Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
1. Đặt vấn đề
Cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, trong các phong trào cách mạng, đội ngũ cán bộ luôn giữ vai trò hết sức quan trọng. Chỉ có đội ngũ cán bộ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của từng thời kỳ thì việc xác định đường lối, chính sách mới đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, đồng thời việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chính sách mới trở thành hiện thực và cách mạng mới giành được thắng lợi. Trong quá trình hoạt động cách mạng, kể từ ngày thành lập tổ chức đầu tiên - Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (21/6/1925), thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930), Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của cách mạng. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự thành công hay thất bại của cách mạng, yếu tố hàng đầu là cán bộ. Người khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việcmuôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, Người coi cán bộ tư pháp là “bậc trí thức” có “trách nhiệm nặng nề và vẻ vang” là phải “làm gương cho dân trong mọi việc”. Cán bộ tư pháp là “viên chức của Chính phủ dân chủ cộng hòa” và do đó, “nhiệm vụ của các bạn là phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủCác bạn là những người phụ trách thi hành pháp luậtphải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp”, “chí công vô tư cho nhân dân noi theo” (Thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc năm 1948).[1]
Tư tưởng về cán bộ và công tác cán bộ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt coi trọng vai trò của đội ngũ cán bộ, luôn đặt công tác cán bộ lên vị trí hàng đầu trong các công tác của Đảng và Nhà nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn bởi kết tinh giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là sự đúc kết từ chính quá trình thực tiễn phát hiện, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ trong cách mạng Việt Nam của Người. Việc vận dụng quan điểm, tư tưởng của Người về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn là yêu cầu bức thiết của công tác xây dựng Đảng hiện nay, đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đủ sức tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
2. Khái quát về đội ngũ cán bộ tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp hiện nay
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang trực tiếp quản lý khoảng 10.639 cán bộ, công chức, viên chức trong các đơn vị thuộc Bộ và hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn quản lý về chuyên môn nghiệp vụ đối với đội ngũ làm công tác tư pháp tại địa phương với khoảng 4.305 người làm việc tại các Sở Tư pháp, 2.848 người làm việc tại các Phòng Tư pháp và 18.091 công chức Tư pháp - Hộ tịch.
Về chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức, trong số công chức, viên chức do Bộ Tư pháp trực tiếp quản lý có 1.383 người có trình độ trên đại học (chiếm 13%), 8.584 người có trình độ cử nhân (chiếm 80,7%), còn lại là trình độ khác. Đối với đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương, có 1.057 người có trình độ trên đại học (chiếm 4,2%), 20.086 người có trình độ cử nhân, cao đẳng (chiếm 80%), còn lại là trình độ khác.
Có thể nói, đội ngũ công chức, viên chức của Bộ, ngành Tư pháp đa số được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học theo yêu cầu tiêu chuẩn chức danh đảm nhận; cơ bản có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, đoàn kết, không có biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Bộ, ngành Tư pháp qua các thời kỳ.
3. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp thời gian quaNhững quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, là những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, vừa thể hiện những nguyên tắc cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa chứa đựng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta; những quan điểm, tư tưởng đó chính là kim chỉ nam cho công tác cán bộ của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Tại Bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành Tư pháp 1950, Người xác định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp phần thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Vấn đề tư pháp là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải tăng cường luật pháp dân chủ, cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn”. Bác căn dặn cán bộ Tư pháp “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính sách của Chính phủ…
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có ý nghĩa to lớn, quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Công tác cán bộ gồm nhiều khâu: tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng và chính sách cán bộ. Ðó là các khâu liên hoàn, trong đó việc lựa chọn cán bộ là khâu đầu tiên và rất quan trọng “khâu chọn giống, nếu giống tốt ắt cây sẽ tốt”
Việc lựa chọn cán bộ phải dựa theo các tiêu chí: “Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh; Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng... Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn... Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn; Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”.
Trong khâu huấn luyện, đào tạo cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Ðảng”. Huấn luyện cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, nghề nghiệp theo phương châm “Làm việc gì học việc ấy”[2] và huấn luyện cán bộ phải cả về chính trị vì cán bộ nếu giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm mà không có chính trị như “một mắt sáng một mắt mờ”, làm cho cán bộ thiếu vững vàng về lập trường tư tưởng, niềm tin vào con đường đi lên của đất nước và nguy hại hơn nữa là “một sự ngu dốt này làm phát sinh một sự ngu dốt khác và một sai lầm này gây nên các sai lầm khác”[3]. Người cán bộ khó đạt được hiệu quả cao trong công tác. Theo Hồ Chí Minh, huấn luyện cán bộ còn phải huấn luyện cả về văn hóa và phải hiểu theo nghĩa rộng là ngoài việc bồi dưỡng kiến thức văn hóa phổ thông, cần huấn luyện những môn bổ trợ để giúp người cán bộ vừa có hiểu biết rộng trên nhiều lĩnh vực, hiểu dân, vừa có kiến thức chuyên sâu. Người cán bộ cách mạng càng kiến thức văn hóa cao, thì sẽ đáp ứng được những yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao. Để công tác huấn luyện lý luận đạt kết quả tốt, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách huấn luyện là “trong lúc học lý luận phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế”. Bảo đảm là sau khi học “họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị, có thể làm được những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực, có ích thay vì “chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích”.[4]
Trong khâu đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh chỉ ra đánh giá cán bộ phải tiến hành thường xuyên, khách quan, toàn diện. Đánh giá cán bộ phải tiến hành thường xuyên thì mới“biết rõ cán bộ“, nắm chắc đội ngũ cán bộ để có chính sách và biện pháp thích hợp, giúp bố trí cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đánh giá cán bộ phải khách quan, phải hiểu cán bộ, chú ý phẩm chất, năng lực và hiệu quả công việc, trong đó phải chú trọng đến phẩm chất đạo đức và coi đây là yếu tố quan trọng nhất trong đánh giá cán bộ. Hồ Chí Minh chỉ rõAi mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt”. Ngược lại: “ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh của họ thế nào lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”[5]; phải đứng trên quan điểm “động” và “phát triển” vì “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của con người cũng biến hóa. Vì vậy, cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa. Một người cán bộ khi trước không có sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm, quá khứ, hiện tại và tương lai của một người không phải luôn luôn giống nhau”[6]. Đánh giá cán bộ phải có cái nhìn toàn diện, bao quát, tổng thể về quá trình rèn luyện, phấn đấu của từng cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ...”[7]. Để đánh giá đúng cán bộ, phải căn cứ theo các tiêu chí và kết quả thực tiễn công tác của cán bộ.
Trong sử dụng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải “khéo dùng người”, nói cách khác phải dùng đúng người, đúng việc, đúng năng lực, sở trường, làm cho cán bộ thoải mái, yên tâm công tác và cống hiến. “Dùng cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cơ thất bại”, ví như “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử cả hai người đều lúng túng”. Người cho rằng phải biết chăm lo phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài và sử dụng nhân tài một cách hợp lý. Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”[8]
Những năm qua, Bộ Tư pháp đã vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ công chức, viên chức Bộ “vừa hồng vừa chuyên”, “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Bộ, ngành Tư pháp trong từng giai đoạn và đạt được nhiều kết quả tích cực. Khái quát một số kết quả cơ bản như sau:
- Trong công tác tuyển dụng, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, Bộ Tư pháp thường xuyên quan tâm, chú trọng nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng công chức, viên chức và đảm bảo minh bạch, khách quan, công bằng trong công tác này. Bên cạnh việc tổ chức các kỳ thi tuyển dụng nghiêm túc, chặt chẽ, cách thức ra đề thi và nội dung đề thi cũng thường xuyên được rà soát, đánh giá và đổi mới để bảo đảm đánh giá được đúng tư duy, năng lực, sự hiểu biết của thí sinh; điều kiện, tiêu chuẩn ngày càng có sự chuyên biệt theo yêu cầu của từng vị trí việc làm cần tuyển và phù hợp với đặc thù công việc của từng cơ quan, đơn vị. Ngoài việc tổ chức kỳ thi tuyển theo quy định chung, Bộ Tư pháp đã quan tâm thu hút những người có phẩm chất, năng lực vào công tác tại các đơn vị thuộc Bộ thông qua việc tổ chức các đợt tuyển dụng, tiếp nhận công chức không qua thi tuyển để thu hút, tuyển dụng những người có tài năng, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc, những người đã có năng lực, kinh nghiệm công tác vào làm việc tại các đơn vị thuộc Bộ, tạo nguồn nhân lực đầu vào có chất lượng để phát triển đội ngũ công chức, viên chức của Bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Bộ, Ngành được giao ngày càng nhiều và đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng và tiến độ.
- Trong công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, xác định đây là “vun trồng” để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt bảo đảm lãnh đạo tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngànhhàng năm, Bộ và các đơn vị đều thực hiện rà soát, xây dựng, bổ sung quy hoạch cán bộ theo đúng nguyên tắc, trong đó có đánh giá kỹ để lựa chọn trúng người có phẩm chất, năng lực, tố chất lãnh đạo, quản lý đưa vào quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn vị cũng như đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ phẩm chất, năng lực, điều kiện, tiêu chuẩn; mở rộng dân chủ trong việc phát hiện nguồn, nhân tố mới, có sự quan tâm tới phát triển đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ khoa học được đào tạo cơ bản, có triển vọng phát triển để đưa vào quy hoạch, đáp ứng yêu cầu công tác cán bộ trong thời kỳ mới, tạo được sự thống nhất giữa các cấp trong triển khai công tác quy hoạch cán bộ. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, hằng năm, Bộ và các đơn vị đều chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện để nâng cao trình độ các mặt cho các cán bộ trong quy hoạch.
- Trong công tác bổ nhiệm và bố trí, sử dụng cán bộ, việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý luôn được thực hiện thận trọng, chặt chẽ theo đúng quy trình và tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, khách quan, công bằng, lựa chọn, bố trí đúng người đúng vị trí, dựa trên kết quả đánh giá cán bộ. Để tạo thêm môi trường đánh giá, lựa chọn và thu hút cán bộ có phẩm chất, năng lực vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, Bộ Tư pháp đã tổ chức thực hiện 03 kỳ thi tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý cấp Vụ, qua đó đã bổ nhiệm 05 đồng chí Lãnh đạo cấp Vụ qua thi tuyển cạnh tranh, tạo được bước đột phá trong việc lựa chọn người có phẩm chất, trình độ, năng lực vào các vị trí lãnh đạo, quản lý của Bộ. Kết quả công tác của các cán bộ được bổ nhiệm qua thi tuyển đều được thể hiện rõ nét, khẳng định chủ trương đúng đắn và chất lượng, hiệu quả của việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, cần được tiếp tục nhân rộng trong thời gian tới.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ được thực hiện theo vị trí việc làm, khung năng lực, bản mô tả công việc và tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Bộ Tư pháp cũng đã xây dựng và ban hành Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp. Đây là những định hướng chuẩn mực cho cán bộ của Ngành trong thực thi công vụ với yêu cầu “phải nêu cao cái gương “Phụng công, Thủ pháp, Chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”. Công chức, viên chức ở các đơn vị được thường xuyên rà soát, cơ cấu lại kết hợp với việc thực hiện tinh giản biên chế và luân chuyển, điều động để vừa đào tạo, bồi dưỡng vừa bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ công chức, viên chức phù hợp với trình độ, năng lực, khả năng, sở trường của từng công chức, viên chức, từ đó phát huy tối đa tiềm năng của cán bộ trong hoạt động công vụ.
- Trong công tác đánh giá cán bộ, định kỳ hàng năm, công tác đánh giá cán bộ đều được thực hiện nghiêm túc, nề nếp, thường xuyên trên cơ sở các quy định của Đảng, pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp các chức danh cán bộ; lấy phẩm chất làm gốc để đánh giá và hiệu quả công việc là thước đo, từng bước lượng hóa các tiêu chí đánh giá để đánh giá đúng, thực chất về cán bộ; các bước đánh giá đều đi từ tập thể, kết hợp với sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân để đánh giá. Qua đánh giá, phân loại công chức, viên chức hàng năm, phần lớn công chức, viên chức đều được đánh giá, phân loại ở mức độ hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; tỷ lệ công chức, viên chức được đánh giá, phân loại ở mức độ hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực hoặc không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ rất thấp. Kết quả đánh giá, phân loại được thông báo công khai, dân chủ trong cơ quan, đơn vị làm cơ sở để thực hiện các khâu khác trong công tác cán bộ như: quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, nâng bậc lương, nâng ngạch, đào tạo, bồi dưỡng, tinh giản biên chế… Nhiều trường hợp tinh giản biên chế được thực hiện thông qua kết quả đánh giá, phân loại công chức, viên chức hàng năm, nhằm sàng lọc, tinh giản các công chức, viên chức không đủ năng lực, trình độ, tiêu chuẩn và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu công việc được giao. Trong năm 2019, Viện Khoa học pháp lý đã nghiệm thu Đề án đổi mới cơ chế đánh giá công chức, viên chức của Bộ Tư pháp, trong đó tiếp tục lượng hóa các tiêu chí đánh giá cán bộ phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực công tác, với thang điểm chi tiết, cụ thể, bổ sung cơ cở để đánh giá chính xác và chặt chẽ, mở rộng đối tượng tham gia đánh giá cán bộ, đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị trong đánh giá cán bộ. Hiện nay, Đề án đang được đưa vào để triển khai thực hiện ở các đơn vị thuộc Bộ với mong muốn đạt được hiệu quả thực chất hơn trong công tác đánh giá cán bộ.
- Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức được quan tâm đầu tư, chú trọng theo yêu cầu của khung năng lực vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên được chuẩn hóa, cập nhật kỹ năng làm việc, kiến thức thực tiễn, những vấn đề thời sự, đạo đức, lòng tự trọng nghề nghiệp, tinh thần dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngày càng phong phú, phù hợp hơn với xu thế hiện đại, đặc thù công việc của các đơn vị, tạo môi trường học tập thuận lợi cho công chức, viên chức để xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, tinh thông và có phẩm chất trong sáng. Kết hợp giữa bồi dưỡng kiến thức toàn diện về đạo đức, chính trị, quản lý nhà nước, tin học, quốc phòng - an ninh với bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, hoạch định và phản ứng chính sách và ngoại ngữ, đồng thời quan tâm, chú trọng bồi dưỡng cho đội ngũ công chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu để hình thành đội ngũ chuyên gia tương lai trong các lĩnh vực quản lý của Bộ.
4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Bộ, ngành Tư pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới
Trên cơ sở vận dụng quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay, trong thời gian tới cần phải tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt nội dung tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức và cụ thể hoá các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ. Đẩy mạnh việc thực hiện học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và nêu gương của cán bộ, đảng viên, tạo chuyển biến tích cực trong toàn cơ quan, đơn vị, nhất là cán bộ, đảng viên giữ các chức danh chủ chốt, các chức danh tư pháp và những cán bộ trực tiếp giải quyết các công việc của người dân.
Thứ hai, tiếp tục quan tâm tới công tác tuyển dụng cán bộ, phải đúng quy trình, dân chủ, công khai và có sự đổi mới về cách thức thi tuyển để tuyển chọn được đúng người có phẩm chất, năng lực, phù hợp với yêu cầu vị trí việc làm và có cơ chế thuận lợi để thu hút nhân tài, người có tài năng vào làm việc trong hệ thống chính trị. Đổi mới, nâng cao chất lượng bố trí, sử dụng cán bộ ngày càng hiệu quả. Việc lựa chọn, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ là khâu then chốt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác cán bộ. Tập trung kiện toàn cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng; mở rộng thực hiện thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý để lựa chọn cán bộ giỏi, có phẩm chất, năng lực vào các chức danh lãnh đạo, quản ký. Tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa và thực hiện hiệu quả các quy chế nội bộ về công tác bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Xem luân chuyển, điều động cán bộ là giải pháp đột phá của công tác cán bộ nhằm rèn luyện, bồi dưỡng và thử thách cán bộ, nhất là cán bộ trẻ; có chế độ, chính sách đối với cán bộ luân chuyển để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả thực hiện công tác này; thực hiện việc điều động, chuyển đổi cán bộ giữ chức vụ 2 nhiệm kỳ liên tiếp ở một cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, quan tâm nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ, xem đó là khâu đột phá, quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác cán bộ. Tổ chức thực hiện có hiệu Đề án đổi mới cơ chế đánh giá công chức, viên chức của Bộ. Việc đánh giá đúng cán bộ sẽ là tiền đề quan trọng để tiến hành thực hiện có hiệu quả các khâu khác trong công tác cán bộ.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chủ động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu và toàn diện đòi hỏi phải nâng tầm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, của Bộ, Ngành nói riêng về cả kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý và phong cách, phương pháp công tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Do đó, xác định đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo hằng năm, nhiệm kỳ; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng qua thực tiễn công tác; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng với đào tạo, bồi dưỡng nhận thức, bản lĩnh chính trị, đạo đức công vụ; đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý, chuyên gia giỏi trong một số lĩnh vực và đủ năng lực tham mưu, đề xuất với Chính phủ trong giải quyết các vấn đề pháp lý phục vụ yêu cầu phát triển hội nhập quốc tế; xây dựng Đề án, chiến lược, quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, công chức trẻ trình độ chuyên môn sâu.... Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cán bộ, công chức, tập trung bồi dưỡng lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải luôn gắn sát với yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra hiện nay và đảm bảo đúng quy trình, cơ cấu, số lượng.
Thực tế cho thấy, ở bất kỳ lĩnh vực nào, muốn nâng cao uy tín của mỗi cán bộ đảng viên thì cần phải thường xuyên nâng cao trình độ năng lực. Chất lượng hiệu quả công việc phụ thuộc vào trình độ năng lực của người cán bộ hay nói cách khác chất lượng hoàn thành nhiệm vụ chính là thước đo năng lực của người cán bộ. Sinh thời Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc rèn đức, luyện tài cho mỗi cán bộ, đảng viên, Bác nói: “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích được gì ai”. Để đáp ứng được nhiệm vụ yêu cầu hiện nay đòi hỏi mỗi cán bộ cũng phải không ngừng phấn đấu tự học, tự rèn nâng cao kiến thức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ năm, tạo môi trường tự rèn luyện tác phong công tác phù hợp, đề cao kỷ luật công vụ và trách nhiệm nêu gương. Thực tế đòi hỏi mỗi cán bộ phải thực sự gương mẫu, nói đi đôi với làm, phải có tinh thần tập thể, công bằng, công tâm, chính tâm…
Là cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ đảm nhận vị trí người đứng đầu, muốn hoàn thành nhiệm vụ có chất lượng hiệu quả thì cần phải có phong cách, tác phong công tác phù hợp. Đó là phong cách làm việc có kế hoạch, hiệu quả, chính xác, tỷ mỷ, sâu sát, cụ thể tránh đại khái, qua loa, quan liêu, hình thức. Người cán bộ, đảng viên cần phải có phong cách, tác phong dân chủ, vì tập thể. Luôn luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến của quần chúng và cấp dưới, luôn xuất phát từ lợi ích của tập thể, của xã hội, vì quyền lợi chung, vì dân vì nước để có quyết định đúng đắn kịp thời, chính xác. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra thiếu sót của cán bộ, đảng viên về phong cách lãnh đạo, đó là: “… Phải khắc phục hiện tượng thiếu tập thể, thiếu dân chủ, khắc phục tác phong quan liêu mệnh lệnh, phải nghe ngóng ý kiến của cán bộ và nhân dân”. Trong thực tế, cán bộ phải dám nghĩ, dám làm, quyết đoán, chịu trách nhiệm về các quyết định và hành động của mình nhưng không mất dân chủ. Không được định kiến, hẹp hòi mà phải khoan dung, đại lượng, biết xử sự có lý có tình, vẫn giữ nguyên tắc mà không quan liêu, hách dịch, không làm mất lòng dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ rõ: Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Thứ sáu, xây dựng môi trường làm việc đoàn kết, chuyên nghiệp, dân chủ, công bằng, khách quan, minh bạch và quan tâm tới đời sống tinh thần, vật chất đối với công chức, viên chức để khyến khích, động viên cán bộ, công chức vừa giúp họ có điều kiện chăm lo cho xây dựng và phát triển cuộc sống gia đình bền vững và thu hút được nhân tài vào đội ngũ cán bộ, công chức. Do vậy, cần nghiên cứu, đề xuất chính sách đãi ngộ theo hướng nâng cao mức sống của cán bộ, công chức; các chính sách khác bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, công chức vừa phát huy hiệu quả trong công tác, vừa nâng cao mức sống gia đình./Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp[1] Hồ Chí Minh tuyển tập, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2002, tr. 274-275.[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 270.[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 83.[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 272.[5]Hồ Chí Minh: Toàn tập t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 318.[6]Hồ Chí Minh: Toàn tập t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 317.[7]Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 318. [8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 314-319.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp
26/11/2020
1. Đặt vấn đề
Cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của cách mạng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy, trong các phong trào cách mạng, đội ngũ cán bộ luôn giữ vai trò hết sức quan trọng. Chỉ có đội ngũ cán bộ ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng của từng thời kỳ thì việc xác định đường lối, chính sách mới đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, đồng thời việc lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chính sách mới trở thành hiện thực và cách mạng mới giành được thắng lợi. Trong quá trình hoạt động cách mạng, kể từ ngày thành lập tổ chức đầu tiên - Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội (21/6/1925), thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930), Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi cán bộ và công tác cán bộ là nhân tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành bại của cách mạng. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng sự thành công hay thất bại của cách mạng, yếu tố hàng đầu là cán bộ. Người khẳng định: “
Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “
muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Đối với đội ngũ cán bộ tư pháp, Người coi cán bộ tư pháp là “
bậc trí thức” có “
trách nhiệm nặng nề và vẻ vang” là phải “
làm gương cho dân trong mọi việc”. Cán bộ tư pháp là “
viên chức của Chính phủ dân chủ cộng hòa” và do đó, “
nhiệm vụ của các bạn là phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ”. “
Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật,
phải nêu cao cái gương “phụng công, thủ pháp”, “chí công vô tư cho nhân dân noi theo” (Thư gửi Hội nghị tư pháp toàn quốc năm 1948).
[1]
Tư tưởng về cán bộ và công tác cán bộ là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống tư tưởng chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt coi trọng vai trò của đội ngũ cán bộ, luôn đặt công tác cán bộ lên vị trí hàng đầu trong các công tác của Đảng và Nhà nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có giá trị lý luận và thực tiễn to lớn bởi kết tinh giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là sự đúc kết từ chính quá trình thực tiễn phát hiện, đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ trong cách mạng Việt Nam của Người. Việc vận dụng quan điểm, tư tưởng của Người về công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý luôn là yêu cầu bức thiết của công tác xây dựng Đảng hiện nay, đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đủ sức tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
2. Khái quát về đội ngũ cán bộ tư pháp của Bộ, ngành Tư pháp hiện nay
Hiện nay, Bộ Tư pháp đang trực tiếp quản lý khoảng
10.639 cán bộ, công chức, viên chức trong các đơn vị thuộc Bộ và hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự. Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn quản lý về chuyên môn nghiệp vụ đối với đội ngũ làm công tác tư pháp tại địa phương với khoảng
4.305 người làm việc tại các Sở Tư pháp,
2.848 người làm việc tại các Phòng Tư pháp và
18.091 công chức Tư pháp - Hộ tịch.
Về chất lượng của đội ngũ công chức, viên chức, trong số công chức, viên chức do Bộ Tư pháp trực tiếp quản lý có
1.383 người có trình độ trên đại học (chiếm 13%),
8.584 người có trình độ cử nhân (chiếm 80,7%), còn lại là trình độ khác. Đối với đội ngũ cán bộ tư pháp địa phương, có
1.057 người có trình độ trên đại học (chiếm 4,2%),
20.086 người có trình độ cử nhân, cao đẳng (chiếm 80%), còn lại là trình độ khác.
Có thể nói, đội ngũ công chức, viên chức của Bộ, ngành Tư pháp đa số được đào tạo cơ bản, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học theo yêu cầu tiêu chuẩn chức danh đảm nhận; cơ bản có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, đoàn kết, không có biểu hiện suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống và đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của Bộ, ngành Tư pháp qua các thời kỳ.
3. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp thời gian qua
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ, là những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, vừa thể hiện những nguyên tắc cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam, vừa chứa đựng những truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta; những quan điểm, tư tưởng đó chính là kim chỉ nam cho công tác cán bộ của Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Tại Bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị học tập của cán bộ ngành Tư pháp 1950, Người xác định: “Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của chính quyền góp phần thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Vấn đề tư pháp là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải yêu nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải tăng cường luật pháp dân chủ, cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn”. Bác căn dặn cán bộ Tư pháp “Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính sách của Chính phủ…”.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ, công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp có ý nghĩa to lớn, quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Công tác cán bộ gồm nhiều khâu: tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, sử dụng và chính sách cán bộ. Ðó là các khâu liên hoàn, trong đó việc lựa chọn cán bộ là khâu đầu tiên và rất quan trọng “khâu chọn giống, nếu giống tốt ắt cây sẽ tốt”.
Việc lựa chọn cán bộ phải dựa theo các tiêu chí: “Những người đã tỏ ra rất trung thành và hăng hái trong công việc, trong lúc đấu tranh; Những người liên lạc mật thiết với dân chúng, hiểu biết dân chúng... Những người có thể phụ trách giải quyết các vấn đề, trong những hoàn cảnh khó khăn... Khi thất bại không hoang mang, khi thắng lợi không kiêu ngạo. Khi thi hành các nghị quyết kiên quyết, gan góc không sợ khó khăn; Những người luôn luôn giữ đúng kỷ luật”.
Trong khâu huấn luyện, đào tạo cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Ðảng”. Huấn luyện cán bộ về chuyên môn, nghiệp vụ, nghề nghiệp theo phương châm “Làm việc gì học việc ấy”[2] và huấn luyện cán bộ phải cả về chính trị vì cán bộ nếu giỏi chuyên môn, giàu kinh nghiệm mà không có chính trị như “một mắt sáng một mắt mờ”, làm cho cán bộ thiếu vững vàng về lập trường tư tưởng, niềm tin vào con đường đi lên của đất nước và nguy hại hơn nữa là “một sự ngu dốt này làm phát sinh một sự ngu dốt khác và một sai lầm này gây nên các sai lầm khác”[3]. Người cán bộ khó đạt được hiệu quả cao trong công tác. Theo Hồ Chí Minh, huấn luyện cán bộ còn phải huấn luyện cả về văn hóa và phải hiểu theo nghĩa rộng là ngoài việc bồi dưỡng kiến thức văn hóa phổ thông, cần huấn luyện những môn bổ trợ để giúp người cán bộ vừa có hiểu biết rộng trên nhiều lĩnh vực, hiểu dân, vừa có kiến thức chuyên sâu. Người cán bộ cách mạng càng kiến thức văn hóa cao, thì sẽ đáp ứng được những yêu cầu thực hiện nhiệm vụ cách mạng ngày càng cao. Để công tác huấn luyện lý luận đạt kết quả tốt, Hồ Chí Minh đã chỉ ra cách huấn luyện là “trong lúc học lý luận phải nghiên cứu công việc thực tế, kinh nghiệm thực tế”. Bảo đảm là sau khi học “họ có thể tự mình tìm ra phương hướng chính trị, có thể làm được những công việc thực tế, có thể trở nên người tổ chức và lãnh đạo. Thế là lý luận thiết thực, có ích thay vì “chỉ đem lý luận khô khan nhét cho đầy óc họ. Rồi bày cho họ viết những chương trình, những hiệu triệu rất kêu. Nhưng đối với việc thực tế tuyên truyền, vận động, tổ chức, kinh nghiệm chỉ nói qua loa mà thôi. Thế là lý luận suông, vô ích”.[4]
Trong khâu đánh giá cán bộ, Hồ Chí Minh chỉ ra đánh giá cán bộ phải tiến hành thường xuyên, khách quan, toàn diện. Đánh giá cán bộ phải tiến hành thường xuyên thì mới“biết rõ cán bộ“, nắm chắc đội ngũ cán bộ để có chính sách và biện pháp thích hợp, giúp bố trí cán bộ phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đánh giá cán bộ phải khách quan, phải hiểu cán bộ, chú ý phẩm chất, năng lực và hiệu quả công việc, trong đó phải chú trọng đến phẩm chất đạo đức và coi đây là yếu tố quan trọng nhất trong đánh giá cán bộ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt”. Ngược lại: “ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh của họ thế nào lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt”[5]; phải đứng trên quan điểm “động” và “phát triển” vì “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của con người cũng biến hóa. Vì vậy, cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa. Một người cán bộ khi trước không có sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm, quá khứ, hiện tại và tương lai của một người không phải luôn luôn giống nhau”[6]. Đánh giá cán bộ phải có cái nhìn toàn diện, bao quát, tổng thể về quá trình rèn luyện, phấn đấu của từng cán bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Xem xét cán bộ, không chỉ xem ngoài mặt mà còn phải xem tính chất của họ. Không chỉ xem một việc, một lúc mà phải xem toàn cả lịch sử, toàn cả công việc của họ...”[7]. Để đánh giá đúng cán bộ, phải căn cứ theo các tiêu chí và kết quả thực tiễn công tác của cán bộ.
Trong sử dụng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn phải “khéo dùng người”, nói cách khác phải dùng đúng người, đúng việc, đúng năng lực, sở trường, làm cho cán bộ thoải mái, yên tâm công tác và cống hiến. “Dùng cán bộ không đúng tài năng của họ, cũng là một cơ thất bại”, ví như “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao. Thành thử cả hai người đều lúng túng”. Người cho rằng phải biết chăm lo phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nhân tài và sử dụng nhân tài một cách hợp lý. Việc trọng dụng nhân tài theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là phải làm thường xuyên, liên tục như “người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta”.[8]
Những năm qua, Bộ Tư pháp đã vận dụng có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ để xây dựng đội ngũ công chức, viên chức Bộ “vừa hồng vừa chuyên”, “phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Bộ, ngành Tư pháp trong từng giai đoạn và đạt được nhiều kết quả tích cực. Khái quát một số kết quả cơ bản như sau:
- Trong công tác tuyển dụng, nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, Bộ Tư pháp thường xuyên quan tâm, chú trọng nâng cao chất lượng công tác tuyển dụng công chức, viên chức và đảm bảo minh bạch, khách quan, công bằng trong công tác này. Bên cạnh việc tổ chức các kỳ thi tuyển dụng nghiêm túc, chặt chẽ, cách thức ra đề thi và nội dung đề thi cũng thường xuyên được rà soát, đánh giá và đổi mới để bảo đảm đánh giá được đúng tư duy, năng lực, sự hiểu biết của thí sinh; điều kiện, tiêu chuẩn ngày càng có sự chuyên biệt theo yêu cầu của từng vị trí việc làm cần tuyển và phù hợp với đặc thù công việc của từng cơ quan, đơn vị. Ngoài việc tổ chức kỳ thi tuyển theo quy định chung, Bộ Tư pháp đã quan tâm thu hút những người có phẩm chất, năng lực vào công tác tại các đơn vị thuộc Bộ thông qua việc tổ chức các đợt tuyển dụng, tiếp nhận công chức không qua thi tuyển để thu hút, tuyển dụng những người có tài năng, sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc, những người đã có năng lực, kinh nghiệm công tác vào làm việc tại các đơn vị thuộc Bộ, tạo nguồn nhân lực đầu vào có chất lượng để phát triển đội ngũ công chức, viên chức của Bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Bộ, Ngành được giao ngày càng nhiều và đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng và tiến độ.
- Trong công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, xác định đây là “vun trồng” để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt bảo đảm lãnh đạo tổ chức thực hiện thành công các nhiệm vụ chính trị của Bộ, Ngành, hàng năm, Bộ và các đơn vị đều thực hiện rà soát, xây dựng, bổ sung quy hoạch cán bộ theo đúng nguyên tắc, trong đó có đánh giá kỹ để lựa chọn trúng người có phẩm chất, năng lực, tố chất lãnh đạo, quản lý đưa vào quy hoạch các chức danh lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn vị cũng như đưa ra khỏi quy hoạch những người không còn đủ phẩm chất, năng lực, điều kiện, tiêu chuẩn; mở rộng dân chủ trong việc phát hiện nguồn, nhân tố mới, có sự quan tâm tới phát triển đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cán bộ khoa học được đào tạo cơ bản, có triển vọng phát triển để đưa vào quy hoạch, đáp ứng yêu cầu công tác cán bộ trong thời kỳ mới, tạo được sự thống nhất giữa các cấp trong triển khai công tác quy hoạch cán bộ. Trên cơ sở quy hoạch cán bộ, hằng năm, Bộ và các đơn vị đều chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện để nâng cao trình độ các mặt cho các cán bộ trong quy hoạch.
- Trong công tác bổ nhiệm và bố trí, sử dụng cán bộ, việc bổ nhiệm các chức danh lãnh đạo, quản lý luôn được thực hiện thận trọng, chặt chẽ theo đúng quy trình và tôn trọng các nguyên tắc dân chủ, khách quan, công bằng, lựa chọn, bố trí đúng người đúng vị trí, dựa trên kết quả đánh giá cán bộ. Để tạo thêm môi trường đánh giá, lựa chọn và thu hút cán bộ có phẩm chất, năng lực vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, Bộ Tư pháp đã tổ chức thực hiện 03 kỳ thi tuyển các chức danh lãnh đạo, quản lý cấp Vụ, qua đó đã bổ nhiệm 05 đồng chí Lãnh đạo cấp Vụ qua thi tuyển cạnh tranh, tạo được bước đột phá trong việc lựa chọn người có phẩm chất, trình độ, năng lực vào các vị trí lãnh đạo, quản lý của Bộ. Kết quả công tác của các cán bộ được bổ nhiệm qua thi tuyển đều được thể hiện rõ nét, khẳng định chủ trương đúng đắn và chất lượng, hiệu quả của việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, cần được tiếp tục nhân rộng trong thời gian tới.
Việc bố trí, sử dụng cán bộ được thực hiện theo vị trí việc làm, khung năng lực, bản mô tả công việc và tiêu chuẩn chức danh cán bộ. Bộ Tư pháp cũng đã xây dựng và ban hành Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức ngành Tư pháp. Đây là những định hướng chuẩn mực cho cán bộ của Ngành trong thực thi công vụ với yêu cầu “phải nêu cao cái gương “Phụng công, Thủ pháp, Chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”. Công chức, viên chức ở các đơn vị được thường xuyên rà soát, cơ cấu lại kết hợp với việc thực hiện tinh giản biên chế và luân chuyển, điều động để vừa đào tạo, bồi dưỡng vừa bố trí, sử dụng hợp lý đội ngũ công chức, viên chức phù hợp với trình độ, năng lực, khả năng, sở trường của từng công chức, viên chức, từ đó phát huy tối đa tiềm năng của cán bộ trong hoạt động công vụ.
- Trong công tác đánh giá cán bộ, định kỳ hàng năm, công tác đánh giá cán bộ đều được thực hiện nghiêm túc, nề nếp, thường xuyên trên cơ sở các quy định của Đảng, pháp luật và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp các chức danh cán bộ; lấy phẩm chất làm gốc để đánh giá và hiệu quả công việc là thước đo, từng bước lượng hóa các tiêu chí đánh giá để đánh giá đúng, thực chất về cán bộ; các bước đánh giá đều đi từ tập thể, kết hợp với sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân để đánh giá. Qua đánh giá, phân loại công chức, viên chức hàng năm, phần lớn công chức, viên chức đều được đánh giá, phân loại ở mức độ hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; tỷ lệ công chức, viên chức được đánh giá, phân loại ở mức độ hoàn thành nhiệm vụ nhưng còn hạn chế về năng lực hoặc không hoàn thành nhiệm vụ chiếm tỷ lệ rất thấp. Kết quả đánh giá, phân loại được thông báo công khai, dân chủ trong cơ quan, đơn vị làm cơ sở để thực hiện các khâu khác trong công tác cán bộ như: quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, nâng bậc lương, nâng ngạch, đào tạo, bồi dưỡng, tinh giản biên chế… Nhiều trường hợp tinh giản biên chế được thực hiện thông qua kết quả đánh giá, phân loại công chức, viên chức hàng năm, nhằm sàng lọc, tinh giản các công chức, viên chức không đủ năng lực, trình độ, tiêu chuẩn và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ để đáp ứng yêu cầu công việc được giao. Trong năm 2019, Viện Khoa học pháp lý đã nghiệm thu Đề án đổi mới cơ chế đánh giá công chức, viên chức của Bộ Tư pháp, trong đó tiếp tục lượng hóa các tiêu chí đánh giá cán bộ phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực công tác, với thang điểm chi tiết, cụ thể, bổ sung cơ cở để đánh giá chính xác và chặt chẽ, mở rộng đối tượng tham gia đánh giá cán bộ, đồng thời xác định rõ vai trò, trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị trong đánh giá cán bộ. Hiện nay, Đề án đang được đưa vào để triển khai thực hiện ở các đơn vị thuộc Bộ với mong muốn đạt được hiệu quả thực chất hơn trong công tác đánh giá cán bộ.
- Trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức được quan tâm đầu tư, chú trọng theo yêu cầu của khung năng lực vị trí việc làm và tiêu chuẩn chức danh cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên được chuẩn hóa, cập nhật kỹ năng làm việc, kiến thức thực tiễn, những vấn đề thời sự, đạo đức, lòng tự trọng nghề nghiệp, tinh thần dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hình thức đào tạo, bồi dưỡng ngày càng phong phú, phù hợp hơn với xu thế hiện đại, đặc thù công việc của các đơn vị, tạo môi trường học tập thuận lợi cho công chức, viên chức để xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, tinh thông và có phẩm chất trong sáng. Kết hợp giữa bồi dưỡng kiến thức toàn diện về đạo đức, chính trị, quản lý nhà nước, tin học, quốc phòng - an ninh với bồi dưỡng chuyên sâu về kỹ năng nghiệp vụ, kỹ năng lãnh đạo, quản lý, hoạch định và phản ứng chính sách và ngoại ngữ, đồng thời quan tâm, chú trọng bồi dưỡng cho đội ngũ công chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu để hình thành đội ngũ chuyên gia tương lai trong các lĩnh vực quản lý của Bộ.
4. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ của Bộ, ngành Tư pháp theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới
Trên cơ sở vận dụng quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và thực tiễn công tác xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp hiện nay, trong thời gian tới cần phải tập trung làm tốt một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt nội dung tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, viên chức và cụ thể hoá các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về cán bộ và công tác cán bộ. Đẩy mạnh việc thực hiện học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và nêu gương của cán bộ, đảng viên, tạo chuyển biến tích cực trong toàn cơ quan, đơn vị, nhất là cán bộ, đảng viên giữ các chức danh chủ chốt, các chức danh tư pháp và những cán bộ trực tiếp giải quyết các công việc của người dân.
Thứ hai, tiếp tục quan tâm tới công tác tuyển dụng cán bộ, phải đúng quy trình, dân chủ, công khai và có sự đổi mới về cách thức thi tuyển để tuyển chọn được đúng người có phẩm chất, năng lực, phù hợp với yêu cầu vị trí việc làm và có cơ chế thuận lợi để thu hút nhân tài, người có tài năng vào làm việc trong hệ thống chính trị. Đổi mới, nâng cao chất lượng bố trí, sử dụng cán bộ ngày càng hiệu quả. Việc lựa chọn, bố trí, sử dụng, bổ nhiệm cán bộ là khâu then chốt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong công tác cán bộ. Tập trung kiện toàn cán bộ lãnh đạo, quản lý đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng; mở rộng thực hiện thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý để lựa chọn cán bộ giỏi, có phẩm chất, năng lực vào các chức danh lãnh đạo, quản ký. Tiếp tục nghiên cứu, chỉnh sửa và thực hiện hiệu quả các quy chế nội bộ về công tác bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, thôi chức, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý. Xem luân chuyển, điều động cán bộ là giải pháp đột phá của công tác cán bộ nhằm rèn luyện, bồi dưỡng và thử thách cán bộ, nhất là cán bộ trẻ; có chế độ, chính sách đối với cán bộ luân chuyển để bảo đảm tính khả thi và hiệu quả thực hiện công tác này; thực hiện việc điều động, chuyển đổi cán bộ giữ chức vụ 2 nhiệm kỳ liên tiếp ở một cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, quan tâm nâng cao chất lượng công tác đánh giá cán bộ, xem đó là khâu đột phá, quan trọng hàng đầu để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác cán bộ. Tổ chức thực hiện có hiệu Đề án đổi mới cơ chế đánh giá công chức, viên chức của Bộ. Việc đánh giá đúng cán bộ sẽ là tiền đề quan trọng để tiến hành thực hiện có hiệu quả các khâu khác trong công tác cán bộ.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, chủ động đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Công cuộc đổi mới đất nước ngày càng đi vào chiều sâu và toàn diện đòi hỏi phải nâng tầm đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói chung, của Bộ, Ngành nói riêng về cả kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng quản lý và phong cách, phương pháp công tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”. Do đó, xác định đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thực hiện tốt kế hoạch đào tạo hằng năm, nhiệm kỳ; chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng qua thực tiễn công tác; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng với đào tạo, bồi dưỡng nhận thức, bản lĩnh chính trị, đạo đức công vụ; đào tạo đội ngũ cán bộ pháp lý, chuyên gia giỏi trong một số lĩnh vực và đủ năng lực tham mưu, đề xuất với Chính phủ trong giải quyết các vấn đề pháp lý phục vụ yêu cầu phát triển hội nhập quốc tế; xây dựng Đề án, chiến lược, quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, công chức trẻ trình độ chuyên môn sâu.... Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình đào tạo cán bộ, công chức, tập trung bồi dưỡng lý luận chính trị, quan điểm đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức phải luôn gắn sát với yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra hiện nay và đảm bảo đúng quy trình, cơ cấu, số lượng.
Thực tế cho thấy, ở bất kỳ lĩnh vực nào, muốn nâng cao uy tín của mỗi cán bộ đảng viên thì cần phải thường xuyên nâng cao trình độ năng lực. Chất lượng hiệu quả công việc phụ thuộc vào trình độ năng lực của người cán bộ hay nói cách khác chất lượng hoàn thành nhiệm vụ chính là thước đo năng lực của người cán bộ. Sinh thời Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc rèn đức, luyện tài cho mỗi cán bộ, đảng viên, Bác nói: “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa không giúp ích được gì ai”. Để đáp ứng được nhiệm vụ yêu cầu hiện nay đòi hỏi mỗi cán bộ cũng phải không ngừng phấn đấu tự học, tự rèn nâng cao kiến thức, trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ.
Thứ năm, tạo môi trường tự rèn luyện tác phong công tác phù hợp, đề cao kỷ luật công vụ và trách nhiệm nêu gương. Thực tế đòi hỏi mỗi cán bộ phải thực sự gương mẫu, nói đi đôi với làm, phải có tinh thần tập thể, công bằng, công tâm, chính tâm…
Là cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ đảm nhận vị trí người đứng đầu, muốn hoàn thành nhiệm vụ có chất lượng hiệu quả thì cần phải có phong cách, tác phong công tác phù hợp. Đó là phong cách làm việc có kế hoạch, hiệu quả, chính xác, tỷ mỷ, sâu sát, cụ thể tránh đại khái, qua loa, quan liêu, hình thức. Người cán bộ, đảng viên cần phải có phong cách, tác phong dân chủ, vì tập thể. Luôn luôn tôn trọng và lắng nghe ý kiến của quần chúng và cấp dưới, luôn xuất phát từ lợi ích của tập thể, của xã hội, vì quyền lợi chung, vì dân vì nước để có quyết định đúng đắn kịp thời, chính xác. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra thiếu sót của cán bộ, đảng viên về phong cách lãnh đạo, đó là: “… Phải khắc phục hiện tượng thiếu tập thể, thiếu dân chủ, khắc phục tác phong quan liêu mệnh lệnh, phải nghe ngóng ý kiến của cán bộ và nhân dân”. Trong thực tế, cán bộ phải dám nghĩ, dám làm, quyết đoán, chịu trách nhiệm về các quyết định và hành động của mình nhưng không mất dân chủ. Không được định kiến, hẹp hòi mà phải khoan dung, đại lượng, biết xử sự có lý có tình, vẫn giữ nguyên tắc mà không quan liêu, hách dịch, không làm mất lòng dân. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) đã chỉ rõ: Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm, tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân.
Thứ sáu, xây dựng môi trường làm việc đoàn kết, chuyên nghiệp, dân chủ, công bằng, khách quan, minh bạch và quan tâm tới đời sống tinh thần, vật chất đối với công chức, viên chức để khyến khích, động viên cán bộ, công chức vừa giúp họ có điều kiện chăm lo cho xây dựng và phát triển cuộc sống gia đình bền vững và thu hút được nhân tài vào đội ngũ cán bộ, công chức. Do vậy, cần nghiên cứu, đề xuất chính sách đãi ngộ theo hướng nâng cao mức sống của cán bộ, công chức; các chính sách khác bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, công chức vừa phát huy hiệu quả trong công tác, vừa nâng cao mức sống gia đình./ |
Vụ Tổ chức cán bộ, Bộ Tư pháp
[1] Hồ Chí Minh tuyển tập, tập II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2002, tr. 274-275.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 270.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 83.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 272.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 318.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 317.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011
, tr. 318.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H.2011, tr. 314-319.