào tạo lại Lục sự và Nhân viên Hành chính, có nhiệm vụ:

- Thực hiện việc đánh giá nhu cầu đào tạo về số lượng và chất lượng, mức độ;

- Xây dựng chương trình đào tạo ban đầu, chương trình đào tạo liên tục và bảo đảm việc đánh giá;

- Duy trì sự phù hợp giữa chương trình đào tạo Thẩm phán với đào tạo Lục sự và Nhân viên Hành chính;

III. Tổng vụ về Tài chính và Nguồn lực: có nhiệm vụ trang cấp về cơ sở hạ tầng và nguồn lực về tài chính, thiết bị cần thiết cho hoạt động của các Vụ chức năng của Bộ Tư pháp ở Trung ương và các cơ quan thuộc Bộ được phân quyền ở địa phương.

Tổng vụ về Tài chính và Nguồn lực có nhiệm vụ:

 - Soạn thảo chương trình, kế hoạch và thực hiện việc trang cấp cũng như giám sát và kiểm tra kế hoạch này;

- Xây dựng dự toán và trang cấp cho các cơ quan thuộc ngành Tư pháp;

- Quản lý kinh phí đáp ứng các hoạt động trong khuôn khổ hoạt động của Bộ;

- Xác định các yêu cầu cần thiết trong việc trang cấp và các nguồn lực khác cần thiết cho hoạt động của Bộ;

- Quản lý bất động sản và động sản của Bộ;

- Bảo đảm sự kiểm tra đối với các đơn vị ở Trung ương, các Sở Tư pháp và các cơ sở được bảo trợ khác;

Tổng vụ Tài chính và Nguồn lực có hai Vụ:

1- Vụ Tài chính và Kế toán có nhiệm vụ xây dựng dự toán ngân sách, quản lý tài sản và kế toán theo quy pháp luật hiện hành.

Vụ Tài chính và Kế toán có nhiệm vụ:

- Xây dựng và thực hiện các nghiệp vụ tài chính thuộc về ngân sách và trang cấp cho ngành Tư pháp;

- Xử lý, thực hiện các nghiệp vụ ngân sách, tài chính và kế toán liên quan đến hoạt động của ngành Tư pháp;

Vụ Tài chính và Kế toán có hai phòng:

a) Phòng cấp phát ngân sách có nhiệm vụ:

- Xây dựng dự toán ngân sách gắn liền với các hoạt động trang cấp;

- Xây dựng các yêu cầu ngân sách và giám sát việc sử dụng;

- Thực hiện các nghiệp vụ kế toán trong Bộ Tư pháp;

- Quản lý việc sử dụng ngân phiếu trong trang cấp;

b) Phòng Ngân sách có nhiệm vụ:

- Xây dựng dự toán tổng hợp cho các hoạt động của Bộ;

- Tiến hành phân bổ ngân sách cho các hoạt động và giám sát việc thực hiện;

- Thực hiện các hoạt động kế toán trong Bộ Tư pháp;

- Quản lý việc tiêu dùng ngân phiếu trong Bộ;

- Bảo đảm duy trì các tài khoản;

- Thực hiện việc quản lý về ngân sách theo các quy định pháp luật hiện hành;

- Tiến hành kiểm tra định kỳ, theo các quy định hiện hành, các hoạt động quản lý tài chính, kế toán thuộc ngành Tư pháp và bảo đảm sự kiểm tra việc thực hiện ngân sách;

- Thiết lập tài khoản hành chính của Bộ theo các quy định pháp luật hiện hành;

- Bảo đảm việc giám sát các báo cáo của các cơ quan kiểm tra.

2- Vụ Cơ sở hạ tầng và Nguồn lực có nhiệm vụ thống kê những yêu cầu về hạ tầng, thẩm tra các yêu cầu này và đảm bảo thực hiện.

Vụ Hạ tầng và Nguồn lực có nhiệm vụ:

- Bảo đảm quản lý và bảo quản động sản và bất động sản trong ngành Tư pháp;

- Đánh giá các nhu cầu về vật tư và trang cấp;

Vụ Hạ tầng và Nguồn lực có 3 phòng:

a) Phòng Hạ tầng và Trang cấp có nhiệm vụ:

- Tập hợp và phân tích, trong quá trình xây dựng kế hoạch, các đề nghị liên quan đến xây dựng, giám sát và kiểm tra việc thực hiện;

- Giám sát việc xây dựng các nội dung về kiến trúc và kỹ thuật;

- Bảo đảm thực hiện việc trang cấp và tổng kết;

- Kiểm tra các thoả thuận khác có liên quan trong lĩnh vực này;

- Triển khai và giám sát việc mở rộng và sắp xếp về nhà cửa và các công trình xây dựng trong ngành Tư pháp;

- Tiến hành việc tiếp nhận tạm thời và tiếp nhận vĩnh viễn các công trình xây dựng.

b) Phòng  Giao dịch và Hợp đồng có nhiệm vụ:

- Lập sổ theo dõi các hoạt động liên quan đến hạ tầng và trang cấp;

- Tiến hành lựa chọn đối tác ký kết hợp đồng về nghiên cứu đối với kiến trúc và kỹ thuật và chọn đối tác liên quan đến thực hiện việc xây dựng và trang cấp;

- Soạn thảo và ký kết hợp đồng nghiên cứu và hợp đồng xây dựng, trang cấp;

- Làm thư ký cho uỷ ban của Bộ về giao dịch công;

c) Phòng Các nguồn lực chung có nhiệm vụ:

- Duy trì bảo dưỡng các Toà nhà và phần phụ cận của các Cơ quan trong ngành Tư pháp;

- Bảo đảm sự  trùng tu và sửa chữa và kiểm kê bất động sản;

- Xác định nhu cầu và cung cấp thiết bị;

- Thực hiện việc mua sắm và phân bổ động sản và bất động sản;

- Bảo đảm quản lý hợp lý sân bãi (có thể là một dạng công viên).

IV. Tổng Vụ Đổi mới Tư pháp: có nhiệm vụ duy trì việc đổi mới của hệ thống tư pháp về tổ chức, trong hoạt động và về các mối quan hệ trong nước và quốc tế. 

Tổng Vụ đổi mới Tư pháp có nhiệm vụ:

- Đề xuất các hoạt động và các nguồn lực, phương tiện cần thiết để thúc đẩy việc tổ chức và đổi mới tư pháp và giám sát việc thực hiện;

- Bảo đảm việc bình thường hoá các thủ tục, văn bản, hồ sơ trong hoạt động xét xử và trong quản lý hành chính;

- Bảo đảm thúc đẩy việc sử dụng công nghệ thông tin, sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông;

Tổng vụ Đổi mới Tư pháp có hai Vụ:

1- Vụ về định hướng và tổ chức: có nhiệm vụ thưc hiện các nghiên cứu liên quan đến ngành Tư pháp và dự kiến mô hình tổ chức của hệ thống Tư pháp cũng như là phương pháp làm việc để tiến tới bộ máy Tư pháp hoạt động tốt.

Vụ Định hướng và Tổ chức  có các nhiệm vụ:

- Dự kiến mô hình chung về tổ chức bộ máy tư pháp trong các tiêu chí về chức năng, nhất là vấn đề về tập trung dân chủ, xu hướng kinh tế, tôn giáo và việctham khảo pháp luật quốc tế;

- Thực hiện đánh giá theo định kỳ các dịch vụ công trong lĩnh vực tư pháp, phương pháp làm việc trong lĩnh vực tư pháp và hành chính;

- Cùng với các tổ chức có liên quan phân tích những số liệu liên quan tới hoạt động xét xử và quản lý nhà tù;

Vụ Định hướng và Tổ chức có hai Phòng:

a) Phòng Định hướng có nhiệm vụ:

- Tiến hành dự kiến mô hình chung về tổ chức bộ máy cơ quan Tư pháp;

- Xác định nguồn lực cần thiết, bản chất, chất lượng và phạm vi các thông tin để tập hợp, xử lý và công bố;

- Kiến nghị và giám sát việc áp dụng những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả và sự gắn kết giữa các cơ quan;

- Đề xuất những biện pháp để hài hoà hoá những quy trình làm việc, đơn giản hoá và hạn chế chi chí cũng như tăng hiệu xuất làm việc;

- Chuẩn hoá và bảo đảm sự hài hoà các thủ tục và giấy tờ trong các cơ quan tư pháp và các cơ quan hành chính;

- Xác định các quy chuẩn về nguồn nhân lực và vật lực và nguồn lực tài chính để  phân bổ cho các cấu trúc khác nhau;

 - Góp phần vào việc xây dựng các thông số kỹ thuật cho những thử nghiệm mới trong khuôn khổ hiện đại hoá ngành Tư pháp và nhà tù.

b) Phòng Tổ chức, có nhiệm vụ:

- Thực hiện kiểm toán và nghiên cứu việc tổ chức các đơn vị dịch vụ và các tổ chức hành chính tư trong lĩnh vực tư pháp;

- Xúc tiến các nghiên cứu so sánh nhằm đánh giá hiệu quả của hệ thống tư pháp và mối quan hệ với các quy định của pháp luật quốc tế;

- Tham gia, trong phạm vi nhiệm vụ được giao, tham gia vào việc thúc đẩy và giám sát cải cách tư pháp.

2- Vụ Thông tin, Công nghệ thông tin và Truyền thông, có nhiệm vụ:

Sử dụng, giới thiệu và phổ biến tin học thông qua việc tham khảo các chuẩn mực quốc tế nhằm thúc đẩy tổ chức và hiện đại hoá ngành Tư pháp; thiết lập các hệ thống mới về trao đổi thông tin giữa các cơ quan trong ngành Tư pháp.

Vụ Thông tin, Công nghệ thông tin và Truyền thông có nhiệm vụ cụ thể sau:

- Bảo đảm bảo thúc đẩy việc sử dụng tin học; Công nghệ thông tin và Truyền thông ở tất cả các cấp của ngành Tư pháp;

- Xác định nhu cầu, giám sát việc thực hiện và bảo dưỡng các thiết bị và phầm mềm máy tính;

- Theo dõi sự phát triển của công nghệ tin học;

- Đưa vào sử dụng các tiêu chuẩn mới về điện thoại, internet và cài đặt mạng nội bộ trong ngành Tư pháp;

- Duy trì hoạt động mạng thông tin và tối ưu hoá việc sử dụng;

- Duy trì việc sử dụng công nghệ thông tin gắn với công nghệ mới phục vụ truyền thông các hoạt động Tư pháp.

Vụ Thông tin, Công nghệ thông tin và Truyền thông  có Hai phòng:

a) Phòng Hệ thống Thông tin, có nhiệm vụ:

- Xây dựng mô hình quản lý về tin học trong ngành Tư pháp;

- Xác định chi phí các hoạt động tin học và phương tiện đi kèm;

-  Chuẩn bị các tập san liên quan đến việc nghiên cứu và triển khai;

- Bố trí các thiết bị để duy trì hiệu xuất của các thiết bị tin học;

- Duy trì việc bố trí công nghệ tin học và truyền thông.

b) Phòng Ứng dụng công nghệ thông tin, có nhiệm vụ:

- Mua sắm và xây dựng các phần mềm tin học cơ bản;

- Xây dựng các điều kiện để đăng nhập cơ sở dữ liệu về tư pháp đối với đối tượng ở trong và ngoài ngành tư pháp;

- Bảo đảm giám sát các chương trình và phần mềm và việc sử dụng chúng;

- Góp phần tin học hoá cơ sở dữ liệu của ngành Tư pháp;

- Tổ chức các hệ thống để tập hợp, phân phối và khai thác, lưu giữ và công bố thông tin.

--------------------------------

Trích từ Công báo của Cộng hoà Algerie/N° 67 du 10 Ramadhan 1425 tương đương với ngày 24 tháng 10 năm 2004. (Nghị định hành pháp số N° 04-333 du 10 Ramadhan 1425 tương đương với ngày 24 tháng 10 năm 2004 về Tổ chức Cơ quan hành chính trung ương của Bộ Tư pháp).

         Vụ Hợp tác quốc tế nghiên cứu, tổng hợp