Tư tưởng Hồ Chí Minh về thượng tôn pháp luật quốc tế

26/11/2020
Hồ Chí Minh là nhà lãnh tụ thiên tài vô cùng kính yêu của Đảng ta, của nhân dân và của cả dân tộc ta. Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta[1]. Dưới ngọn cờ chói lọi Hồ Chí Minh, một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam được mở ra: kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng và lý luận cách mạng của Người để lại cho dân tộc ta và cả nhân loại là di sản vô cùng quý giá. Cho dù thế giới xoay vần và biến đổi không ngừng, song tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn trường tồn cùng lịch sử, được kế thừa và vươn mãi lên tầm cao mới.
Thế giới trong thế kỷ XXI tiếp tục chứng kiến nhiều biến đổi phức tạp và khó lường. Toàn cầu hoá tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động tới tất cả các nước. Các quốc gia lớn nhỏ đang tham gia ngày càng tích cực vào quá trình hội nhập quốc tế. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển. Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ, khủng bố vẫn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh về thượng tôn luật pháp quốc tế trong tình hình mới là yêu cầu vừa cấp thiết vừa có ý nghĩa lâu dài, nhằm góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp  hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Kế thừa nhận thức về nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (2011) đã chỉ rõ tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đó là tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp (xã hội), giải phóng con người. Về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng chính trị thuộc hệ tư tưởng Mác - Lênin, là sự thấm nhuần sâu sắc, vận dụng sáng tạo quan điểm phương pháp luận Mác-xít vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn thực tiễn, lý luận phong phú và được hình thành từ sự kết hợp giữa các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin (nhân tố khách quan) thông qua phẩm chất cá nhân với năng lực hoạt động trí tuệ và thực tiễn cao của Người (nhân tố chủ quan). Vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của thời đại lịch sử là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
1. Tổng quan tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại
Việt Nam có vị trí địa chiến lược, lưng dựa vào lục địa châu Á, mặt hướng ra biển Đông và Thái Bình Dương mênh mông. Là ngã ba, ngã tư của các nền văn minh lớn, của những con đường giao thương trọng yếu của nhân loại, Việt Nam sớm có quan hệ với các nước một cách tự nhiên, do đó bạn bè nhiều mà kẻ thù dòm ngó cũng không ít. Chính vì lẽ đó, trong suốt cuộc trường chinh dựng nước và giữ nước của dân tộc, các triều đại phong kiến nước ta luôn phải có một chính sách đối ngoại vừa giữ nguyên tắc, vừa hết sức khôn khéo, linh hoạt vì chỉ cần một sai lầm nhỏ cũng phải trả giá đắt bằng sự tồn vong của cả dân tộc.
Dưới thời đại Hồ Chí Minh, đường lối đối ngoại vừa là sự kế thừa tinh hoa ngoại giao của cha ông ta được hun đúc qua chiều dài hàng ngàn năm lịch sử. Đó là khát vọng yêu chuộng hòa bình, là tư tưởng hòa hiếu, là triết lý “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo[2]; nhưng khi cần để giữ vững từng tấc đất cha ông đã đổ bao máu xương để lại cho thế hệ sau, thì đó cũng còn là ý chí sắt đá bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc “Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm; Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời[3]. Đó còn là sự kết hợp với những giá trị về dân tộc và thời đại trong tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Một trong những bài học đối ngoại mang giá trị vô cùng sâu sắc mà Người để lại cho thế hệ sau, đó chính là phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.
Quả đúng vậy, sáu từ ngắn gọn mà Bác dặn dò cụ Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Bộ Nội vụ, quyền Chủ tịch nước trước khi Người đi dự Hội nghị Fontainebleau tại Pháp vào tháng 5 - 1946 đã trở thành “bài học nằm lòng” trong công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế vậy! Câu này hiểu theo nghĩa đen là lấy cái không đổi (bất biến) để ứng phó với muôn hình thay đổi (vạn biến). Cái bất biến, cái không thay đổi trong đối ngoại chính là nguyên tắc, phương châm, kim chỉ nam bất di bất dịch, đó chính là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, là lợi ích quốc gia, dân tộc phải đặt lên trên hết. Đảng ta đã luôn ý thức sâu sắc, tiếp thu triệt để tư tưởng này, đồng thời có sự phát triển đặc biệt quan trọng, đó là khẳng định nhất quán mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cái vạn biến, không hề đối lập mà luôn song hành với cái bất biến ở trêm, chính là cách ứng phó khôn khéo, tài tình, linh hoạt trước mọi tình huống xảy ra, nói nôm na là “tùy cơ mà ứng biến” như cha ông ta hằng đúc rút. Giống như trong toán học, một bài toán khó luôn có nhiều cách giải; trong quân sự, một mục tiêu luôn có nhiều phương án tấn công. Tựu trung lại, nếu chỉ xác định được nguyên tắc bất biến thôi chưa đủ, mà phải biết vận dụng sáng tạo và nắm bắt thời cơ để có nhiều cách ứng phó kịp thời trước tình hình luôn thiên biến vạn hóa.
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, những quan sát và phân tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các vấn đề quốc tế và thời đại, cách ứng xử của Người trên trường quốc tế đã hình thành nên hệ thống lý luận, quan điểm, nguyên lý thực tế, sâu sắc cũng như những hành động đối ngoại đạt đến độ chuẩn mực, định hình cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Một cách tổng quát, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là hệ thống quan điểm về các vấn đề quốc tế, chiến lược, sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Các tư tưởng, nguyên tắc và phương châm chỉ đạo đó được thể hiện trong các giai đoạn cách mạng và là nền tảng cho mọi thắng lợi của ngoại giao Việt Nam suốt 75 năm qua với nhiều bài học kinh nghiệm. Độc lập tự chủ, tự lực tự cường. Chính sách đối ngoại của Việt Nam đã góp phần thực hiện mục tiêu cao nhất của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, được thể hiện cô đọng trong câu nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”[4]. Mục tiêu cao cả này xuyên suốt quá trình đấu tranh cách mạng trước đây và công cuộc đổi mới hiện nay của nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa đến. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dẫu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy[5]. Trong Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa[6], Bác cũng đã nhấn mạnh “dựa vào sức ta mà giải phóng cho ta”, tức là phải dựa vào nội lực là chính. Bài học này đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường đi liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế là tư tưởng chủ đạo trong chính sách kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Cái gốc, cái điểm mấu chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh[7]. Người cũng nêu rõ: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to, tiếng mới lớn[8]. Trong thời đại ngày nay, sức mạnh dân tộc của chúng ta chính là thế và lực của đất nước có được sau gần 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới; là sức mạnh tổng hợp, bao gồm sức mạnh vật chất, tinh thần của dân tộc (như sức mạnh kinh tế, chính trị, quân sự, dân số, lãnh thổ); các giá trị lịch sử, truyền thống, văn hóa, tinh thần yêu nước, tinh thần lao động cần cù và ý chí sáng tạo, không ngừng vươn lên của con người Việt Nam... Sức mạnh thời đại là các “dòng chảy chính” của thế giới và khu vực, là cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, xu thế toàn cầu hóa và liên kết khu vực, xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, quá trình dịch chuyển cán cân lực lượng, đổi mới mô hình tăng trưởng…
Quan điểm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là quan điểm Mác-xít về giải quyết mâu thuẫn dựa trên vai trò quyết định của yếu tố bên trong và tác động, ảnh hưởng của yếu tố bên ngoài. Việt Nam là bộ phận không tách rời của thế giới. Việc kết hợp đúng đắn sức mạnh dân tộc với các nguồn lực và trào lưu lớn của thế giới sẽ nhân lên gấp bội sức mạnh của đất nước và là phương sách chiến lược trong quan hệ quốc tế.
Thật ra, mục tiêu nhân dân ta theo đuổi luôn phù hợp với những mục tiêu chung của các dân tộc, đó là quyền độc lập quốc gia, quyền tự quyết dân tộc, phù hợp với xu thế chung trên thế giới là hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển. Nhờ vậy mà suốt hơn 75 năm qua, nhân dân ta luôn giành được sự đồng tình ủng hộ quý báu của nhân dân tiến bộ trên thế giới, tạo nên sức mạnh to lớn giúp chúng ta giành thắng lợi trong 02 cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập.
Người cũng dặn dò đấu tranh vì lợi ích của dân tộc mình nhưng cũng vì lợi ích chung của nhân loại tiến bộ. Cách ứng xử chủ đạo của người Việt Nam phải là hòa bình, hữu nghị với các dân tộc khác. Xuất phát từ truyền thống văn hiến dân tộc, gắn kết lòng người với những mục tiêu chính nghĩa; từ hoàn cảnh nhiều khi phải đối phó với nhiều đối thủ cùng một lúc, Người đã chỉ rõ: chúng ta luôn theo đuổi phương châm “thêm bạn, bớt thù”, “làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết[9].
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại đã nhân lên truyền thống nhân văn sâu sắc của dân tộc Việt Nam hiện đại, phù hợp với khát vọng hòa bình, tự do, công lý của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; là sự kế thừa truyền thống đấu tranh ngoại giao của cha ông ta về phương cách ứng xử kiên trì về nguyên tắc, song linh hoạt, mềm mỏng, khéo léo về sách lược. Lịch sử các cuộc đấu tranh với các đối thủ mạnh hơn mình gấp nhiều lần của dân tộc ta đã hình thành nên nghệ thuật giành thắng lợi từng bước, kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa đánh và đàm. Đó chính là tư tưởng “lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh[10], vận dụng tổng hợp sức mạnh quân sự, chính trị và ngoại giao. Ngoại giao Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo phương sách này; luôn nắm vững, chủ động tạo thời cơ, tấn công giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.

2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thượng tôn luật pháp quốc tế

Các nguyên tắc căn bản của luật pháp quốc tế được chính thức ghi nhận tại Hiến chương Liên hợp quốc vào năm 1945, tuy nhiên, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các nguyên tắc này đã có từ trước đó khá lâu. Nói như vậy để thấy rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh có tư tưởng tiến bộ về thượng tôn luật pháp quốc tế từ rất sớm, thể hiện tầm tư duy chiến lược nhìn ra trông rộng của Người. Cụ thể hơn, đó là tư tưởng về bình đẳng chủ quyền quốc gia, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; bảo đảm hòa bình trong quan hệ quốc tế; tuân thủ nghiêm các nghĩa vụ phát sinh từ cam kết quốc tế.
2.1. Bình đẳng chủ quyền quốc gia, không dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau
Cuối thế kỷ XIX, Việt Nam bị biến thành thuộc địa của thực dân Pháp. Không cam chịu kiếp sống nô lệ, sau những thất bại liên tiếp của các cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai bán nước, vào năm 1911, Bác đã ra đi tìm đường cứu nước. Sau nhiều năm bôn ba hải ngoại, phải đến khi bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là Luận cương Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa vào năm 1920, Người mới tìm ra con đường giải phóng dân tộc. Người khẳng định: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và giai cấp công nhân toàn thế giới[11]. Người cho rằng, mỗi quốc gia, dù lớn nhỏ, đều có vị trí bình đẳng với nhau trên trường quốc tế. Không thể viện bất cứ lý do gì cho hành động can thiệp của một quốc gia vào công việc nội bộ của một quốc gia khác, mà biểu hiện đỉnh điểm chính là chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, là sự xâm lược thuộc địa[12].
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra rằng chính chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc là căn nguyên làm phương hại đến nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia. Người khẳng định “Thế giới sẽ chỉ có nền hòa bình cuối cùng khi tất cả các dân tộc tự mình thỏa thuận với nhau cùng tiêu diệt con quái vật chủ nghĩa đế quốc ở khắp mọi nơi mà họ gặp nó. Trong khi chờ đợi ngày đó, hiện nay họ còn là nạn nhân của con quái vật ấy, đòi hỏi một cách nghiêm khắc, nhân danh nguyên tắc của dân tộc được tự quyết và họ rất xứng đáng để lưu ý tiếng nói của họ phải được lắng nghe…[13] Trong Lời phát biểu tại Đại hội toàn quốc lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, Người đã nhấn mạnh: “Các đồng chí đều biết rằng, chủ nghĩa tư bản Pháp đã vào Đông Dương từ nửa thế kỷ nay; vì lợi ích của nó, nó đã dùng lưỡi lê để chinh phục đất nước chúng tôi…Ở xứ đó, người An Nam bị phân biệt đối xử, họ không có những sự bảo đảm như người châu Âu hoặc có quốc tịch châu Âu.[14]
Như vậy, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức ra muốn giữ vững các quyền dân tộc cơ bản thì phải gắn với độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, các quốc gia phải bình đẳng với nhau, không được dùng vũ lực để đàn áp, xâm lược, can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Về sau, trong Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Người còn nhấn mạnh, việc bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản phải gắn với độc lập tự chủ, tự lực, tự cường thì mới bền vững. Bác đã dặn: “Muốn người ta giúp cho, thì trước hết mình phải tự giúp lấy mình đã”; “Muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm”[15].  Người cũng đã đúc kết thành chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Và chân lý ấy, đến ngày nay vẫn là một yêu cầu thiết yếu trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế. 
Hiện nay, vị thế của Việt Nam đang ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế. Việt Nam đang thực hiện tốt trách nhiệm Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc và Chủ tịch ASEAN. Chúng ta đang cùng các nước tiến bộ không ngừng đề cao vai trò của Liên hợp quốc trong việc bảo đảm các quyền dân tộc cơ bản gắn với độc lập tự chủ của các nước, đóng góp tích cực vào công việc chung của thế giới, trong đó có tham gia lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc; chủ động, tích cực thúc đẩy đàm phán, hợp tác giải quyết những tồn tại trong phân định biên giới trên bộ và trên biển, vừa bảo vệ được chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của ta theo chỉ đạo của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng là “phải luôn kiên trì, bình tĩnh, sáng suốt xử lý đúng đắn mọi vấn đề phức tạp, trong đó có vấn đề chủ quyền, lãnh thổ”, “thực hiện phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, nhất là giữ “trái tim nóng, cái đầu lạnh” và “kiên quyết, kiên trì” để xử lý các thách thức đối ngoại”.[16] Có thể nói, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bình đẳng chủ quyền quốc gia, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau là tư tưởng hết sức tiến bộ, hoàn toàn phù hợp với xu thế văn minh trong quan hệ giữa các quốc gia cũng như sự phát triển của luật pháp quốc tế trong thời đại ngày nay.
2.2. Đảm bảo hòa bình trong quan hệ quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình
Xuyên suốt trong quan điểm ngoại giao Hồ Chí Minh chính là tư tưởng yêu chuộng hòa bình. Từ việc gửi Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Hòa bình Versailles năm 1919 và sau đó là việc gửi liên tiếp 20 thông điệp đến Mỹ và Tổng thống Truman (1945-1946), Người không ngừng nỗ lực thương lượng cho hòa bình “công bình và lý tưởng dân chủ phải thay cho chiến tranh”[17]. Trong bài trả lời phỏng vấn phóng viên báo Paris-Sài Gòn năm 1946 về việc Pháp quay trở lại Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nói: “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hòa bình. Chúng tôi không muốn chiến tranh. Tôi biết là nhân dân Pháp không muốn chiến tranh. Cuộc chiến tranh này chúng tôi đã muốn tránh bằng đủ mọi cách…Việt Nam không muốn là nơi chôn vùi bao nhiêu sinh mạng…[18]. Với một nhân cách lớn như Hồ Chí Minh, không bao giờ Bác muốn nhìn thấy cảnh đầu rơi máu chảy: “Than ôi, trước lòng bác ái, thì máu Pháp hay máu Việt Nam cũng đều là máu, người Pháp hay người Việt Nam cũng đều là người[19]. Trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Bác đã viết: “Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới[20]. Tư tưởng Hồ Chí Minh về hòa bình chính là sự kế thừa truyền thống ngàn năm văn hiến của cha ông ta về yêu chuộng hòa bình; hành động đấu tranh bảo vệ tổ quốc chỉ là giải pháp cuối cùng khi giải pháp hòa bình không đạt được. Bác đã nêu rõ: “Đối với tất cả các nước trên thế giới, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa mong muốn duy trì tình hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng hòa bình thế giới lâu dài”[21]. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Người luôn đề cao ưu tiên chọn giải pháp thương lượng hòa bình, chiến tranh chỉ là giải pháp cuối cùng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên định thực hiện mục tiêu cao cả nhất của cách mạng là hòa bình, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, chống chiến tranh xâm lược. Trong khi kiên quyết giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chống lại sự xâm lược, đô hộ của ngoại bang, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn kiên trì đường lối hòa bình, hữu nghị, hợp tác với các nước, trước hết là các nước lớn và các nước láng giềng, qua đó đã thu hút được sự đoàn kết và ủng hộ của đông đảo nhân dân trên thế giới, ngay cả nhân dân của các nước xâm lược từ bản xứ. Trong bối cảnh hiện nay, xu hướng chung của thế giới và khu vực vẫn là hòa bình, ổn định, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển. Tuy nhiên, tình hình thế giới có những thay đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường với những bất ổn như xung đột ở Trung Đông, châu Phi, chủ nghĩa khủng bố, cạnh tranh chiến lược giữa các nước, chủ nghĩa đơn phương, chính trị cường quyền, thiếu tôn trọng luật pháp quốc tế, khiến thế giới đang phải đối mặt với nhiều vấn đề an ninh phi truyền thống, đòi hỏi chúng ta phải vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong các đối sách ngoại giao và hợp tác quốc tế. Muốn vậy, phải thấm nhuần tương tưởng của Bác về hòa hiếu, thêm bạn bớt thù. Từ hoàn cảnh cách mạng, có lúc phải đối phó với nhiều đối thủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu bật phương châm“...làm cho nước mình ít kẻ thù và nhiều bạn đồng minh hơn hết”[22].
Do quan hệ quốc tế phức tạp, đa chiều, lợi ích các quốc gia, dân tộc nhiều khi đan xen hoặc đối lập, Đảng ta đã có cách nhìn nhận biện chứng với phương châm “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”; xác định đồng minh, đối thủ là bộ phận quan trọng trong sách lược cách mạng, giúp xử lý hiệu quả các mâu thuẫn, thu hút sự ủng hộ của bạn bè và cô lập kẻ thù. Tính biện chứng còn được thể hiện ở chỗ xác định rõ các khái niệm “đối tác”, “đối tượng” nhằm phân biệt rõ “đối tác” cần hợp tác và “đối tượng” cần đấu tranh trong từng trường hợp cụ thể.
2.3. Tuân thủ nghiêm các nghĩa vụ phát sinh từ cam kết quốc tế
Tuân thủ nghiêm chỉnh nghĩa vụ quốc gia phát sinh từ cam kết quốc tế là một nguyên tắc quan trọng trong Hiến chương Liên hợp quốc, về sau được thể hiện một cách đầy đủ hơn về mặt nội hàm trong Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế với tên gọi là nguyên tắc Pacta sunt servanda (tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế).
Với tầm nhìn chiến lược, với kiến thức uyên bác và văn hóa kết tinh giữa tinh hoa văn hóa nhân loại với truyền thống văn hóa dân tộc, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ về tính tối thượng của luật pháp quốc tế.
Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, trước âm mưu thôn tính và tiếp tục áp đặt chính sách thuộc địa đối với Việt Nam của thực dân Pháp, cùng với đó là mưu đồ của chính quyền Tưởng Giới Thạch, trên cơ sở cân nhắc nhiều khía cạnh, nhiều vấn đề, tính toán thiệt hơn, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định ký với Pháp Hiệp định Sơ bộ vào ngày 06/3/1946 giữa đại diện Chính phủ Pháp là Xanh-tơ-ny - Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Đông Dương và Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa Hồ Chí Minh cùng Đặc ủy viên Hội đồng các bộ trưởng Vũ Hồng Khanh. Hiệp định ghi rõ “Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ của mình, tài chính của mình... Về việc thống nhất 3 kỳ của nước Việt Nam, Chính phủ Pháp cam đoan thừa nhận những quyết định của nhân dân trực tiếp phán quyết. Chính phủ Việt Nam tuyên bố sẵn sàng thân thiện tiếp đón quân đội Pháp vào thay thế quân đội Trung Hoa. 2 chính phủ thỏa thuận lực lượng thay thế quân đội Trung Hoa gồm có 10 ngàn quân Việt Nam thuộc quyền các nhà chức trách quân sự Việt Nam, 15 ngàn quân Pháp, kể cả số lính Pháp hiện đã đóng ở miền Bắc Việt Nam sẽ thay thế quân Tưởng, số quân này sẽ rút khỏi Việt Nam trong vòng 5 năm, mỗi năm một phần năm quân số”. Mặc dù hiểu rõ bản chất lật lọng của thực dân Pháp, nhưng Bác vẫn ra “Lời kêu gọi sau khi ký Hiệp định sơ bộ”, tron đó nhấn mạnh rõ “Chúng ta đã ký, thì chúng ta quyết thành thực làm đúng theo bản Hiệp định. Song muốn đi đến kết quả hoàn hảo cho hai dân tộc, thì phía Pháp cũng phải thành thực làm đúng theo bản Hiệp định ấy”[23]. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không dừng ở việc cam kết thực thi Hiệp định - thể hiện uy tín quốc tế của Chính phủ Việt Nam, mà còn đồng thời yêu cầu Chính phủ Pháp cũng phải thực thi nghiêm Hiệp định. Thực tế sau đó đã chứng minh, phía Pháp không giữ đúng cam kết và buộc phía ta phải trường kỳ kháng chiến trong suốt 9 năm ròng để đánh đuổi thực dân Pháp.
Vào hồi 17h30 ngày 7 tháng 5 năm 1954, Hội nghị Đông Dương nhận được tin thất bại của đế quốc Pháp. Chính vì vậy, những vấn đề về tình hình chiến sự tại Đông Dương đã được sớm đưa ra bàn luận. Lập trường bên phía Việt Nam kiên quyết yêu cầu nền hòa bình, độc lập của 3 nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Mọi vấn đề của người Việt Nam, đất nước Việt Nam phải do dân Việt Nam quyết định, giải quyết, nước ngoài không được quyền can dự vào chính trị tại Việt Nam. Kết quả là, Hiệp định Giơnevơ được ký ngày 20 tháng 7 năm 1954 tại Thụy Sỹ, với những nội dung chính là các nước có mặt tại Hiệp định tôn trọng và cam kết đảm bảo về quyền dân tộc, độc lập, thống  nhất, toàn vẹn lãnh thổ tại Việt Nam, Campuchia và Lào. Tất cả các nước có mặt ký vào hiệp ước cam kết không can dự vào nội bộ, chính trị của 3 nước. Việt Nam tiến tới thống nhất đất nước, tuyên bố sự toàn vẹn lãnh thổ bằng cuộc tổng tuyển cử tự do được diễn ra trong cả nước. Cuộc tổng tuyển cử này được dự tính sẽ tổ chức vào tháng 7 năm 1956. Mọi diễn biến sẽ được kiểm soát và thực hiện dưới sự giám sát của Ủy ban quốc tế.
Tương tự như sau khi ký kết Hiệp định sơ bộ năm 1946, ngay sau khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra “Lời kêu gọi sau khi Hội nghị Giơ ne vơ thành công, trong đó nhấn mạnh: “Chúng ta quyết làm đúng những điều đã ký kết với Chính phủ Pháp, đồng thời chúng ta đòi Chính phủ Pháp phải làm đúng những điều họ đã ký kết với ta[24].
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về tuân thủ nghiêm chỉnh nghĩa vụ quốc gia phát sinh từ cam kết quốc tế xuất phát từ truyền thống “trọng tín” của dân tộc ta. Từ xa xưa, cha ông ta đã coi “bội tín” là một điều trái đạo đức. Thực tế, trong việc thi hành hai bản Hiệp định trên, cũng như Hiệp định Paris năm 1973 lúc Người đã mất, chính phía Pháp và Mỹ - những quốc gia luôn lớn tiếng rao giảng về luật pháp quốc tế - đã chủ động vi phạm cam kết phát sinh từ các hiệp định. Phía Việt Nam luôn tuân thủ nghiêm túc nghĩa vụ đã cam kết và hành động đấu tranh chống ngoại xâm chỉ là biện pháp mang tính tự vệ, hợp đạo lý, lẽ phải.
Tóm lại, chính nhờ sự vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thượng tôn luật pháp quốc tế, trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế, chúng ta đã đạt được thắng lợi với việc gia nhập ASEAN năm 1995, gia nhập các tổ chức khu vực và toàn cầu, như Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM, năm 1996), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC, năm 1998), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO, năm 2006), từng bước hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế giới với việc tham gia đàm phán và ký kết các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới như CPTPP, EVFTA...
Trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và thượng tôn luật pháp quốc tế, Đảng ta luôn có những chủ trương, quyết sách đúng đắn, phù hợp với từng điều kiện hoàn cảnh cụ thể nhưng vẫn giữ vững những lập trường có tính nguyên tắc, cụ thể như sau:
Thứ nhất, xác định rõ ưu tiên lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ vững độc lập, tự chủ; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Giữ vững lợi ích quốc gia, dân tộc, trong bối cảnh hội nhập, độc lập tự chủ có nội hàm mới là sự tương tác để có quyền tham gia quyết định các vấn đề khu vực, quốc tế và khả năng sử dụng các nguồn lực bên ngoài để giải quyết các vấn đề quốc gia. Độc lập, tự chủ cũng chính là điều kiện tiên quyết cho hội nhập hiệu quả. Bên cạnh đó, độc lập, tự chủ còn là tiền đề để đa dạng hóa, đa phương hóa; đa dạng hóa, đa phương hóa là phương cách hiệu quả để giữ vững độc lập, tự chủ, đặc biệt khi đất nước ta ngày càng hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trong môi trường quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp.
Thứ hai, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm; đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào chiều sâu; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Việc xác định Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”, “hội nhập quốc tế” một cách toàn diện, cũng như làm sâu sắc các mối quan hệ quốc tế của nước ta đã thể hiện những chuyển biến quan trọng trong tư duy đối ngoại của Đảng, phù hợp với những thay đổi của tình hình đất nước và thế giới. Triển khai chính sách đối ngoại theo định hướng này đã và đang giúp tăng cường uy tín, vị thế quốc tế của ta; tập hợp lực lượng, huy động sự ủng hộ, thiện cảm của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề an ninh và phát triển mà ta đang theo đuổi. Trong quá trình hội nhập sâu rộng vào “sân chơi” toàn cầu và khu vực, Việt Nam chủ động tham gia xây dựng các quy tắc, luật lệ ứng xử chung trong quan hệ quốc tế phù hợp với lợi ích quốc gia cũng như thế, lực và trình độ phát triển của đất nước khi hội nhập quốc tế. Nghị quyết số 22-NQ/TW (ngày 10/4/2013) của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế đã có những chỉ đạo chiến lược, thống nhất nhận thức, làm rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung cơ bản của hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực, các định hướng giải pháp lớn để triển khai thực hiện trong thời gian tới.
Thứ ba, đổi mới tư duy về an ninh trong xử lý mối quan hệ đối tác - đối tượng. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xử lý quan hệ quốc tế, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (năm 1992) xác định rõ phương châm xử lý các vấn đề đối ngoại là phải nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. Đến Hội nghị Trung ương 8 khóa IX (năm 2003), quan điểm này đã được phát triển và cụ thể hóa thêm, là cách nhìn nhận có tính biện chứng về mối quan hệ giữa “đối tượng” (đấu tranh) và“đối tác” (hợp tác), từ đó hình thành nguyên lý nhìn nhận mềm dẻo về các khái niệm này. Đây là đột phá quan trọng về tư duy để tạo được nhận thức chung trong việc tăng cường quan hệ hợp tác với hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các nước chưa hoàn toàn thiện chí với nước ta, giúp chúng ta thêm bạn bớt thù, tăng cường sức mạnh tổng hợp, tất cả vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội./.
TS. Nguyễn Hữu Huyên*
TS. Nguyễn Hoàng Long**
 
 
[1] Điếu văn của BCHTW Đảng do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất BCHTW Đảng Lao động Việt Nam đọc tại Lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 09/9/1969.
[2] Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi.
[3] Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt.
[4] Lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17/7/1966 . Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.107-110.
[5] Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 112
[6] Hồ Chí Minh Tuyển tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr. 697.
[7] Bộ Ngoại giao: Bác Hồ và hoạt động ngoại giao - Một vài kỷ niệm về Bác, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2008, tr. 119.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tập 4, tr. 147.
[9] Văn kiện Đảng: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tập 8, tr. 27.
[10] Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi.
[11] Hồ Chí Minh Tuyển  tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tập 1, tr. 314.
[12] Hồ Chí Minh tuyển tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr. VIII.
[13] Hồ Chí Minh tuyển tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, tr. 13.
[14] Hồ Chí Minh tuyển tập 1, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2002, Đông dương và Triều Tiên, tr. 25.
[15] Hồ Chí Minh Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tập 6, tr. 522.
[16] Phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 30 (2018).
[17] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd. Tập 4, tr. 77.
[18] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd. Tập 4, tr. 526.
[19] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd. Tập 4, tr. 510.
[20] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd. Tập 2, tr. 97.
[21] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd. Tập 11, tr. 269.
[22] Văn kiện Đảng Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tập 8, tr. 2.
[23] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd. Tập 2, trang 62
[24] Hồ Chí Minh toàn tập, Sđd. Tập 2, trang 762.
 
* Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tư pháp.
 
** Cục trưởng Cục Ngoại vụ, Bộ Ngoại giao; Nguyên Đại sứ đặc mệnh toàn quyền CHXHCN Việt Nam tại Cộng hòa Italia; Đại sứ đặc mệnh toàn quyền CHXHCN Việt Nam (mới được bổ nhiệm) tại Vương quốc Anh.