Vận dụng tư tưởng HCM trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam

26/11/2020
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam hiện nay
Sau khi nước ta giành được chính quyền năm 1945 và xây dựng Nhà nước Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh với trọng trách lớn vừa là hai chức danh Chủ tịch Đảng vừa là Chủ tịch nước. Người đã rất quan tâm xây dựng chính quyền trong sạch vững mạnh. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là nền tảng cốt lõi cho việc xây dựng một Nhà nước dân chủ. Ngay từ những ngày đầu, Người đã có thái độ nghiêm khắc đối với tệ tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Chủ tịch Hồ Chí Minh thừa nhận rằng “Tuy nhiều người trong ban hành chính làm việc tốt và thanh liêm, song cái tệ tham ô, nhũng lạm chưa quét sạch[1]. Đây là lần đầu tiên trong chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng hai chữ “nhũng lạm” với nghĩa lạm dụng quyền lực để tham nhũng. Để củng cố và xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Người thường xuyên giáo dục toàn Đảng, toàn dân đấu tranh không khoan nhượng đối với tệ nạn này. Những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa sâu sắc, toàn diện vừa căn bản, lâu dài; vừa có tính khái quát, vừa cụ thể, dễ hiểu, luôn giữ được tính thời sự và còn nguyên giá trị, là kim chỉ nam hướng dẫn chúng ta trong cuộc đấu tranh với tệ nạn tham nhũng trong tình hình hiện nay.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí, quan liêu
Chống tham ô, lãng phí, quan liêu là mối quan tâm lớn, thường xuyên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bài nói chuyện năm 1952 về “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu”, Người đã nói rằng:
“Tham ô là gì?
- Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là:
ăn cắp của công làm của tư
đục khoét của nhân dân
ăn bớt của bộ đội
Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình cũng là tham ô.
- Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là:
ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”.[2]
Bất cứ hành vi nào lấy “của công” làm “của tư” cũng đều bị Hồ Chủ tịch coi là hành vi tham ô. Đây chính là hành vi tham ô hiểu theo nghĩa rộng. Theo nghĩa này, chủ thể của hành vi tham ô không chỉ là cán bộ, công chức - những người nắm chức vụ, quyền hạn nhất định trong bộ máy nhà nước. Người dân bình thường nếu như “ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế” cũng có thể là chủ thể của hành vi tham ô. Trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước xã hội chủ nghĩa, mọi nguồn lực đều phải được huy động cho sự nghiệp cách mạng. Nếu như tiền vốn, tài sản công bị chiếm đoạt dưới bất cứ hình thức nào, để phục vụ cho lợi ích cá nhân hẹp hòi thì đều có thể bị coi là tham ô.
Chính vì Người coi “Tham ô, lãng phí, quan liêu là một thứ giặc ở trong lòng”, nên việc chống loại kẻ địch này rất khó khăn, phức tạp hơn cả việc chống lại giặc ngoại xâm. Muốn chống tham ô, lãng phí hiệu quả, cần phải tìm hiểu nguồn gốc, nguyên nhân của chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Tham ô và lãng phí đều do bệnh quan liêu mà ra”[3]. Người chỉ rõ tệ quan liêu chính là căn nguyên sâu xa, nguyên nhân trực tiếp, là điều kiện của tham ô, lãng phí. Người khẳng định nơi nào có tệ quan liêu thì ở đó có tham ô, lãng phí; mà quan liêu càng nặng thì tham ô, lãng phí càng nhiều.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu... là bạn đồng minh của thực dân, phong kiến”, “... là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ”. Cách mạng không thể thành công hoàn toàn nếu vẫn còn tham ô, lãng phí. Vì vậy, chống tham ô, lãng phí là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Công tác chống tham ô, lãng phí cần phải được tất cả các cấp, các ngành quan tâm và tiến hành thường xuyên. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “phải có chuẩn bị, kế hoạch, tổ chức, ắt phải có lãnh đạo và trung kiên”[4]. Đấu tranh chống tham ô, lãng phí cần phải bằng hệ thống các biện pháp đồng bộ, cả trước mắt và lâu dài, kết hợp chặt chẽ giữa “xây” và “chống”. Trong hệ thống các biện pháp đó, muốn chống tham ô, lãng phí hiệu quả, Người nhấn mạnh đến công tác giáo dục, tuyên truyền; công tác thanh tra, kiểm tra; chế tài xử lý nghiêm khắc và huy động sự tham gia của nhiều chủ thể trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN), nhất là chủ thể xã hội, người dân.
Thứ nhất, Người đã có những chỉ dẫn quý báu về thực hành liêm khiết. Theo quan niệm của Người, “Liêm là không tham địa vị. Không tham tiền tài. Không tham sung sướng. Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hoá. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ”.[5] Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, liêm là một phẩm chất không thể thiếu của mọi công dân, bất kỳ ở cương vị nào, từ người cán bộ, người có tiền, có quyền đến người buôn bán, người cày ruộng… Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn về chữ liêm trong mối quan hệ thống nhất hữu cơ và biện chứng với cần, kiệm, chính. Người cho rằng, cần, kiệm, liêm là gốc rễ của chính. Chính nghĩa là “không tà, nghĩa là thẳng thắn, đứng đắn”, “là việc phải thì dù nhỏ cũng làm, việc trái dù nhỏ cũng tránh”. Người có đức chính là người chính trực, đúng mực, công tâm, họ luôn hành động theo lẽ phải, kiên quyết bảo vệ lẽ phải.
 Ở góc độ rộng hơn, tuy không trực tiếp đề cập đến việc xây dựng Chính phủ liêm chính, công khai minh bạch như hiện nay nhưng trong quá trình xây dựng nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến khá nhiều về việc xây dựng Chính phủ liêm khiết, phục vụ nhân dân. Điều đó được nổi bật và quy tụ ở quan niệm: “Chính trị là đoàn kết và thanh khiết, thanh khiết từ việc to đến nhỏ.”[6] Đó thực sự là một nền chính trị trong sạch, lấy dân làm gốc, chính trị thân dân, chính tâm, chính trị nhân nghĩa.[7] Ngày 31/10/1946, tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố: “Tuy trong nghị quyết không nói đến, không nêu lên hai chữ liêm khiết, tôi cũng xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân và trước thế giới: Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ liêm khiết”.[8]
Thứ hai, Người quan tâm, đề cao công tác thanh tra, kiểm tra. Vị trí, vai trò quan trọng của công tác thanh tra được thể hiện trong nhiều bài viết, bài nói, chỉ thị của Hồ Chủ tịch ở nhiều lúc, nhiều nơi. Tại Hội nghị tổng kết thanh tra toàn miền Bắc tháng 4 năm 1957, Hồ Chủ tịch căn dặn “cán bộ thanh tra giúp trên hiểu biết tình hình địa phương và cấp dưới, đồng thời cũng giúp cho các cấp địa phương kịp thời sửa chữa, uốn nắn nếu làm sai, hoặc làm chậm. Cho nên trách nhiệm của công tác thanh tra là quan trọng”.[9] Vai trò của các cơ quan thanh tra cũng được thể hiện ngay từ Sắc lệnh số 64/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Tại Sắc lệnh này quy định Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền “nhận các đơn khiếu nại của nhân dân; điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của UBHC hoặc các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong UBHC hay của Chính phủ đã phạm lỗi”. Công tác thanh tra cũng là một biện pháp quan trọng trong việc ngăn ngừa, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý mà thiếu sự kiểm tra, thanh tra thì sẽ dẫn đến bệnh quan liêu, tham ô, lãng phí và chỉ có tăng cường kiểm tra, kiểm soát thì mới chống được các tệ nạn này. Người nói “muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm soát”.[10]
Thứ ba, Người luôn nhấn mạnh, phải kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền, giáo dục và cưỡng chế, trong đó lấy tuyên truyền, giáo dục là nền tảng, cơ sở. Người nói: “Trong phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu, giáo dục là chính, trừng phạt là phụ[11]. Việc tuyên truyền, giáo dục cần được đặc biệt coi trọng, làm sao để cán bộ hiểu được sự nguy hại, xấu xa của tham ô, lãng phí, từ đó có các hành động tích cực nhằm phòng, chống. Đồng thời, công tác tuyên truyền, giáo dục sẽ giúp nêu gương tốt, lên án các hành vi tham ô, lãng phí, góp phần tích cực vào việc ngăn chặn nạn tham ô, lãng phí. Nhưng khi cần thiết, đối với những người đã suy thoái về đạo đức, không chịu rèn luyện, cố tình tư lợi, chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, của nhân dân, phá hoại sự nghiệp cách mạng, phải bị xử lý nghiêm khắc để bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật và để răn đe, làm gương cho những người khác. Việc xử lý nghiêm khắc hành vi tham ô, lãng phí phải đúng các quy định của pháp luật, không được nể nang người có chức vụ, địa vị, với mục đích bảo vệ công lý, bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, răn đe, làm gương cho những người đang hoặc có ý định tham ô. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh cần ôn lại lời căn dặn của Lênin: “Cần có những pháp luật để trừng trị tệ tham ô, lãng phí, và phải chấp hành những pháp luật ấy một cách nghiêm chỉnh...”.[12] Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Đại tá Trần Dụ Châu, Cục trưởng Cục Quân nhu, vốn là người có công với cách mạng, nhưng đã có hành động tham ô tài sản của Nhà nước, Toà án kết án Trần Dụ Châu tử hình. Gia đình Trần Dụ Châu đã làm đơn gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh xin được ân giảm nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh bác đơn xin ân giảm đó. Và hình phạt đã được thi hành. Đây chính là sự thể hiện sinh động, cụ thể, rõ nét quan điểm, sự nghiêm khắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với hành vi tham ô, lãng phí.
Thứ tư, Người đề cao sự tham gia của nhiều chủ thể vào đấu tranh chống tham ô, lãng phí, nhất là chủ thể xã hội, người dân. Trên cơ sở nhận thức sâu sắc sự nguy hiểm, bản chất và nguyên nhân của tham ô, lãng phí, quan liêu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu ra hàng loạt biện pháp nhằm đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu; trong đó, Người đặc biệt chú trọng sự tham gia của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “...làm cho quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng ức, hàng triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ô, lãng phí, quan liêu còn chỗ ẩn nấp”.[13] Quần chúng là lực lượng chính của cách mạng, sự tham gia tích cực của quần chúng quyết định sự thành bại của cách mạng. Trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, quần chúng nhân dân giám sát cán bộ, công chức, kịp thời phát hiện sai phạm, phê bình, lên án các biểu hiện tiêu cực của cán bộ. Sự giám sát chặt chẽ của quần chúng nhân dân đối với cán bộ, công chức nhà nước, thông qua các hình thức khác nhau là một cơ chế ngăn ngừa tham ô, lãng phí hữu hiệu. Đồng thời, các phản ánh, kiến nghị kịp thời của nhân dân qua công tác giám sát sẽ giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm phát hiện các hành vi tham ô, lãng phí, từ đó có các biện pháp xử lý phù hợp.
2. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật về phòng, chống tham nhũng thời gian qua
Thực hiện tư tưởng của Người, ngay từ những ngày đầu lập nước, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức quan tâm đến công tác chống quan liêu, tham ô, lãng phí. Nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986 đến nay), đất nước vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu to lớn, chúng ta cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó nạn tham nhũng có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) xác định: “Tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành… gây bức xúc trong xã hội và là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước”.
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cơ quan tham mưu của Đảng đã ban hành nhiều chủ trương, giải pháp mới, mạnh mẽ, quyết liệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và PCTN; nhiều quy định, nghị quyết được quán triệt và thực hiện nghiêm túc, đi vào cuộc sống, có tác dụng cảnh báo, phòng ngừa có hiệu quả. Các quy định của Điều lệ Đảng, chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp về công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác kiểm tra, giám sát việc PCTN và kỷ luật đảng nói riêng ngày càng đầy đủ. Chỉ tính riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành gần 80 văn bản nhằm tăng cường công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và PCTN.[14]
Trên cơ sở đó, Nhà nước đã thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng về kiểm tra, giám sát việc PCTN thành những quy định cụ thể tại các văn bản pháp luật. Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành chức năng đã quan tâm rà soát, sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều quy định pháp luật về quản lý kinh tế - xã hội và PCTN. Cũng tính riêng từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, Quốc hội đã ban hành 63 luật, pháp lệnh, 66 nghị quyết; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 611 nghị định, 532 nghị quyết, 197 quyết định.[15] Các văn bản được ban hành đã góp phần hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ, khắc phục những sơ hở, bất cập trong các quy định của pháp luật làm phát sinh tiêu cực, tham nhũng, nhất là Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Luật PCTN năm 2018; Luật Tố cáo năm 2018; Luật Báo chí năm 2016; Luật Tiếp cận thông tin năm 2016; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công năm 2017; Luật Đấu giá tài sản năm 2016; Luật Đấu thầu năm 2013; Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại doanh nghiệp năm 2014; Luật Quản lý nợ công năm 2017; Luật Bảo vệ bí mật Nhà nước năm 2018; Luật Doanh nghiệp năm 2014...
Từ yêu cầu thực tiễn khách quan, từ ý thức vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, khung pháp luật PCTN hiện nay ngày càng được hoàn thiện, từng bước tạo ra môi trường thể chế ngày càng công khai, minh bạch, tăng cường sự tham gia của người dân vào công tác phòng, chổng tham nhũng, cơ chế kiểm soát đối với cán bộ, công chức, viên chức và chế độ công vụ cũng ngày càng được cải thiện, việc xử lý tham nhũng cũng được chú trọng...
Thứ nhất, pháp luật ngày càng hoàn thiện các quy định về liêm chính, công khai, minh bạch.
Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 09/5/2016 của Chính phủ đã nêu rõ nhiệm vụ: “xây dựng Chính phủ trong sạch, liêm chính, Chính phủ kiến tạo, phát triển. Khẳng định Chính phủ là công bộc của dân, gắn bó với nhân dân, phục vụ nhân dân… bảo đảm công bằng, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, lãng phí[16]. Pháp luật về PCTN đã quy định những nguyên tắc chung đối với việc công khai minh bạch, các hình thức công khai và nội dung công khai, minh bạch trên các lĩnh vực. Luật PCTN năm 2005 đã quy định công khai, minh bạch trên 18 lĩnh vực. Luật PCTN sửa đổi, bổ sung năm 2012 đã bổ sung thêm 4 lĩnh vực phải công khai, minh bạch, nâng tống số các lĩnh vực phải công khai, minh bạch lên thành 22 lĩnh vực. Luật PCTN sửa đổi, bổ sung năm 2012 cũng đã bổ sung Điều 32a về trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, do quy định về công khai, minh bạch còn mang tính bao quát và thiếu các biện pháp bảo đảm thực hiện, đặc biệt là chưa làm rõ về nguyên tắc, hình thức, nội dung, thời gian, trách nhiệm thực hiện công khai, minh bạch; nội dung công khai, minh bạch theo ngành, lĩnh vực trùng lặp với quy định về công khai trong nhiều văn bản pháp luật chuyên ngành; các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập chưa giúp kiểm soát biến động về thu nhập; các quy định về biện pháp xử lý phi hình sự cũng như về trách nhiệm giải trình còn thiếu, chưa phù hợp…
Khắc phục tình trạng trên, Luật PCTN năm 2018 đã có các quy định cụ thể tạo cơ chế phòng ngừa tham nhũng toàn diện và sâu rộng; qua đó, góp phần xây dựng cơ chế quản lý nhà nước, quản lý xã hội công khai, minh bạch để hạn chế tham nhũng. Một trong những điểm mới của Luật PCTN năm 2018 so với Luật PCTN năm 2005 đó là đã mở rộng hơn các hình thức tiếp nhận thông tin về tham nhũng so với quy định của Luật PCTN năm 2005 như phản ánh, tố cáo và báo cáo về hành vi tham nhũng. Qua đó, các cơ quan có thẩm quyền trong việc tiếp nhận, thu thập các thông tin về tham nhũng có thể phát hiện và xử lý nhanh chóng, kịp thời. Báo cáo về hành vi tham nhũng cũng giúp khuyến khích cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin về hành vi tham nhũng. Đồng thời, Luật PCTN năm 2018 cũng quy định rõ hơn trách nhiệm tiếp nhận và xử lý phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng tại Điều 65, 66. Pháp luật quy định về vấn đề này ngày càng hoàn thiện hơn, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi tham nhũng.
Thứ hai, pháp luật ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của cơ quan thanh tra trong công tác PCTN.
Pháp luật thanh tra từ trước đến nay luôn ghi nhận và làm sáng tỏ vị trí, vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước với vai trò là cơ quan tham mưu, giúp việc cho các cơ quan quản lý nhà nước, gắn hoạt động thanh tra với hoạt động quản lý nhà nước và cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp, toàn diện hơn bởi cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp. PCTN được thực hiện bằng nhiều biện pháp, với nhiều cơ quan khác nhau. Các cơ quan thanh tra với chức năng của mình, thực hiện quản lý nhà nước về PCTN như tham mưu hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn về PCTN; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa như công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị; kê khai tài sản, thu nhập… Bên cạnh đó, các cơ quan thanh tra cũng tiến hành PCTN thông qua việc giải quyết tố cáo về tham nhũng theo thẩm quyền, thanh tra trách nhiệm trong việc tổ chức thực hiện pháp luật về PCTN của các cơ quan, tổ chức, cá nhân…
Qua các hoạt động này, các cơ quan thanh tra đánh giá được ý thức, trách nhiệm và hiệu quả trong việc tổ chức thực hiện các chính sách, pháp luật về PCTN của các cơ quan, tổ chức, cá nhân; phát hiện những tồn tại, hạn chế trong việc tổ chức thực hiện cũng như phát hiện các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực trong các cơ quan hành chính nhà nước. Từ đó, có biện pháp nhằm bảo đảm cho các cơ quan, tổ chức thực hiện đúng đắn quy định của pháp luật, tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước được đúng đắn, khách quan, tránh hiện tượng lạm quyền, lộng quyền. Qua việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trong công tác PCTN, cơ quan thanh tra nhà nước góp phần kiểm soát quyền lực của các cơ quan hành chính nhà nước trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ, tránh hiện tượng tham nhũng, tiêu cực.
Thứ ba, quy định về xử lý tham nhũng đã ngày càng hoàn thiện, nghiêm khắc hơn.
Quy định về xử lý tham nhũng được ghi nhận ở nhiều văn bản pháp luật, có thể kể đến như: Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Luật PCTN năm 2018; Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019)...
Luật PCTN năm 2018 đã dành cả Chương IX quy định cụ thể nội dung xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về PCTN như vi phạm về công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; về định mức, tiêu chuẩn, chế độ; về quy tắc ứng xử; về xung đột lợi ích; về chuyển đổi vị trí công tác của người có chức vụ, quyền hạn; về nghĩa vụ báo cáo về hành vi tham nhũng và xử lý báo cáo về hành vi tham nhũng; về nghĩa vụ trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, giải trình nguồn gốc của tài sản, thu nhập tăng thêm; về thời hạn kê khai tài sản, thu nhập hoặc vi phạm quy định khác về kiểm soát tài sản, thu nhập.
Về xử lý người có hành vi tham nhũng: Người có hành vi vi phạm thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật nếu là người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị thì bị xem xét áp dụng tăng hình thức kỷ luật. Người có hành vi vi phạm bị xử lý kỷ luật nếu là thành viên của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội thì còn bị xử lý theo điều lệ, quy chế, quy định của tổ chức đó.
Để bảo đảm thi hành Luật PCTN năm 2018, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCTN năm 2018. Trong đó, Chương VI của Nghị định quy định về việc tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với người có chức vụ, quyền hạn có hành vi vi phạm liên quan đến tham nhũng và Chương X quy định về xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng và xử lý hành vi vi phạm pháp luật về PCTN.
Theo quy định tại Điều 78 của Nghị định số 59/2019/NĐ-CP, trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ việc tham nhũng ít nghiêm trọng sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật khiển trách. Trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ việc tham nhũng nghiêm trọng hoặc nhiều vụ việc tham nhũng ít nghiêm trọng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật cảnh cáo. Đối với trường hợp người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xảy ra vụ việc tham nhũng rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc nhiều vụ việc tham nhũng nghiêm trọng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách sẽ bị áp dụng hình thức kỷ luật cách chức. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc phòng ngừa, đấu tranh và xử lý tham nhũng, một mặt yêu cầu người đứng đầu phải có biện pháp quản lý, kiểm soát không để tham nhũng xảy ra; mặt khác, nếu có tham nhũng, phải có trách nhiệm xử lý, báo cáo với cơ quan có thẩm quyền quản lý nhà nước về tham nhũng. Người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật hoặc trách nhiệm hình sự khi để xảy ra tham nhũng.
Đối tượng bị xử lý kỷ luật, xử lý hình sự được quy định tại Điều 92 Luật PCTN năm 2018 và các văn bản pháp luật khác gồm người có hành vi tham nhũng; người đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để trục lợi; người không báo cáo, tố giác khi biết hành vi tham nhũng. Trong số các đối lượng này, người có hành vi tham nhũng là đối tượng chính bị xử lý kỷ luật và xử lý hình sự. Pháp luật quy định tương đối đầy đủ về xử lý người có hành vi tham nhũng tùy theo tính chất, mức độ vi phạm của họ.
Thực tế hiện nay, ngoài các vụ tham nhũng lớn mà người vi phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự, đối với các vụ tham nhũng nhỏ hay tham nhũng “vặt”, cán bộ, công chức, viên chức vi phạm sẽ bị xử lý kỷ luật theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2019), Luật Viên chức năm 2010 (sửa đổi, bổ sung năm 2019) và Nghị định số 34/2011/NĐ-CP, Nghị định số 27/2012/NĐ-CP hướng dẫn việc thi hành hai luật này. Tuy nhiên, cán bộ, công chức trong những vụ, việc vi phạm đạo đức nghề nghiệp, những vụ tham nhũng “vặt” thời gian qua hầu hết chỉ bị xử lý kỷ luật ở mức độ khá nhẹ so với hành vi vi phạm, trong đó chủ yếu là hình thức kỷ luật khiển trách và cảnh cáo, hay thuyên chuyển công tác. Số cán bộ vi phạm bị cách chức hoặc cho thôi việc là rất ít. Có thể nói, chế tài theo quy định hiện hành đã có nhưng chưa thật sự nghiêm. Các quy định về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức quá nhẹ dẫn đến việc xử lý vi phạm của các đối tượng này trong suốt thời gian qua chưa thật sự có tính răn đe. Chưa kể một số quy định không rõ ràng khiến một số lãnh đạo đơn vị, cơ quan có cá nhân sai phạm dựa vào đó bao che cho cấp dưới của mình.
Về xử lý tài sản tham nhũng: Có thể thấy thu hồi tài sản tham nhũng là cả một quá trình gồm nhiều giai đoạn và liên quan đến nhiều cơ quan thẩm quyền khác nhau: Từ khâu phòng ngừa và phát hiện việc chuyển tài sản do tham nhũng mà có (với vai trò nhiệm vụ quan trọng của các tổ chức tài chính, ngân hàng); ra lệnh tịch thu tài sản (thẩm quyền thuộc tòa án); phong tỏa, tạm giữ tài sản (thẩm quyền thuộc tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra tùy theo giai đoạn tố tụng); nhận dạng, truy tìm và phong tỏa hay tạm giữ tài sản (thẩm quyền tòa án, viện kiểm sát, cơ quan điều tra tùy theo giai đoạn tố tụng); yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự, hành chính, hình sự (Bộ Tư pháp, Viện Kiểm sát); thực hiện thi hành phần dân sự trong các bản án hình sự về tham nhũng (Bộ Tư pháp - cơ quan thi hành án dân sự)… Là một trong những nội dung của tố tụng nên về cơ bản thu hồi tài sản phải có sự gắn kết mật thiết với tương trợ tư pháp trong tất cả các lĩnh vực dân sự, hình sự, dẫn độ, hành chính.
Tuy nhiên, quy định của Luật PCTN năm 2018 và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) chưa tạo ra cơ chế thu hồi tài sản tham nhũng hiệu quả; quy định của pháp luật về PCTN chưa phù hợp, chưa tương thích với quy định về thu hồi tài sản tham nhũng của Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng; trình tự, thủ tục thi hành án dân sự, giám định thiệt hại do hành vi tham nhũng gây ra còn kéo dài, chưa phù hợp. Việc thu hồi tài sản chủ yếu thông qua việc kết án hình sự, trong khi chưa có quy định rõ ràng về việc thu hồi tài sản tham nhũng không qua kết án hình sự. Các quy định về thu hồi tài sản tham nhũng thông qua tố tụng dân sự chỉ mới là quy định chung về bảo vệ quyền sở hữu và bồi thường thiệt hại. Các quy định trong Luật Giám định tư pháp liên quan đến việc giám định tài chính, ngân hàng, xây dựng, đất đai... còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng; việc xác định hậu quả trong những vụ án tham nhũng gặp rất nhiều khó khăn do phải chờ kết luận giám định (thiệt hại về hậu quả), mà điều này lại không quy định rõ về thời gian, trong khi tố tụng lại quy định thời gian chặt chẽ, dễ dẫn đến tình trạng vi phạm tố tụng trong những vụ án tham nhũng loại này.
Việc thu hồi tài sản tham nhũng thông qua quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền còn ít được thực hiện. Các quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án còn với nhiều trình tự, thủ tục phức tạp, thời hạn, thời điểm kết thúc kiểm tra, thanh tra, điều tra, kiểm toán, truy tố, xét xử, thi hành án còn kéo dài, dẫn đến việc thu hồi tài sản bị tham nhũng chậm và khó do kẻ tham nhũng đã tìm cách đối phó, hợp pháp hoá hoá đơn, chứng từ, tài liệu, chứng cứ và tẩu tán tài sản dưới nhiều hình thức tinh vi.
 
Thứ tư, pháp luật hiện hành ngày càng ghi nhận vai trò quan trọng của xã hội trong PCTN.
Trên cơ sở Chiến lược Quốc gia về PCTN, kế thừa các quy định của Luật PCTN năm 2005, Luật PCTN năm 2018 tiếp tục hoàn thiện các quy định về vai trò của xã hội trong PCTN và có chỉnh lý, bổ sung nhằm tăng cường vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; của cơ quan báo chí, nhà báo; của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề; của công dân, ban thanh tra nhân dân, ban giám sát đầu tư của cộng đồng.
Trách nhiệm của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề trong PCTN là những quy định mới, được thể chế cụ thể hơn trong Luật PCTN năm 2018 do vai trò rất quan trọng của các chủ thể này trong công tác PCTN, bởi các hoạt động kinh tế luôn luôn tiềm ẩn nguy cơ tham nhũng, khiến doanh nghiệp có thể vừa là nạn nhân vừa là tác nhân tham nhũng. Để bảo đảm doanh nghiệp vừa có trách nhiệm PCTN trong nội bộ của mình vừa có trách nhiệm tham gia công tác PCTN nói chung như các chủ thể xã hội khác, Luật PCTN nãm 2018 đã có những chỉnh lý phù hợp, cụ thể là: doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề có trách nhiệm tuyên truyền, động viên người lao động, thành viên, hội viên của mình thực hiện quy định của pháp luật về PCTN; tổ chức thực hiện các biện pháp PCTN; kịp thời thông báo với cơ quan có thẩm quyền về hành vi tham nhũng; kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật về PCTN. Đồng thời, Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phối hợp với hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề tổ chức diễn đàn để trao đổi, cung cấp thông tin, phục vụ công tác PCTN. Luật PCTN năm 2018 cũng đã mở rộng hơn so với Luật PCTN năm 2005 về các hình thức tiếp nhận thông tin về tham nhũng, bao gồm phản ánh, tố cáo và báo cáo về hành vi tham nhũng nhằm khuyến khích cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin về tham nhũng, giúp các cơ quan có thẩm quyền trong việc thu thập thông tin về tham nhũng nhằm phát hiện và xử lý kịp thời.
Thời gian qua, trên phạm vi toàn quốc, triển khai Chiến lược Quốc gia về PCTN và Luật PCTN năm 2018, Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã có nhiều biện pháp cụ thể, thiết thực nhằm phát huy vai trò của xã hội trong PCTN, như: Đa dạng hoá các hình thức tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về tham nhũng và công tác PCTN; tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia PCTN; nâng cao vai trò của MTTQ và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác PCTN; phát huy vai trò của báo chí trong công tác PCTN; đảm bảo việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về các vụ việc tham nhũng cho các cơ quan báo chí; xây dựng quy tắc đạo đức liêm chính cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên; xây dựng và thực hiện văn hoá kinh doanh lành mạnh, phi tham nhũng trong doanh nghiệp; ngăn chặn và phát hiện kịp thời hành vi nhũng nhiễu, đòi hối lộ của cán bộ công chức đối với doanh nghiệp; tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ, khen thưởng người tố cáo, phát hiện hành vi tham nhũng; tôn vinh, khen thưởng tổ chức, cá nhân có thành tích trong công tác PCTN; xử lý nghiêm minh những hành vi lợi dụng quyền tố cáo để vu khống, gây rối nội bộ làm ảnh hưởng đến an ninh trật tự…
3. Đề xuất yêu cầu, định hướng tiếp tục vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phòng, chống tham nhũng trong hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong thời gian tới
Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chống tham ô, lãng phí, quan liêu, việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, không tạo ra kẽ hở để cho những cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thoái hóa, biến chất lợi dụng thực hiện hành vi tham nhũng, lãng phí là yêu cầu cấp thiết luôn được đặt ra từ trước đến nay. Đại hội XII đã chỉ rõ, nguyên nhân dẫn tới tham nhũng là do “Hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ, nhiều nội dung chưa đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, còn chồng chéo...[17]. Do đó, muốn bịt kín được những “khoảng trống”, “kẽ hở” để “không thể tham nhũng, không dám tham nhũng” thì cần phải hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước[18], phải xem việc hoàn thiện thể chế là một nhiệm vụ chiến lược, “là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát triển nhanh và bền vững[19].
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện, bổ sung các quy định về liêm chính trong hoạt động công vụ và công khai, minh bạch trong tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Quy định về liêm chính trong hoạt động công vụ bao gồm các chuẩn mực được quy định rõ trong văn bản pháp luật mang tính chất nghĩa vụ phải thực hiện, cũng có thể là những quy định mang tính chất đạo đức - pháp lý mà ý nghĩa đạo đức có phần trội hơn. Việc bổ sung, hoàn thiện các quy định về liêm chính trong hoạt động công vụ đỏi hỏi phải có sự rà soát, bổ sung cả hai loại quy định này. Cụ thể hơn, nghiên cứu bổ sung một số chuẩn mực về liêm chính có tính nguyên tắc trong thi hành công vụ như khách quan, công bằng, không vụ lợi, trách nhiệm phòng ngừa xung đột lợi ích, trách nhiệm giải trình; bổ sung những quy định cụ thể về kiểm soát xung đột lợi ích của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ; về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức trong từng ngành, lĩnh vực theo hình thức ban hành Sổ tay hướng dẫn thực hiện quy tắc ứng xử kèm theo những ví dụ cụ thể. Cùng với việc quy định rõ hơn các chuẩn mực về liêm chính, pháp luật cần quy định rõ hơn những dạng hành vi vi phạm về liêm chính. Hiện tại, Luật PCTN năm 2018 và Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy định khá rõ về các hành vi tham nhũng, là những vi phạm điển hình về liêm chính trong hoạt động công vụ. Tuy nhiên, cần phải bổ sung những hành vi vi phạm khác như vi phạm về xung đột lợi ích, vi phạm về đạo đức nghề nghiệp... coi đây là những căn cứ quan trọng cho việc giám sát và xử lý vi phạm về liêm chính.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho việc chủ động công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan nhà nước; nhất là công khai, minh bạch quá trình ban hành các quyết định hành chính, công khai thủ tục hành chính, quá trình và kết quả giải quyết thủ tục hành chính cho người dân, tạo ra các cơ chế giải quyết công việc cho người dân nhanh chóng, hiện đại, các kênh tương tác để cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích thông tin một cách nhanh chóng, kịp thời đến người dân; sửa đổi, bổ sung các quy định về công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị theo hướng thực hiện đồng thời một số hình thức công khai, để tạo điều kiện tốt nhất cho người dân tiếp cận được những thông tin về hoạt động của các cơ quan nhà nước; nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện và công khai quy định về danh mục bí mật nhà nước, tạo điều kiện để người dân thực hiện tốt hơn vai trò giám sát việc thực hiện công khai của các cơ quan nhà nước.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật thanh tra theo hướng nâng cao hơn nữa vai trò của các cơ quan thanh tra trong kiểm soát quyền lực nhà nước trong hoạt động hành chính. Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản khẳng định vai trò của các cơ quan thanh tra và định hướng hoạt động của cơ quan thanh tra theo hướng tập trung, đẩy mạnh các hoạt động thanh tra công vụ, thực hiện giám sát hành chính nhằm xem xét, đánh giá hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nêu: “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, bảo đảm mọi hoạt động quản lý nhà nước đều chịu sự thanh tra, kiểm tra của Chính phủ”; Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí khẳng định: “Thanh tra Chính phủ và cơ quan thanh tra nhà nước cấp tỉnh, huyện tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ thanh tra công vụ”; Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009 của Chính phủ ban hành Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 chỉ rõ: “Nghiên cứu sửa đổi pháp luật về thanh tra theo hướng làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra nhà nước,...; Cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chuyển mạnh sang thực hiện chức năng giám sát hành chính và tăng cường thanh tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ công vụ, việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng”... 
Trong bối cảnh thực thi Hiến pháp năm 2013 và việc thực hiện Chiến lược phát triển ngành Thanh tra đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng đặt ra nhiệm vụ cần nghiên cứu, đánh giá toàn diện vị trí, vai trò, chức năng của các cơ quan thanh tra nhà nước và nghiên cứu, đổi mới phương thức hoạt động của các cơ quan Thanh tra, trong đó có định hướng cơ quan thanh tra theo cấp hành chính chuyển sang thực hiện chức năng giám sát, đánh giá hành chính; tăng cường thanh tra việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ công vụ, thực hiện pháp luật về thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và PCTN...
Thứ ba, tiếp tục hoàn thiện các quy định về xử lý tham nhũng theo tinh thần Chỉ thị số 50-CT/TW ngày 07/12/2015 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng; trong đó cương quyết xử lý tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Thời gian tới cần sửa đổi các quy định chặt chẽ hơn để tăng hiệu lực, hiệu quả của pháp luật đối với việc xử lý hành vi tham nhũng. Việc sửa đổi nên theo hướng thống nhất áp dụng biện pháp xử lý hình sự đối với mọi hành vi tham nhũng, các biện pháp xử lý kỷ luật chỉ nên áp dụng như một hình thức bổ sung mà không phải hình thức xử lý chính đối với một số hành vi này. Điều này giúp tạo ra tính răn đe đối với cán bộ, công chức và xóa bỏ các kẽ hở, hạn chế hiện nay đang tạo ra bởi hình thức xử lý kỷ luật nội bộ đối với hành vi tham nhũng. Các hành vi khác có liên quan cần phải thể chế hóa vào các quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức hoặc quy định về phòng ngừa xung đột lợi ích để có hình thức xử lý phù hợp. Có như vậy, việc xử lý các hành vi tham nhũng mới bảo đảm tính nghiêm minh về lâu dài.
Thứ tư, tiếp tục hoàn thiện thể chế phát huy hơn nữa vai trò của các tổ chức xã hội trong PCTN. Hiện nay, sự tham gia của các tổ chức xã hội trong PCTN còn khiêm tốn. Báo cáo Tổng kết 10 năm thực thi pháp luật về PCTN của Chính phủ năm 2016 đã từng chỉ ra việc tham gia của khu vực tư và xã hội vào công tác PCTN vẫn còn hạn chế, với một số biểu hiện cụ thể như: một bộ phận doanh nghiệp, người dân chưa tham gia tích cực trong việc đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực, tham nhũng; một số cơ quan truyền thông, cá nhân đã lợi dụng việc đấu tranh chống tiêu cực, tham nhũng để trục lợi, vu khống. Do đó, nội dung về trách nhiệm xã hội trong phòng chống tham nhũng của Luật PCTN năm 2018 cũng đã hàm chứa một số sửa đổi để làm rõ hơn nữa trách nhiệm của xã hội trong công tác PCTN. Ví dụ, Điều 75 của Luật PCTN năm 2018 quy định rõ cơ quan báo chí, nhà báo có trách nhiệm đấu tranh chống tham nhũng, đưa tin về hoạt động phòng chống tham nhũng, trong khi đây là vấn đề được khuyến khích theo Luật PCTN năm 2005… Điều này cho thấy khung pháp luật về trách nhiệm của xã hội trong PCTN đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, để các quy định này được thực thi và thực thi tốt trong thực tiễn, cần chú trọng nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò và trách nhiệm của xã hội trong PCTN; tạo điều kiện để phát huy vai trò của xã hội trong PCTN; nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức trước những phản ánh có liên quan của doanh nghiệp, công dân…
Trong những năm qua, một thực tế đặt ra là không ít người cung cấp thông tin về các hành vi tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đã bị xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp, thậm chí bị trả thù, trù dập, ảnh hưởng rất lớn đến công việc và cuộc sống hàng ngày. Điều này xuất phát từ việc các quy định liên quan đến bảo vệ người tố cáo chưa thực sự mạnh mẽ và phát huy hiệu quả, cụ thể như: Quy định về hình thức xử lý đối với cán bộ, công chức tiếp nhận và giải quyết tố cáo trong trường hợp làm lộ thông tin cá nhân của người tố cáo còn quá nhẹ, không đủ tính răn đe. Quy định của pháp luật hiện hành chưa thực sự cụ thể, chi tiết về cơ chế bảo vệ người tố cáo hành vi tham nhũng, cũng như quy định trong những trường hợp cụ thể nào thì người tố cáo và nhân thân của họ được bảo vệ. Có quá nhiều cơ quan có trách nhiệm trong việc bảo vệ người tố cáo, trong khi thẩm quyền của các cơ quan này còn hạn chế và chồng chéo. Các biện pháp bảo vệ người tố cáo còn mang tính định tính, chưa quy định cụ thể về từng biện pháp bảo vệ, trình tự, thủ tục, thẩm quyền quyết định, lực lượng tiến hành bảo vệ, kinh phí để bảo vệ người tố cáo.
Ngoài ra, các quy định pháp luật hiện tại tập trung vào bảo vệ người tố cáo và cơ chế bảo vệ người phản ánh, cung cấp thông tin lại được áp dụng theo cơ chế về bảo vệ người tố cáo, trong khi thực tế lý luận và thực tiễn đều đặt ra vấn đề phân tách giữa phản ánh, kiến nghị, cung cấp thông tin. Ngoài Điều 67 Luật PCTN năm 2018 đề cập đến vấn đề bảo vệ người phản ánh, kiến nghị và cung cấp thông tin thì không có văn bản hướng dẫn hay chỉ thị đề cập đến vấn đề này. Sự lúng túng trong quy định pháp luật dẫn đến sự không thống nhất cách hiểu và áp dụng quy định về bảo vệ người phản ánh, kiến nghị, cung cấp thông tin về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Do đó việc thiếu hiệu quả trong việc bảo vệ người phản ánh, kiến nghị, cung cấp thông tin về hành vi có dấu hiệu tham nhũng, lãng phí, tiêu cực của cán bộ, công chức là điều không thể tránh khỏi.
Có thể thấy rằng, xuất phát từ yêu cầu thực tiễn khách quan, từ ý thức vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, thời gian qua, việc hoàn thiện khung pháp luật PCTN đã và đang không chỉ thể hiện nỗ lực của Việt Nam trong cuộc đấu tranh PCTN mà còn thể hiện trách nhiệm với cộng đồng quốc tế thông qua quá trình nội luật hóa Công ước Liên hợp quốc về Chống tham nhũng mà Việt Nam là thành viên và các diễn đàn quốc tế khác./.
TS. Nguyễn Quốc Văn*
 
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 192.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr. 488.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 357.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự Thật, Hà Nội, 2011, tr. 358.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 292.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 75.
[7] Trần Thị Phúc An, Xây dựng Chính phủ liêm chính theo tư tưởng Hồ Chí Minh, http://www.xaydungdang.org.vn/Home/tutuonghochiminh/2019/12901/Xay-dung-Chinh-phu-liem-chinh-theo-tu-tuong-Ho-Chi-Minh.aspx, ngày 06/6/2019.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 478.
[9] Ủy Ban Thanh tra của Chính phủ, Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra, Hà Nội, 1977.
[10] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr. 287.
11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 361.
[12] Bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, ngày 24/7/1962, tạp chí Học tập, số tháng 9/1962. Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 419.
13 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 13, Sđd, tr. 419.
[14] Số liệu tại Phiên họp thứ 17 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng ngày 15/01/2020 tại Hà Nội.
[15] Số liệu tại Phiên họp thứ 17 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng ngày 15/01/2020 tại Hà Nội.
[16] Nghị quyết số 33/NQ-CP ngày 09/5/2016 của Chính phủ về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 4 năm 2016.
[17] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 173.
[18] Nguyễn Phú Trọng: Bài phát biểu tại Hội nghị tổng kết công tác năm 2018 và triển khai nhiệm vụ năm 2019 của ngành Nội chính Đảng, Baochinhphu.vn, mục thời sự, ngày 22/01/2019.
[19] Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2017, tr. 27.
Viện trưởng Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ.