Kinh nghiệm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực thi pháp luật và xây dựng chính quyền tại Đồng Tháp

26/11/2020
I. Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ chính trị lỗi lạc của dân tộc và của Đảng ta, một trong những nhà chính trị lớn nhất của thời đại. Những quan điểm xây dựng hệ thống chính trị trong tư tưởng của Người đã kế thừa và vượt qua tư tưởng chính trị truyền thống, tiếp thu những giá trị phổ biến của văn minh chính trị nhân loại, tìm ra và giải quyết các vấn đề dân tộc theo giá trị và chuẩn mực của nhân loại.
Hồ Chí Minh đã kế thừa những giá trị tiêu biểu trong tư tưởng chính trị truyền thống Việt Nam, trong đó tập trung nhất là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, bảo vệ nền độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ cuộc sống, tự do, hòa bình; kế thừa một cách chọn lọc tư tưởng chính trị đạo đức: cởi mở, phóng khoáng, khoan dung…; tư tưởng pháp quyền; kế thừa tư tưởng chính trị thân dân. Đây cũng là nhân tố quan trọng làm cho Hồ Chí Minh trở thành một lãnh tụ chính trị vĩ đại của Việt Nam và thế giới, vì Người đã nhìn thấy vai trò quyết định của nhân dân để xây dựng nền chính trị thân dân. 
Những quan điểm xây dựng hệ thống chính trị trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh kế thừa một cách chọn lọc tư tưởng chính trị Việt Nam và văn minh nhân loại; đặc biệt là từ văn minh phương Tây về cách tổ chức xã hội, cách tổ chức quyền lực gắn liền với những giá trị: tự do, bình đẳng, bác ái, nhân quyền, dân quyền, pháp quyền, dân chủ, cách mạng xã hội, đặc biệt là chủ nghĩa cộng sản và con đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo Luận cương của V.I Lênin.
Kế thừa một cách chọn lọc tư tưởng chính trị truyền thống Việt Nam và nhân loại, Hồ Chí Minh đã vượt qua tư duy chính trị cổ truyền của tư tưởng phong kiến, lập trường dân chủ tư sản, để hình thành một hệ thống tư tưởng chính trị giàu lòng yêu nước thương dân, có tầm nhìn xa trông rộng, thấy được xu thế của thời đại, lợi ích sống còn của dân tộc, đất nước; làm giàu cho văn hiến, văn minh, văn hóa Việt Nam.
II. Kinh nghiệm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực thi pháp luật tại tỉnh Đồng Tháp[1]
1. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về thực thi pháp luật
Sau khi đất nước được độc lập, Hồ Chí Minh chú trọng đến việc xây dựng Nhà nước pháp quyền để điều hành Nhà nước một cách có hiệu quả. Theo Người, trách nhiệm của hệ thống chính trị là phải đưa Hiến pháp và pháp luật vào trong cuộc sống. Vì dân chủ đích thực bao giờ cũng đi liền với kỷ cương, phép nước. Người đòi hỏi mọi người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người đó giữ cương vị nào.
Trách nhiệm của hệ thống chính trị Việt Nam xây dựng một Nhà nước pháp quyền, bảo đảm mọi quyền và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống; phải giáo dục pháp luật cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ. Hệ thống chính trị của đất nước chỉ phát huy hiệu quả khi quản lý xã hội bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu lực trong thực tế. 
Thực hiện quan điểm quản lý nhà nước bằng pháp luật và đưa pháp luật vào trong cuộc sống, hệ thống chính trị của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ Trung ương đến các địa phương đều hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, chăm lo mọi mặt đời sống cho nhân dân, nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu nhất của cuộc sống thường nhật, cho đến thực hiện quyền lợi cao cả nhất của công dân một nước độc lập. Nhân dân Việt Nam được hưởng quyền công dân của một nước tự do, độc lập; được sử dụng quyền đó để xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh - một Nhà nước tiến bộ, phù hợp với xu thế của thời đại.  
Pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong quản lý nhà nước và xã hội: Tư tưởng về một Hiến pháp dân chủ làm nền tảng cho một nhà nước dân chủ và thượng tôn pháp luật đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẩn trương thực hiện ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công. Với sự ra đời của Hiến pháp năm 1946, tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước dân chủ và pháp quyền, về một nền pháp luật của dân, do dân và vì dân đã trở thành hiện thực.
Pháp luật tạo dựng và bảo vệ kỷ cương: Bên cạnh tư tưởng đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước và xã hội, tư tưởng về pháp chế cách mạng, pháp chế xã hội chủ nghĩa thể hiện rõ nét trong tư tưởng Hồ Chí Minh, mặc dù thuật ngữ đó không được sử dụng trong Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Tư tưởng đó thể hiện tại Mục A, chương II Hiến pháp năm 1946 dành 2 điều quy định nghĩa vụ của công dân, thì nghĩa vụ tôn trọng Hiến pháp, tuân theo pháp luật được đặt ra ngay sau nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Hiến pháp năm 1959 thể hiện điều đó rõ nét và đầy đủ hơn khi quy định: “Tất cả nhân viên cơ quan nhà nước đều phải… tuân theo Hiến pháp và pháp luật…; Nhà nước chiểu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu về đất đai… về tư liệu sản xuất… của nông dân, người lao động riêng lẻ, tư sản dân tộc; công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật, kỷ luật lao động, trật tự công cộng và những quy tắc sinh hoạt công cộng”.
Ngoài ra, tư tưởng về một nền pháp chế cách mạng, dân chủ được thể hiện trong những bài viết, bài nói chuyện, thư gửi của Người tại các hội nghị của các ngành, các cấp. Thí dụ, trong bài viết về đạo đức công dân, tiêu chuẩn đầu tiên mà người nêu ra là: “tuân thủ pháp luật của nhà nước”. Những điều đó còn nguyên tính thời sự cho đến ngày nay, khi chúng ta đang xây dựng một Nhà nước pháp quyền, đòi hỏi mọi công dân đều phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh và đặt pháp luật lên trên hết.
Pháp luật có tính dân tộc: Những năm bôn ba ở nước ngoài, rồi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, người chiến sỹ cộng sản Nguyễn Ái Quốc, tuy coi mình là một học trò trung thành của Lê-nin, nhưng vẫn suy nghĩ để định hướng cho một kiểu hiến pháp thích hợp với xã hội và con người Việt Nam, chứ không nhất thiết theo kiểu Cộng hoà Xô - Viết. Hiến chính Hồ Chí Minh mà cách mạng Tháng Tám xác nhận và thực thi bằng Tuyên ngôn Độc lập và Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, là một Hiến chính dân tộc dân chủ mang đậm nét sắc thái đất nước và con người Việt Nam. Cũng là dân chủ, nhưng dân chủ ở Việt Nam là hết sức rộng rãi, chưa từng thấy trong lịch sử. Điều thứ 1, Hiến pháp năm 1946 quy định: “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đặc biệt, tiêu biểu nhất là chế độ phổ thông đầu phiếu. Phổ thông đến cực độ. Mọi công dân đều đi bầu. Không loại trừ ai. Không cần điều kiện gì. Không biết đọc biết viết cũng không hề gì. Điều đó chỉ có ở tư tưởng Hồ Chí Minh, mà xuất phát từ cái bất biến trong tư tưởng hiến chính của Người: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Pháp luật phải dân chủ, nhân văn, vì con người: Trong việc xây dựng hệ thống pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng tính nhân văn. Với Người, pháp luật là do con người và vì con người, không theo kiểu pháp luật độc tôn. Trong tư tưởng của Người, bao giờ cũng chú ý tới tính hài hoà, giải quyết mối quan hệ giữa người với người, giữa người với công việc trên nền tảng có lý, có tình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện một hệ thống quan điểm rõ ràng, nhất quán về việc xây dựng Hiến pháp vì con người. Trong bản “Yêu sách của nhân dân An Nam” gửi tới Hội nghị Versaile, Nguyễn Ái Quốc đã yêu cầu phải để cho nhân dân An Nam có quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội và hội họp, tự do giáo dục. Mấy năm sau, trong thư “Nhời hô hoán gửi Hội Vạn quốc”, Nguyễn Ái Quốc một lần nữa đề nghị: “Nếu được độc lập ngay thì nước chúng tôi… sắp đặt một bản Hiến pháp về phương diện chính trị và xã hội theo những lý tưởng dân quyền”. Khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chủ tịch Hồ Chí Minh viện dẫn Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789 để khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Đây là tư tưởng về quyền con người và hơn nữa, đó là quyền con người gắn bó với quyền của cả quốc gia, dân tộc.
Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật là cơ sở thực hiện quyền dân chủ. Tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ cách mạng lâm thời (03/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ phải ban hành Hiến pháp cho Nhà nước dân chủ mới và xem đó là một trong 6 nhiệm vụ cấp bách của chính quyền nhà nước non trẻ. Tại Lễ tuyên thệ cho các Thẩm phán mới, tổ chức long trọng ở “Lâu đài công lý” (Palais de justice), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tỏ rõ quan điểm về một nền tư pháp vì dân trong lời căn dặn: “Thẩm phán của nước Việt Nam mới, xét xử là phải phục vụ nhân dân, chứ không phải đèn trời soi xét”. Người đã nêu cao tác phong gần dân, vì dân, xác định điều đó như lý tưởng, mục tiêu duy nhất của người cán bộ tư pháp.
Như vậy, trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật sinh ra không vì một cái gì khác hơn là vì dân. Việc đưa tư tưởng lập hiến và pháp quyền dân chủ vào cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam là đóng góp vô cùng quí báu và to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Pháp lý dân chủ và nhân đạo, mang tính người và tình người là yêu cầu mới nhất của trào lưu tiến bộ trên thế giới hiện nay.
Pháp luật đi đôi với đạo đức nhân nghĩa: Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người nặng về “đức trị”, coi nhẹ “pháp trị”, mà là người kết  hợp chặt chẽ đức trị và pháp trị. Cùng với việc nêu cao vai trò của đạo đức cách mạng, Bác Hồ không quên vai trò quan trọng của pháp luật. Điều đó cắt nghĩa vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh là một con người bao dung, nhân hậu, nhưng cũng rất nghiêm khắc, không bỏ qua, bao che sai lầm, khuyết điểm, luôn đòi hỏi sự bình đẳng trước pháp luật. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Đại tá Trần Dụ Châu khi làm Cục trưởng Cục Quân nhu đã lợi dụng chức vụ, bớt xén phần cơm áo, vốn đã rất kham khổ, thiếu thốn của bộ đội để sống phè phỡn, truỵ lạc, lãng phí. Vụ án được khởi tố, đưa ra Toà án quân sự, Trần Dụ Châu bị lãnh án tử hình. Trần Dụ Châu và gia đình kháng án lên Bác Hồ, xin được khoan hồng. Vụ án đã gây cho Bác Hồ một nỗi buồn sâu sắc. Nhưng, đối với loại sâu mọt đục khoét dân, trị một người để cứu muôn người, Bác đã ký lệnh bác đơn chống án của Trần Dụ Châu, dù rất đau lòng. Qua đó, có thể thấy bên cạnh đạo đức, Bác Hồ rất đề cao pháp luật.
Có ai đó đặt câu hỏi: giữa đạo đức và pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh trọng đức trị hay pháp trị hơn? Theo tác giả Vũ Đình Hòe, cả đạo đức và pháp luật, đức trị và pháp trị vốn chỉ là một, một căn nguyên, cùng một bản chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là gốc, pháp luật là chuẩn. Trong cái nhất thể “đạo đức - pháp luật”, xét về cội nguồn thì thiện, đức có trước và là gốc của lệ, luật. Xét về công dụng đối với đời sống xã hội thì đạo đức gây men sống, còn pháp luật là chuẩn, xác định mức độ, phạm vi, phương pháp tác động của men sống ấy chỉ đạo hành động con người và bảo đảm hành động ấy có hiệu quả đối với xã hội. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, pháp luật là tất yếu cần cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, hình thành mọi quan hệ xã hội hợp chuẩn đã định. Cho nên trước Cách mạng Tháng Tám và ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghĩ đến, lo việc soạn thảo Hiến pháp và xây dựng hệ thống luật pháp.
Nhưng, gốc có bền thì cây mới đứng được và tươi tốt lên. Đồng thời với việc soạn thảo Hiến pháp, Bác ra lệnh giữ lại mọi luật, lệ cũ còn thích hợp với chế độ mới. Người gửi thư “khẩn cấp” cho các Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (tháng 12/1945) và gửi thư cho đồng bào Bắc Bộ (năm 1947) để răn bảo cán bộ ngoài Đảng, trong Đảng sớm biết tu tỉnh, tẩy rửa mọi thói hư, tật xấu, tư thù, tư oán, cậy thế, cậy thần, quân phiệt hà hiếp, kể cả hẹp hòi, chuộng hình thức, ích kỷ, hám lợi danh; nghĩa là những điều luân lý thông thường, những yêu cầu sơ đẳng của đạo đức làm người, của cái thiện bẩm sinh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức và pháp luật là hai mặt không thể tách rời trong người cán bộ pháp lý. “Có thấm nhuần đạo đức vô sản, có thấm nhuần đức nhân của đạo đức thì người cán bộ pháp lý mới làm tốt công tác xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật”. Pháp luật đi đôi với đạo đức, xây dựng một nền pháp quyền nhân nghĩa là nét hết sức độc đáo của tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật. Tư tưởng đó có cội rễ hết sức sâu xa từ truyền thống, thấm nhuần đạo lý nhân bản của dân tộc song hành với tư tưởng về pháp lý của thế giới. Đó chính là sự kết tụ tinh hoa của dân tộc với những giá trị thời đại trong một con người Hồ Chí Minh.
Pháp luật phải có các điều kiện đảm bảo để thực thi: Đề cao vai trò của pháp luật, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời hết sức quan tâm đến vấn đề làm thế nào để pháp luật được thực thi. Người cho rằng trước hết, pháp luật phải đầy đủ, chính xác. Sau đó, pháp luật phải đến được với người dân, làm cho dân hiểu rõ pháp luật để sống và làm theo pháp luật. Người nói: “Một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một nhà nước làm cho mọi người dân biết sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền chỉ phát huy hiệu lực của mình khi nó biết kết hợp giáo dục đạo đức và pháp luật trong quản lý xã hội và nhà nước”. Cuối cùng, Người yêu cầu người thi hành pháp luật phải công tâm, minh bạch, nghiêm minh. Cũng trong Lễ tuyên thệ cho các Thẩm phán mới, Người nhắc nhở: “Thẩm phán của nước Việt Nam mới, phải “chí công vô tư”, không được để cho nén bạc đâm toạc tờ giấy”. Người đã nêu cao đức thanh liêm, đề cao hai chữ “công tâm” của người cán bộ tư pháp và yêu cầu không để lợi ích cá nhân làm mờ mắt mà làm sai pháp luật.
Có thể nói, tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật là tổng hợp các quan điểm về một nền pháp luật có vai trò hết sức quan trọng trong quản lý nhà nước và xã hội, một nền pháp luật dân chủ, vì con người, gắn liền với đạo đức, mang tính dân tộc và cần có các điều kiện đảm bảo để thực thi.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, càng thấy rõ hơn tầm vóc của một nhà tư tưởng lớn. Đã hơn 50 năm Bác đi xa nhưng những tư tưởng Người để lại cho chúng ta hôm nay, trong đó có tư tưởng về pháp luật, vẫn còn nguyên những giá trị mang tầm thời đại.
2. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực thi pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
2.1. Về tổ chức thi hành pháp luật
Tỉnh Đồng Tháp luôn quan tâm trong xây dựng, ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Đồng thời, tất cả các cấp tập trung tham mưu cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc ngành, lĩnh vực chuyên môn.
Cùng với những chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng và ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; công tác thi hành pháp luật cũng được quan tâm và chú trọng hơn đã góp phần nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật của cán bộ và nhân dân.
Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đã được các cấp, các ngành tích cực triển khai, hầu hết các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể từ tỉnh đến cơ sở đều xây dựng được chương trình, kế hoạch cụ thể, phù hợp với đặc điểm, tình hình của từng cơ quan, đơn vị và địa phương để tổ chức thực hiện; xác định rõ hơn công tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận quan trọng của công tác giáo dục chính trị tư tưởng từ tỉnh đến cơ sở, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật các cấp tập trung phổ biến sâu rộng, có hệ thống chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong đó chú trọng triển khai các văn bản luật được Quốc hội thông qua từng kỳ họp, các văn bản hướng dẫn của Trung ương và địa phương, những văn bản có liên quan mật thiết đến đời sống của nhân dân và nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức với nhiều hình thức phong phú, thiết thực: phổ biến, giáo dục pháp luật trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, khai thác tủ sách pháp luật; biên soạn, phát hành tài liệu tuyên truyền; lồng ghép vào các buổi sinh hoạt thường lệ hàng tháng của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể ở cơ sở; tuyên truyền qua phiên tòa xét xử lưu động, hoạt động hòa giải cơ sở; thông qua các loại hình văn hóa, văn nghệ… Duy trì thường xuyên việc tuyên truyền trên sóng Phát thanh - Truyền hình thông qua các chuyên mục: “Đồng hành cùng nhân dân”, “Pháp luật và chính sách”, “Tư vấn pháp luật trực tiếp trên sóng phát thanh - truyền hình”, “Cải cách hành chính”, “Vì An ninh tổ quốc”, “Câu chuyện giao thông”, “Gõ cửa luật sư”, “Biết để làm đúng”, “Hộp thư bạn xem đài”...; Từ năm 2009 đến nay, tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức hơn 1.087 cuộc thi (thi viết, hội thi) tìm hiểu pháp luật có 17.182.669 lượt người tham gia dự thi; biên soạn, in ấn 4.434.330 tài liệu phục vụ công tác phổ biến giáo dục pháp luật; tổ chức trợ giúp pháp lý lưu động được 1.273.50 điểm, thực hiện trợ giúp pháp lý 42.800 vụ việc, duy trì 144/144 xã, phường, thị trấn thành lập câu lạc bộ trợ giúp pháp lý; tại 144 xã, phường, thị trấn trong tỉnh có 565 tủ sách, trong đó có 77 tủ sách đặt tại Bưu điện Văn hóa xã, 380 Tủ sách pháp luật và 108 Tủ sách Đề án của Đảng. Toàn tỉnh có 735 tổ hòa giải, 4.317 hòa giải viên, các tổ Hòa giải trong tỉnh cũng tiếp nhận và đưa ra hòa giải 51.772 vụ việc, số vụ việc hòa giải thành đạt tỷ lệ 80,2%.
Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là một bước phát triển vượt bậc khi sử dụng trang thông tin điện tử để tuyên truyền pháp luật đến với người dân. Các đơn vị và địa phương quan tâm tuyên truyền về Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có liên quan đến người dân, doanh nghiệp như: Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; các điều ước quốc tế ký kết giữa Việt Nam với các nước có chung đường biên giới; điều ước về biển mà Việt Nam là thành viên,... và các lĩnh vực pháp luật thuộc phạm vi quản lý của từng ngành, địa phương.
2.2. Về tăng cường năng lực của các thiết chế xây dựng và thi hành pháp luật
Công tác tổ chức và kiện toàn bộ máy xây dựng và thi hành pháp luật tại địa phương trong những năm qua được quan tâm xây dựng và phát triển. Thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về tổ chức các bộ máy ở địa phương như: Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2019); Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014; Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014… nên địa phương đã chủ động thực hiện kiện toàn bộ máy làm việc đáp ứng yêu cầu công tác từ xây dựng văn bản đến công tác thi hành pháp luật. Hiện nay, việc bố trí cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn các cơ quan đảm bảo đúng quy định[2]. Tăng cường kiện toàn về pháp chế ở địa phương theo hướng kiện toàn tổ chức pháp chế theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP ngày 04/7/2011 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế, các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh[3]. Việc sắp xếp, bố trí bộ máy thực hiện theo đúng tinh thần chỉ đạo của Trung ương và Tỉnh ủy.[4]
2.3. Về đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực làm công tác pháp luật
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ  làm công tác pháp luật luôn được quan tâm. Các cấp, các ngành thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo các lớp tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ về công tác pháp luật; tạo điều kiện thuận lợi cho đội ngũ cán bộ làm công tác pháp luật được tham gia các lớp đào tạo luật trình độ trung cấp, đại học, sau đại học. Hiện nay, đội ngũ làm công tác pháp luật trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp đã cơ bản đáp ứng được yêu cầu về xây dựng và thi hành pháp luật tại địa phương, số lượng người có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực pháp luật ngày càng càng đáp ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội, đáp ứng nhu cầu đổi mới và hoàn thiện thể chế về pháp luật. Số lượng trình độ chuyên ngành luật đảm nhiệm công tác pháp luật chiếm tỷ lệ ngày càng cao, chú trọng đào tạo sau đại học.
2.4. Về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật
Thực hiện Kế hoạch hợp tác của Bộ Công an (Việt Nam) và Bộ Nội vụ (Campuchia), Biên bản thỏa thuận giữa chính quyền tỉnh Đồng Tháp - Pray veng. Hằng năm, Công an Đồng Tháp đều phối hợp với Ty Công an Prayveng, Vương quốc Campuchia ký kết Biên bản thỏa thuận hợp tác phòng chống tội phạm và đảm bảo an ninh trật tự khu vực biên giới. Trọng tâm là phối hợp đảm bảo tuyệt đối an toàn tiến trình phân giới cấm mốc biên giới Đồng Tháp - Prayveng và giải quyết giấy tờ pháp lý cho Việt Kiều ở Campuchia.
Ngoài ra, giữa Toà án nhân dân tỉnh Đồng Tháp và Tòa án Prayveng đã ký kết bảng thỏa thuận hợp tác vào năm 2013 và Bản thỏa thuận hợp tác sửa đổi, bổ sung năm 2019. Hợp tác với Tòa án Prayveng tổ chức 05 đợt tuyên truyển pháp luật cho Việt kiều; chuẩn bị kế hoạch hội thảo về một số vấn đề uỷ thác tư pháp giữa 02 tòa án.
2.5. Tình hình vi phạm pháp luật và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật
Năm 2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp đã tổ chức Hội nghị tổng kết 05 năm thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012. Số vụ việc vi phạm bị phát hiện: 368.824 vụ;
Số vụ vi phạm đã bị xử phạt:
+ Năm 2012: 40.158 vụ, có 93 vụ truy cứu trách nhiệm hình sự;
+ Năm 2013: 73.025 vụ; có 346 vụ truy cứu trách nhiệm hình sự;
+ Năm 2014: 69.824 vụ; có 772 vụ truy cứu trách nhiệm hình sự;
+ Năm 2015: 85.624 vụ; có 905 vụ truy cứu trách nhiệm hình sự;
+ Năm 2016: 82.535 vụ; có 615 vụ truy cứu trách nhiệm hình sự;
+ Năm 2017: 17.658 vụ; có 29 vụ truy cứu trách nhiệm hình sự.
Kết quả thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính qua các năm:
+ Năm 2012: Số quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành là: 42.698 quyết định, số quyết định đã thi hành là 39.674 quyết định, số quyết định chưa thi hành là 3.024 quyết định, số tiền phạt thu được là 35.125.550.000 đồng, số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 2.325.550.000 đồng.
+ Năm 2013: Số quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành là: 77.512 quyết định, số quyết định đã thi hành là 72.087 quyết định, số quyết định chưa thi hành là 5.425 quyết định, số tiền phạt thu được là 72.365.550.000 đồng, số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 3.586.025.000 đồng.
+ Năm 2014: Số quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành là: 80.236 quyết định, số quyết định đã thi hành là 76.021 quyết định, số quyết định chưa thi hành là 4.215 quyết định, số tiền phạt thu được là 64.875.320.000 đồng, số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 2.965.800.000 đồng.
+ Năm 2015: Số quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành là: 90.524 quyết định, số quyết định đã thi hành là 84.204 quyết định, số quyết định chưa thi hành là 6.320 quyết định, số tiền phạt thu được là 107.109.716.000.000 đồng, số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 3.897.350.000 đồng.
+ Năm 2016: Số quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành là: 81.789 quyết định, số quyết định đã thi hành là 73.762 quyết định, số quyết định chưa thi hành là 8.027 quyết định, số tiền phạt thu được là 107.109.716.000.000 đồng, số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 3.897.350.000 đồng.
+ Năm 2017: Số quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành là: 17.697 quyết định, số quyết định đã thi hành là 16.066 quyết định, số quyết định chưa thi hành là 1.631 quyết định, số tiền phạt thu được là 26.295.856.000 đồng, số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 351.900.000 đồng.
Trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp hành vi vi phạm pháp luật của cá nhân (thường là thanh thiếu niên) chủ yếu trên lĩnh vực trật tự an toàn xã hội như: Tệ nạn xã hội (đánh bạc, lô đề, sử dụng trái phép chất ma túy); vi phạm trật tự an toàn giao thông; vận chuyển hàng hóa trái phép qua biên giới; vận chuyển hàng cấm; gây rối trật tự công cộng; xâm hại sức khỏe người khác; lĩnh vực quản lý xuất nhập cảnh…; vi phạm hành chính đối với tổ chức chủ yếu trên lĩnh vực kinh tế, môi trường và an toàn thực phẩm.
Nguyên nhân dẫn đến tình hình vi phạm hành chính là do tác động của kinh tế thị trường và mức thu nhập trung bình của người dân trên địa bàn tỉnh còn tương đối thấp, đa số các đối tượng vi phạm đều là người nghèo, mặc dù có những trường hợp nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện để thu lợi bất chính.
III. Kinh nghiệm vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền địa phương tại tỉnh Đồng Tháp
1. Những quan điểm cơ bản của tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam
Hệ thống chính trị Việt Nam luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết
Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam là dòng tư tưởng lớn nhất và xuyên suốt tư duy và hành động của toàn dân tộc Việt Nam trong cả chiều dài lịch sử. Yêu nước và yêu dân là hai vấn đề cơ bản trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam. Không có lòng yêu nước chung chung trừu tượng mà yêu nước là yêu nhân dân, là đem lại độc lập tự chủ cho nhân dân, đem lại cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc cho nhân dân; luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết.
Vào năm 1946, trả lời phỏng vấn các nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành[5]; hoặc “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.[6] Đây cũng chính là lợi ích cao nhất của dân tộc mà Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam luôn hướng tới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cả cuộc đời mình với mong muốn mang lại độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho quê hương, đất nước, dân tộc. Suốt cuộc đời Người luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Những quan điểm của Người về xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam cũng luôn lấy lợi ích dân tộc làm cơ bản; là động lực, mục tiêu để hoàn thiện hệ thống chính trị.
Lợi ích dân tộc từng được Người khái quát với những giá trị cụ thể như độc lập, tự do, cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành… và các giá trị này luôn liên quan gắn bó chặt chẽ với nhau. Độc lập có giá trị vô cùng quý báu, song, với Người nếu có độc lập, tự do mà dân đói, dân khổ thì độc lập, tự do cũng chẳng có nghĩa lý gì. Lợi ích dân tộc trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh còn thể hiện trọn vẹn, đầy đủ tấm lòng của một con Người yêu nước, thương dân và thể hiện trách nhiệm của Người lãnh đạo.
Là người đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam, ngay từ những ngày đất nước mới giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm đến đời sống kinh tế, giảm tô thuế, mở lớp bình dân học vụ…; chú trọng chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, chú ý quyền lợi và những lợi ích thiết thực hàng ngày của dân: “Hiện nay những vấn đề gì là vấn đề cấp bách hơn cả. Một là, nhân dân đang đói… Vấn đề thứ hai, nạn dốt”[7]. Người nhấn mạnh độc lập rồi mà dân đói, dân rét, dân dốt, dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Người chỉ rõ để đảm bảo lợi ích dân tộc, nhiệm vụ cần kíp của hệ thống chính trị Việt Nam sau Cách mạng Tháng Tám (1945) cần tiêu diệt ba thứ giặc nguy hiểm là giặc đói, giặc dốt giặc ngoại xâm.
Trên cơ sở phân tích sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa lợi ích dân tộc với lợi ích của nhà nước, yêu nướcyêu dân, Hồ Chí Minh đã đi đến khẳng định việc đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả năng lực hoạt động của hệ thống chính trị. Đây cũng là một mục tiêu rất nhân văn của hệ thống chính trị Việt Nam. Nếu hoạt động của hệ thống chính trị kém hiệu quả, bộ máy quan liêu, đội ngũ cán bộ công chức, nhất là cán bộ chủ chốt, bị thoái hóa, biến chất thì hệ thống chính trị đó đã trượt ra khỏi quỹ đạo dân chủ nhân dân, trở thành một thế lực đối lập với nhân dân. Ngay từ những ngày đầu hình thành hệ thống chính trị, bằng nhạy cảm chính trị, chiêm nghiệm thực tiễn của mình, Hồ Chí Minh đã phát hiện và cảnh báo ngay từ rất sớm những căn bệnh có thể phát sinh làm biến dạng, tha hóa hệ thống chính trị Việt Nam. Theo Người, để quản lý đất nước, xã hội là một việc làm khó, cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị lại ít kinh nghiệm, chưa qua đào tạo, chắc chắn có thiếu sót, sai lầm, nhưng nếu biết thành thật, học hỏi, đặt lợi ích Nhân dân lên trên hết, trước hết thì có thể khắc phục, sửa chữa được.
Đặt lợi ích dân tộc lên trên hết trong việc xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam theo tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn giữ nguyên tính thời sự và cần được quán triệt trong công cuộc đổi mới hệ thống chính trị nước ta hiện nay.
Lấy dân làm gốc - tư tưởng chủ đạo trong xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam
Lấy dân làm gốc là tư tưởng chính trị truyền thống Việt Nam. Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã minh chứng sự thành công của những cuộc chiến tranh vệ quốc là nhờ ông cha ta đã thực hiện hiệu quả tư tưởng lấy dân làm gốc, đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết, quan tâm giải quyết những lợi ích thiết thực của dân thì mới huy động được sức mạnh của cả dân tộc để làm nên chiến thắng.
Các quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam phần lớn bắt nguồn từ quan điểm lấy dân làm gốc một tư tưởng chính trị trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Người cho rằng, không gì quý bằng dân và không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của nhân dân. Theo đó, trong quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân thì Nhà nước chỉ là bộ máy thừa hành của nhân dân, tất thảy nhân viên nhà nước là đầy tớ của nhân dân chứ không phải là “phụ mẫu chi dân” (cha mẹ của dân). Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức nhân dân là người chủ, địa vị cao nhất là dân, Nhà nước là của dân, do dân, vì dân. Người đã kế thừa những giá trị thân dân, lấy dân làm gốc, khoan thư sức dân... trong tư tưởng chính trị truyền thống của Việt Nam. Trong thực tiễn những chân lý “không có gì quý hơn độc lập tự do”, “ý dân là ý trời” của Hồ Chí Minh đã kế thừa tư tưởng truyền thống và nâng lên một tầm cao mới. Hồ Chí Minh luôn chú ý quan tâm đến những lợi ích thiết thực của nhân dân, từ “cơm”, “cà”, “mắm”, “muối” đều phải lo cho dân, bồi dưỡng sức dân.
Bên cạnh tư tưởng chính trị truyền thống Việt Nam, Hồ Chí Minh còn kế thừa tư tưởng chính trị Mác-xít trong quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng để xây dựng hệ thống chính trị Việt Nam. Người đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dân là lực lượng vô tận của cách mạng và là nhân tố tạo nên thắng lợi của cách mạng. Người đã khẳng định: “Có dân là có tất cả”, tin ở dân, dựa vào dân, tập hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân là nguyên tắc cơ bản trong chiến lược cách mạng của Người. Nguyên tắc quan trọng này bắt nguồn từ các giá trị trong truyền thống dân tộc: “Chở thuyền là dân, làm lật thuyền cũng là dân”, “Dễ mười lần không dân cũng chịu; Khó trăm lần dân liệu cũng xong”[8].
Người từng nói: Phải đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân, dựa vào lực lượng của dân, tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân, bởi dân là gốc của nước. Dân là người đã không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ đất nước. Nước không có dân thì không thành nước. Nước do dân xây dựng nên, do dân đem xương máu ra bảo vệ, do vậy dân là chủ của nước. Người nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó. Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, ủy thác cho tôi gánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó... Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”.[9]
Đề cao quan điểm lấy dân làm gốc, Người yêu cầu toàn bộ hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở phải lo cho dân, gánh vác việc của dân. “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”.[10]
Người thường xuyên căn dặn cán bộ nhân viên trong hệ thống chính trị phải quan tâm đến những kiến nghị, đề đạt của nhân dân: “Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý”[11].
Người cũng nêu rõ mối quan hệ biện chứng giữa dânnước, trên tinh thần nước lấy dân làm gốc; cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; dân là nước, đưa thuyền lên cũng là nước, lật chìm thuyền cũng là nước. Người nhấn mạnh: “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”.[12]
Với tư tưởng lấy dân làm gốc, đồng thời với tư cách là người đứng đầu hệ thống chính trị Việt Nam, Người đòi hỏi hệ thống chính trị phải có trách nhiệm hướng dẫn nhân dân tổ chức tốt đời sống, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, từng bước cải thiện đời sống vật chất, tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu cần thiết hàng ngày. Người nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ.
Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có học hành.
Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”[13].
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, tổng kết 30 năm đổi mới, Báo cáo chính trị trình Đại hội XII đã nêu lên 5 bài học kinh nghiệm quý báu, trong đó có một bài học lớn (bài học thứ hai) đổi mới phải luôn quán triệt quan điểm “lấy dân làm gốc”, vì lợi ích nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân.
Lấy dân làm gốc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân thành nguồn sức mạnh và động lực to lớn để tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển bền vững đất nước. Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội. Do đó, cần củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, giữ vững độc lập, thống nhất Tổ quốc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
2. Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng chính quyền địa phương tại tỉnh Đồng Tháp
Tại tỉnh Đồng Tháp, thời gian qua, các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo hướng chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả đảm bảo sự hài lòng của nhân dân đối với sự phục vụ của chính quyền.
Việc thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, công nghiệp và mô hình Hội quán đã tạo sự tăng trưởng cao về kinh tế, mở rộng giao thương và giao dịch tại địa phương. Năm 2019, GRDP của tỉnh đạt 6,47%/năm và GRDP/người đạt 50,46 triệu đồng/người.
Đồng Tháp đã triển khai thực hiện nghiêm túc Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 trên địa bàn tỉnh. Đồng Tháp nhất quán với chủ trương xây dựng: Chính quyền thân thiện, đồng hành cùng doanh nghiệp, phục vụ Nhân dân. Nhờ vậy, ngoài việc triển khai tốt các nhiệm vụ về cải cách hành chính theo chủ trương chung của Chính phủ, Tỉnh đã xây dựng và triển khai nhiều cách làm, giải pháp mới, sáng tạo được người dân, doanh nghiệp đánh giá cao, có thể kể đến một số mô hình như:
  - Mô hình “Cà phê Doanh nhân - Doanh nghiệp” để tạo kênh giao tiếp hiệu quả hơn, giúp nắm bắt và giải quyết kịp thời những vướng mắc của cộng đồng doanh nghiệp.
- Mô hình “Ngày thứ sáu nghe dân nói” để cấp ủy, chính quyền cấp xã lắng nghe nhiều hơn, kịp thời giải đáp những khúc mắc của người dân trên địa bàn quản lý.
- Triển khai việc gửi thư chúc mừng, thư chia buồn tới người dân nhằm thể hiện sự quan tâm, sẻ chia và gửi thư xin lỗi khi giải quyết hồ sơ có sai sót, quá hạn nhằm thể hiện sự nghiêm túc, trách nhiệm của chính quyền đối với người dân.
- Mô hình “Hẹn giờ hướng dẫn thực hiện thủ tục hành chính tại nhà theo yêu cầu của người dân” để tạo điều kiện hỗ trợ người dân được hướng dẫn, kê khai, tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả ngay tại nhà.
- Mô hình Trung tâm Hành chính công đầu tiên của Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long để giúp người dân, doanh nghiệp giao dịch thủ tục hành chính ở cấp tỉnh chỉ cần đến 01 nơi duy nhất.
- Xây dựng các video clip hướng dẫn thủ tục hành chính với hình thức trực quan, sinh động để người dân, doanh nghiệp dễ tiếp cận và dễ chuẩn bị các hồ sơ, giấy tờ hành chính.
- Triển khai Đề án thí điểm chuyển giao các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trên địa bàn tỉnh nhằm tạo đột phá trong việc triển khai chủ trương xã hội hoá các dịch vụ hành chính công.
- Đưa vào vận hành Tổng đài Thông tin dịch vụ công 1022 tỉnh Đồng Tháp là kênh thống nhất của Tỉnh nhằm tiếp nhận, giải đáp mọi yêu cầu, phản ánh, kiến nghị của người dân về thủ tục hành chính, dịch vụ công, thông tin kinh tế - xã hội, y tế, giáo dục, sự cố hạ tầng kỹ thuật…
Kết quả trên đã góp phần tích cực giúp Đồng Tháp luôn nằm trong Top đầu cả nước về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Báo cáo PCI năm 2019 vừa công bố, tỉnh Đồng Tháp tiếp tục giữ vững ngôi vị Á quân cả nước với 72,10 điểm, xếp sau Quảng Ninh với 73,40 điểm. So với PCI năm 2018, Đồng Tháp tăng 1,91 điểm. Với kết quả này, Đồng Tháp tiếp tục nối dài kỷ lục là tỉnh duy nhất 12 năm liên tiếp nằm trong nhóm năm tỉnh, thành phố đứng đầu PCI cả nước, Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) năm 2019 đứng thứ 3/63 tỉnh, thành phố. Qua đó, góp phần hoàn thành tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thu hút đầu tư, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân. Đặc biệt là mang đến sự tin tưởng và hài lòng ngày càng cao đối với người dân, doanh nghiệp về hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền các cấp trên địa bàn tỉnh.  
2.1. Mô hình Hội quán nông dân phát huy hiệu quả
Xuất phát từ ý kiến đề xuất của bà con nông dân trồng nhãn ở xã An Nhơn, huyện Châu Thành, và được lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp mà đứng đầu là Bí Thư Tỉnh uỷ - Lê Minh Hoan hỗ trợ, thúc đẩy. Tháng 6 năm 2016, Canh Tân Hội Quán đã được thành lập. Đến nay, tỉnh Đồng Tháp đã có 94 Hội quán, với gần 5.100 Hội viên. Hầu hết các hội quán tập hợp những nông dân cùng sản xuất chung một ngành nghề như: lúa sạch, xoài, chanh, cam, quýt, hoa kiểng, sản xuất khô, trồng khoai môn, nuôi lươn, làm bột… cùng tham gia để sinh hoạt, chia sẻ kinh nghiệm, cách làm ăn giỏi. Các nhà khoa học, nhà chuyên môn về nông nghiệp, đã đến trao đổi với nông dân về những kỹ thuật sản xuất mới, phương pháp giảm giá thành, tăng năng suất, chất lượng; liên kết với các doanh nghiệp bao tiêu sản phẩm cho nông dân.
Description: C:\Users\Phuong\Desktop\tong bi thu.jpg
Ảnh: Tổng Bí thư  - Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng thăm mô hình Hội quán tại thành phố Cao Lãnh.
“Lâu nay bà con có nếp nghĩ “đèn nhà ai nấy sáng, ruộng nhà ai nấy mần”, bây giờ mời bà con vào hội quán như tham gia vào ngôi nhà chung. Mà đã là người chung nhà thì việc của người khác cũng là việc của mình. Do đó, hội quán ra đời là để  đổi mới, để mỗi người, mỗi nhà có điều kiện vươn lên; khi mọi người cùng chung tay, hợp sức sẽ làm cho khu vườn lớn hơn, vùng nguyên liệu quy mô hơn, có như vậy mới thoát ra cái bẫy sản xuất nhỏ, manh mún, tự phát…”.[14]
Description: C:\Users\Phuong\Desktop\thu tuong.png
Ảnh: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc thăm mô hình Hội quán tại
thành phố Cao Lãnh.
Description: C:\Users\Phuong\Desktop\CT quốc hội.jpg
Ảnh: Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân thăm mô hình Hội quán tại
thành phố Cao Lãnh.
Những kết quả đạt được của mô hình Hội quán:
- Góp phần phát triển kinh tế: mô hình Hội quán đã thể hiện được vai trò là trung tâm kết nối cộng đồng trong việc chuyển đổi phương thức sản xuất, chú trọng tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, sản xuất theo nhu cầu của thị trường; thay đổi dần quy trình sản xuất truyền thống, hàng hóa sản xuất không thương hiệu, giá cả không ổn định; Hội quán đã giúp chuyển biến nhận thức của nông dân sản xuất theo hướng công nghệ cao, theo quy trình hữu cơ sinh học,… xây dựng quy hoạch, có sự liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp phân phối, chế biến với các nhà sản xuất, hộ nông dân,… giúp giảm bớt những rủi ro cho tiêu thụ nông sản.
- Phát triển các loại hình hợp tác: hoạt động các Hội quán đi vào ổn định, thành viên Hội quán nhận thấy sản xuất, kinh doanh nhỏ lẽ, cá thể không đem lại hiệu quả cao nên cùng nhau vận động thành lập hợp tác xã, để liên kết sản xuất, kinh doanh với quy mô lớn nhằm nâng cao chuỗi giá trị ngành hàng. Từ sự liên kết, bước đầu các hội quán đã ký kết với các công ty trong việc tiêu thụ sản phẩm; thông qua việc ký kết đã nâng cao ý thức cho người dân trong sản xuất phải bảo đảm các yêu cầu, tiêu chuẩn về chất lượng, an toàn thực phẩm. Đến nay, đã có rất nhiều thành viên tham gia mô hình sản xuất theo yêu cầu của đối tác tiêu thụ.
- Phát huy tính tự quản cộng đồng: để tạo thói quen trong việc tập hợp, sinh hoạt định kỳ của người dân tại địa phương, qua sinh hoạt Hội quán, đời sống tinh thần người dân được nâng lên, chủ động đóng góp cho địa phương như: tham gia vận động xây dựng nhà tình thương, vận động xây dựng cầu, đường, cấp phát quà cho hộ nghèo, học bổng cho học sinh có hoàn cảnh khó khăn,… hình thức sinh hoạt mang tính tập trung của các hội quán đã giúp người dân phát huy tinh thần đoàn kết, kích hoạt sự đổi mới, sáng tạo, tập hợp những người cùng ngành nghề sản xuất, tự chủ, tự lực, tự quản. Qua đó, các cấp uỷ, chính quyền gần dân hơn, nắm tâm tư, nguyện vọng, tương tác với người dân thường xuyên; là nơi đổi mới cách tiếp cận phương pháp dân vận, tập hợp đoàn viên, hội viên và nhân dân.
- Góp phần thay đổi từ tư duy sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp: thông qua mô hình Jội quán đã dần xuất hiện tư duy lớn cho mô hình kinh tế tập thể; từ tư duy sản xuất nông nghiệp đã chuyển sang tư duy kinh tế nông nghiệp thị trường, hàng hóa, lấy chất lượng là tiên phong; người dân hiểu được họ đang cần gì và sẽ làm những gì, không còn tư tưởng trông chờ cấp uỷ, chính quyền nghĩ thay và ấn định; từng thành viên biết tận dụng, chia sẻ cùng phát triển, tạo ra một thương hiệu, thích ứng với thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao; thông qua sinh hoạt hội quán giữa các thành viên đã có niềm tin và tất cả vì lợi ích chung.
- Phát huy tính chủ động, sáng tạo, cách làm hay trong sản xuất, trong đời sống ở cơ sở: qua Hội quán đã xuất hiện nhiều cách làm sáng tạo, điển hình như: mô hình “Cây cam vườn tôi” của Đông Tân Hội quán, xã Tân Thuận Đông, thành phố Cao Lãnh, đến nay đã bán được 40 cây, với số tiền là 400 triệu đồng hay mô hình “Cây xoài nhà tôi” xã Mỹ Xương, huyện Cao Lãnh, đã bán được 224 cây xoài các loại với số thành viên tham gia mô hình là 27 thành viện, tổng số tiền trên 830 triệu đồng, có 32 đoàn khách đến tham quan để cùng thu hoạch và giao lưu với các nhà vườn, với mỗi cây xoài nhà vườn có lợi nhuận ít nhất 10%; qua mô hình giúp cho nhà vườn, hợp tác xã quảng bá thương hiệu Cam thành phố Cao Lãnh, Xoài Cao Lãnh không cần tốn phí thông qua khách tham quan. Bên cạnh đó, khách đến tham quan các nhà vườn được thưởng thức các món ăn ngon làm từ xoài cũng như tham gia các hoạt động giải trí câu cá, hái rau, đổ bánh xèo,… qua khách tham quan, nhà vườn học hỏi nhiều về các mặt, tìm hiểu được nhu cầu thực tế của khách để cải thiện hơn dịch vụ của mình, góp phần thúc đẩy mô hình phát triển du lịch cộng đồng.
- Góp phần bảo đảm an ninh trật tự, an sinh xã hội hướng tới phát triển bền vững: trong các buổi sinh hoạt Hội quán, Ban chủ nhiệm chủ động mời các đồng chí công an huyện, thị xã, thành phố báo cáo tình hình an ninh trật tự, phòng chống tội phạm, tai nạn giao thông,… Qua đó, đã giải quyết cơ bản những vấn đề có liên quan đến cuộc sống hàng ngày ở khu dân cư như: tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội và nhân dân ngày càng đoàn kết gắn bó, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau; có hội quán kết hợp với chi hội nông dân vận động thành viên góp vốn tương trợ theo định kỳ sinh hoạt, mỗi kỳ có từ 02 đế 05 thành viên nhận vố vay phát triển kinh tế gia đình. Ngoài ra, thành viên hội quán còn vận động nông dân thu gom bao bì thuốc bảo vệ thực vật để làm đẹp cảnh quang và môi trường sống,… giúp cho nhiều xã hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới trước thời hạn.
- Công tác phối hợp để tuyên truyền chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước: ngoài việc trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về sản xuất kinh doanh, ban chủ nhiệm các hội quán còn phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương lồng ghép tuyên truyền, thông tin các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các chương trình, đề án, kế hoạch, quy định ở địa phương, nội dung ngắn gọn, có trọng tâm như: xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh, tái cơ cấu nông nghiệp, phát triển du lịch, đưa lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, vệ sinh môi trường, phòng chống dịch bệnh, tình hình an ninh trật tự,...
2.2. Mô hình cà phê Doanh nhân - Doanh nghiệp - Nơi tháo gỡ vướng mắc của các Doanh nghiệp
Mô hình cà phê Doanh nhân - Doanh nghiệp được triển khai vào đầu năm 2016. Như tên gọi, đây là nơi để các lãnh đạo tỉnh, lãnh đạo các Sở gặp gỡ các doanh nhân, đại diện doanh nghiệp vào mỗi buổi sáng, từ 7 giờ 15 phút đến trước 8 giờ. Cà phê Doanh nhân - Doanh nghiệp không chỉ phản ánh những vướng mắc trong kinh doanh mà còn chia sẻ nhiều vấn đề khác như kế hoạch kinh doanh sắp tới của công ty, giới thiệu những đối tác muốn đầu tư ở Đồng Tháp… Lãnh đạo tỉnh sẽ chia sẻ về những chính sách thu hút đầu tư, giới thiệu các đơn vị có thể giúp các doanh nghiệp giải đáp mọi thắc mắc… với phương châm luôn đồng hành cùng doanh nghiệp.
Description: C:\Users\Phuong\Desktop\tải xuống (1).jpgDescription: C:\Users\Phuong\Desktop\tải xuống.jpg
Ảnh: Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp - Nguyễn Văn Dương tiếp và làm việc với Giám đốc WB tại Việt Nam - Ousmane Dione tại cà phê Doanh nhân - Doanh nghiệp.
Description: C:\Users\Phuong\Desktop\3-1.jpg
Ảnh: Lãnh đạo tỉnh Đồng Tháp tiếp doanh nghiệp tại cà phê Doanh nhân - Doanh nghiệp
“Doanh nghiệp là đòn bẩy giúp kinh tế địa phương phát triển, giúp đời sống người dân được nâng cao, do vậy chúng tôi xác định phải kề vai sát cánh với doanh nghiệp để kịp thời tháo gỡ những vương mắc cho doanh nghiệp để họ có điều kiện kinh doanh tốt nhất. Ở phương diện này, thời gian qua ủy ban tỉnh dù đã có một bước tiến trong việc quan tâm đến doanh nghiệp, từ chính sách ưu đãi đến thủ tục cấp phép kinh doanh… Tuy nhiên, vẫn còn đâu đó những vướng mắc mà các sở, ngành chưa giải quyết thấu đáo cho doanh nghiệp thì qua buổi cà phê sáng giữa lãnh đạo tỉnh với doanh nghiệp mọi việc sẽ được giải quyết mau lẹ hơn; các doanh nghiệp không phải chạy lòng vòng, không phải tốn nhiều thời gian, công sức...”.[15]
2.3. Thực hiện Đề án thí điểm chuyển giao các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
Thực hiện chủ trương chuyển một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm được nêu tại Tiết 4 Điểm 2.2 Khoản 2, Mục III - Nghị quyết số 18/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và các văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện của Chính phủ; ngày 06/6/2018, UBND tỉnh Đồng Tháp và Tổng Công ty Bưu điện Việt Nam đã ký kết Bản Thoả thuận ghi nhớ hợp tác và đến ngày 27/7/2018, UBND tỉnh Đồng Tháp đã phê duyệt Quyết định số 843/QĐ-UBND-HC về việc ban hành Đề án thí điểm chuyển giao các nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công trên địa bàn tỉnh.
Đề án tập trung vào việc Bưu điện tỉnh Đồng Tháp tham gia hỗ trợ tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC cho tổ chức, cá nhân theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông ở cả 3 cấp: Tỉnh, huyện và xã. Các lĩnh vực, TTHC chuyển giao cho Bưu điện được lựa chọn dựa trên tiêu chí từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp theo lộ trình phù hợp với năng lực của nhân viên Bưu điện. Cụ thể, nội dung chuyển giao trong giai đoạn thí điểm được xác định chủ yếu trên 02 nhiệm vụ:
(1) Về bố trí nhân sự: Nhân viên Bưu điện tham gia hỗ trợ tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC tại Bộ phận Một cửa các cấp.
(2) Về trụ sở Bộ phận Một cửa các cấp: Ưu tiên bố trí Bộ phận Một cửa tại trụ sở của Bưu điện, đáp ứng tiêu chí có vị trí giao thông thuận tiện, dễ tìm kiếm, dễ nhận dạng, tạo điều kiện tốt hơn cho người dân, doanh nghiệp đến thực hiện TTHC.
Là địa phương đầu tiên của cả nước triển khai thực hiện Đề án này, Đến nay, trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp Đề án đã triển khai thực hiện được 03 giai đoạn (giai đoạn 1, bắt đầu từ ngày 01/8/2018; giai đoạn 2, bắt đầu từ ngày 05/11/2018; giai đoạn 3, bắt đầu từ ngày 01/8/2019) và đã được thực hiện ở cả 03 cấp tỉnh, huyện, xã trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp, cụ thể như sau:
- Cấp tỉnh: Trung tâm Kiểm soát TTHC và Phục vụ hành chính công đã chuyển giao nhiệm vụ tham gia hỗ trợ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết đối với các TTHC thuộc 08 lĩnh vực: Ngoại vụ; Giáo dục và Đào tạo; Văn hóa - Thể thao và Du lịch; Lao động - Thương binh và Xã hội; Khoa học và Công nghệ; Thông tin và Truyền thông; Công Thương; Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Trụ sở Trung tâm dự kiến sẽ được di dời, bố trí sang Tòa nhà Bưu điện Tỉnh trong thời gian tới.
- Cấp huyện: 11/12 Bộ phận Một cửa cấp huyện đã chuyển giao nhiệm vụ tham gia hỗ trợ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC (04 đơn vị đã chuyển giao tất cả các lĩnh vực là: Tam Nông, Thanh Bình, Sa Đéc, Lấp Vò; các đơn vị còn lại chuyển giao từ 05 đến 10 lĩnh vực). 09/12 Bộ phận Một cửa cấp huyện đã bố trí trụ sở tại tòa nhà Bưu điện cấp huyện.
- Cấp xã: 29 Bộ phận Một cửa kết hợp Bưu điện Văn hóa cấp xã thuộc 12 huyện, thị xã, thành phố đã chuyển giao nhiệm vụ tham gia hỗ trợ tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả, hỗ trợ các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4, nhận, gửi các TTHC liên thông, các TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích, các TTHC theo Mô hình Hẹn giờ thực hiện TTHC tại nhà người dân trên địa bàn tỉnh...
Kết quả thực hiện mô hình thí điểm chuyển giao trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp thời gian qua cho thấy, các Sở, UBND cấp huyện, cấp xã cơ bản đã tổ chức thực hiện tốt Đề án. Công tác tiếp nhận hồ sơ, trả kết quả giải quyết TTHC chuyển giao cho Bưu điện được đảm bảo thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Từ khi triển khai Đề án đến nay, ở cấp tỉnh và cấp huyện nhân viên Bưu điện đã trực tiếp tiếp nhận và trả kết quả hơn 53.500 hồ sơ. Trong đó, Trung tâm Kiểm soát TTHC và Phục vụ hành chính công tiếp nhận hơn: 6.000 hồ sơ; Bộ phận Một cửa cấp huyện tiếp nhận hơn 47.500 hồ sơ. Ở cấp xã, tại Bộ phận Một cửa của 29 xã thực hiện thí điểm, nhân viên Bưu điện đã tham gia hỗ trợ Bộ phận Một cửa và người dân các công việc: Hướng dẫn, cung cấp, hỗ trợ tổ chức, công dân viết tờ khai TTHC; nhập liệu phần mềm một cửa điện tử; chuyển trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích; thực hiện dịch vụ công trực tuyến… Bên cạnh đó, công tác thông tin, tuyên truyền về Đề án cũng đã được các ngành, các cấp quan tâm thực hiện thông bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú.
Đánh giá chung việc thực hiện Đề án đã mang lại nhiều tiện ích cho tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện TTHC và được người dân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước đồng tình, ủng hộ. Hầu hết bộ phận một cửa đều có điều kiện cơ sở vật chất tốt hơn so với trước khi thực hiện Đề án. Công chức một cửa, nhân viên Bưu điện nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm được giao và thực hiện nhiệm vụ ngày càng tốt hơn. Các cơ quan, đơn vị, địa phương giảm chi đầu tư cơ sở vật chất, chi tiêu thường xuyên (số kinh phí hành chính tiết giảm ở cấp huyện và cấp xã là khoảng 25%) và giảm tải khối lượng công việc tại Bộ phận Một cửa và đơn vị chuyên môn; giảm số lượng công chức thực hiện nhiệm vụ hướng dẫn, tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả.
IV. Đề xuất, kiến nghị
Thực tiễn vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực thi pháp luật và xây dựng chính quyền tại tỉnh Đồng Tháp đã mang lại nhiều thành quả lớn lao. Để kiên định và bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp đề xuất thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 23-CT/TW ngày 9/2/2018 của Ban Bí thư khóa XII về “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả học tập, nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới gắn với “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, một cách thiết thực, hiệu quả. Trong đó, cấp ủy các cấp, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị phải chú trọng nắm chắc tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân để kịp thời nhận diện và kiên quyết phòng, chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, ngăn chặn những diễn biến xấu về tư tưởng, chính trị, phòng và chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng, trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, chú trọng xây dựng, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ nghiên cứu, giảng dạy về Hồ Chí Minh học từ đại học đến sau đại học, để đội ngũ cán bộ đó có trình độ chuyên môn chuyên sâu, có năng lực nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn tốt, góp phần bổ sung và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng các lực lượng chuyên trách, thường trực, tác chiến nhanh, chính xác, làm xoay chuyển tương quan so sánh lực lượng trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận để thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” gắn với việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ công tác giáo dục lý luận chính trị nói chung, nâng cao tính hấp dẫn trong dạy và học môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong hệ thống giáo dục quốc dân, góp phần làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc trong Đảng và trong xã hội.
Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan báo chí, truyền thông, kết hợp chặt chẽ với tuyên truyền miệng, các kênh thông tin khác, xây dựng chuyên trang, chuyên mục tuyên truyền phù hợp thực tế để chủ động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng gắn với nhân rộng các gương điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đa dạng hóa các phương pháp, hình thức đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch về cuộc đời, sự nghiệp Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng kết hợp với đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, gắn với công tác kiểm tra, đánh giá, tự phê bình và phê bình để không chỉ bảo vệ mà còn góp phần củng cố niềm tin vào tư tưởng Hồ Chí Minh - cội nguồn sức mạnh, tài sản tinh thần vô giá của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong hành trình hướng đến tương lai.
Thứ tư, đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó, cụ thể từng nội dung của chuyên đề hằng năm trong sinh hoạt của chi bộ, đoàn thể, trong các cuộc họp của cơ quan, đơn vị, trong các phong trào thi đua gắn với việc chủ động phòng, chống, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; coi đó là nhu cầu tự thân, nền nếp của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị và cá nhân, là một giải pháp căn cốt để bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần nâng cao tính tự giác trong học tập, tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tiếp tục nỗ lực học tập và nghiên cứu toàn diện, sâu sắc, có hệ thống di sản tư tưởng tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng trong thực tiễn và chủ động tuyên truyền, bảo vệ tư tưởng Hồ Chí Minh, làm cho tư tưởng của Người lan tỏa, thấm sâu trong Đảng và trong xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp 
 
[1] Nội dung chuyên đề có sử dụng tài liệu của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh và một số bài viết trên website của các cơ quan báo chí.
[2] Hoàn thành việc ban hành quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tinh; các phòng, ban thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện. Các ngành dọc được tổ chức thống nhất theo quy định chuyên ngành.
[3] Hiện nay, trên địa bàn Tỉnh đã thành lập 01 Phòng Pháp chế thuộc Sở Giao thông vận tải; 02 cán bộ công chức chuyên trách; 26 cán bộ, công chức kiêm nhiệm thuộc các cơ quan chuyên môn thuộc UBND Tỉnh và doanh nghiệp nhà nước.
[4] Chương trình hành động số 61-CTr/TU ngày 28 tháng 2 năm 2018 của Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh khóa X thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa XII “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, spắ xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” và Chương trình hành động số 62-CTr/TU ngày 01 tháng 3 năm 2018 của Ban chấp hành Đảng bộ Tỉnh khóa X thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017 của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về việc tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập”.
[5] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.187.
[6] Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, tập 1, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1993, tr.94.
[8] Hồ Chí Minh Toàn tập,  tập 15, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.280.
[9] Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 4, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.272.
[10] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.65.
[11] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.52.
[12] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.64.
[13] Hồ Chí Minh Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.175.
[14] Ý kiến của đ/c Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Tháp - Lê Minh Hoan. Xem: Huỳnh Lợi (2017), Hội quán, ngôi nhà chung của nông dân Đồng Tháp, https://www.sggp.org.vn/hoi-quan-ngoi-nha-chung-cua-nong-dan-dong-thap-450959.html, ngày 19/6/2017.
[15] Ý kiến của đ/c Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp - Nguyễn Văn Dương. Xem: Khánh Phan (2020), Nơi kết nối giữa chính quyền và doanh nghiệp, http://www.baodongthap.vn/kinh-te/noi-ket-noi-giua-chinh-quyen-va-doanh-nghiep-91596.aspx, ngày 12/6/2020.