Quy định của pháp luật về xác định cha, mẹ, con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và kiến nghị

24/05/2017
Nghiên cứu trên toàn quốc do Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Đại học Y Hà Nội công bố năm 2015 cho thấy, tỷ lệ vô sinh tại Việt Nam là 7,7%, trong đó có khoảng 50% cặp vợ chồng vô sinh có độ tuổi dưới 30[1]. Như vậy, ở nước ta có đến hàng triệu cặp vợ chồng có nhu cầu sinh con nhưng vẫn chưa thể thực hiện được mơ ước của mình. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, đặc biệt là kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, thực sự đã mang lại hạnh phúc lớn lao cho biết bao cặp vợ chồng. Theo đó, vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đang ngày càng phổ biến, song song đó, việc xác định cha, mẹ, con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng có những nét đặc trưng riêng. Hiện nay, vấn đề về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được quy định khá chi tiết trong Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 của Chính phủ, quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (viết tắc Nghị định 10/2015/NĐ-CP), tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực hiện, áp dụng. Tuy nhiên, qua nghiên cứu thấy rằng, quy định này vẫn còn những hạn chế, bất cập cần được điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn.
1. Khái quát vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Theo khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (Luật HN&GĐ) năm 2014: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Nói cách khác, đó là việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật y học hiện đại can thiệp vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích giúp những cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh hoặc phụ nữ độc thân có thể mang thai và có con như họ ước muốn. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, góp phần giải quyết được tình trạng vô sinh của phụ nữ và nam giới do ảnh hưởng của nhiều yếu tố như sự tác động ô nhiễm môi trường; hậu quả chiến tranh,…đem lại hạnh phúc và hi vọng cho không ít các gia đình Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung.
1.1. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh nhân tạo
Thụ tinh nhân tạo được biết đến là một phương pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả được áp dụng phổ biến trong điều trị vô sinh hiếm muộn nhằm mang đến cơ hội làm cha, làm mẹ cho nhiều cặp vợ chồng. Phương pháp này sử dụng các kỹ thuật để tạo điều kiện cho quá trình thụ thai được diễn ra thuận lợi nhất tại các cơ sở y tế chuyên khoa. Dưới góc độ y học, thụ tinh nhân tạo được hiểu là thủ thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc của người cho tinh trùng vào tử cung của người phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi. Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, thụ tinh nhân tạo hay còn gọi là bơm tinh trùng vào buồng tử cung là một trong những biện pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả cao hiện nay và trở thành lựa chọn của rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn.
Cũng theo quy định tại các khoản 3, 4, 5 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Noãn là giao tử của nữ.”; “Tinh trùng là giao tử của nam.”; “Phôi là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng.”
Ngân hàng tinh trùng là nơi tập hợp các mẫu tinh trùng được gửi vào để lưu giữ, bảo quản tinh trùng phục vụ cho việc thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hoặc vì nguyện vọng lưu giữ cá nhân. Ngoài ra, ngân hàng tinh trùng còn có chức năng cung ứng tinh trùng cho cặp vợ chồng vô sinh hoặc phụ nữ độc thân muốn sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hoặc hiến tặng cho các cơ sở làm nghiên cứu khoa học.
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng là việc ngân hàng tinh trùng cung ứng tinh trùng cho người phụ nữ có nhu cầu để họ thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Vậy đây là trường hợp người phụ nữ dùng noãn của chính mình kết hợp với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng tạo thành phôi. Phôi được phát triển trong tử cung của người phụ nữ đó. Đứa trẻ sinh ra có chung huyết thống của người phụ nữ sinh ra đứa trẻ đó và huyết thống của người đã gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng.
1.2. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: “Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi.”. Đây là phương pháp mà trứng và tinh trùng được thụ tinh bên ngoài cổ tử cung của người phụ nữ, được áp dụng điều trị hiếm muộn trong các trường hợp: Tắc nghẽn ống dẫn trứng; lạc nội mạc tử cung; tinh trùng ít, yếu, dị dạng; xin trứng;…Đây cũng là biện pháp được nhiều cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân tìm đến và mang lại hiệu quả tương đối cao.
2. Điều kiện áp dụng phương pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Như vậy, pháp luật cho phép áp dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trong hai trường hợp:
2.1. Đối với căp vợ chồng vô sinh
Khái niệm “vô sinh” được hiểu theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, là “tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai”. Các nguyên nhân dẫn đến vô sinh có thể xuất phát từ người đàn ông và cũng có thể xuất phát từ người phụ nữ. Vô sinh có thể là nguyên phát, tức là từ trước đến giờ người phụ nữ hay người đàn ông chưa bao giờ có con, cũng có thể là thứ phát, tức là đã từng có con, nhưng sau đó mất khả năng này. Theo kết quả nghiên cứu của Tổ chức Y tế Thế giới, tỉ lệ vô sinh trên thế giới trung bình từ 6%-12%. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương là nơi có tỷ lệ sinh thấp nhất và tỷ lệ vô sinh cao nhất[2].
2.2. Đối với phụ nữ độc thân
Khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, quy định: “Phụ nữ độc thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Nghĩa là, tại thời điểm đó, người phụ nữ không có quan hệ hôn nhân với bất kỳ ai. Mặc dù không muốn bị ràng buộc bởi hôn nhân nhưng họ vẫn muốn có một đứa con để yêu thương, chăm sóc, đó cũng là một trong những lý do dẫn đến người phụ nữ lựa chọn phương pháp này. Cuộc sống công nghiệp hiện đại không những cuốn hút phái nam mà cả phái nữ. Càng ngày càng có nhiều phụ nữ độc thân lựa chọn biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. 
2.3. Người gửi tinh trùng vào ngân hàng tinh trùng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngân hàng tinh trùng lưu giữ tinh trùng trong các trường hợp sau:
- Người tình nguyện hiến tinh trùng.
- Tinh trùng của người chồng khi cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh.
- Người có nguyện vọng lưu giữ cá nhân.
2.3.1. Người tình nguyện hiến tinh trùng
Tại Điều 4[3] Nghị định số 10/2015/NĐ-CP và khoản 1 Điều 6 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác năm 2006, có quy định về việc hiến tinh trùng. Mà theo đó Nam từ đủ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến, nhận tinh trùng, noãn, phôi trong thụ tinh nhân tạo theo quy định của pháp luật.” Với quy định này người hiến tinh trùng phải là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì có quyền thể hiện ý chí trong việc hiến tinh trùng. Quy định về điều kiện của chủ thể trong việc hiến tinh trùng đã loại trừ những cá nhân không có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, bị mất năng lực lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, có năng lực hành vi dân sự hạn chế không có quyền được hiến tinh trùng. Thêm vào đó người hiến tinh trùng không những là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, mà còn phải đạt độ tuổi tối thiểu theo quy định của pháp luật đối với nam từ đủ 20 tuổi mới có quyền hiến tinh trùng.
 Ngoài ra, người hiến tinh trùng phải là người không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau. Người mắc bệnh di truyền khi cho tinh trùng thì tinh trùng của họ đã mang mầm bệnh. Trên nhiễm sắc thể của tinh trùng đã có sẵn các gen bệnh hoặc nhiễm sắc thể bị sai lệch bất thường. Do đó mầm bệnh sẽ có từ trong phôi, từ điểm khởi thủy của sự sống trong ổ từ cung.
Hơn nữa người hiến tinh trùng không bị nhiễm HIV. Việc tinh trùng nhiễm HIV có thể dẫn tới việc không những đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng này có nguy cơ nhiễm HIV mà còn có thể lây truyền sang mẹ, người mang thai. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người mẹ và trẻ em.
Bên cạnh đó pháp luật còn quy định việc hiến tinh trùng là hoàn toàn tự nguyện và tinh trùng của người hiến chỉ được sử dụng cho một người và được hiến tại một cơ sở duy nhất. Ngoài ra người hiến tinh trùng được đảm bảo giữ bí mật những thông tin về tên, tuổi, địa chỉ, hình ảnh của mình.
2.3.2. Người có nguyện vọng lưu giữ cá nhân
Dù pháp luật hiện hành không quy định cụ thể đối với trường hợp người có nguyện vọng lưu giữ tinh trùng cá nhân. Nhưng có thể hiểu, đó phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ có toàn quyền trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự vì lợi ích của mình hoặc vì lợi ích của chủ thể khác và có nghĩa vụ thực hiện các giao dịch mà mình xác lập. Như vậy, người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có quyền lưu giữ tinh trùng của mình.
Tuy nhiên, nghiên cứu quy định tại khoản 4 Điều 21 BLDS năm 2015: “Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự liên quan đến bất động sản, động sản phải đăng ký và giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý.”. Việc một người tự nguyện lưu giữ tinh trùng của chính mình tại ngân hàng tinh trùng, là giao dịch hoàn toàn mang tính tự nguyện, không vi phạm vào điều cấm của pháp luật, mặc dù ở lứa tuổi từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi pháp luật chưa công nhận họ có đầy đủ sức khỏe sinh sản, nhưng thực tiễn cho thấy, nhiều trường hợp người nam, cơ thể có sự phát triển sớm nên việc lấy tinh trùng ra khỏi cơ thể họ là điều không khó. Điều hơn cả, họ muốn lưu giữ tinh trình của chính mình chỉ để đề phòng bất trắc xảy ra mà thôi. Vậy tại sao không?
2.2.3. Cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh
Người chồng trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh
Việc gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi được thực hiện trong các trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP: Cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh.
Về điều kiện kết hôn, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014: “Nam từ đủ 20 tuổi trở lên”. Theo quy định này, độ tuổi tối thiểu khi người chồng trong cặp vợ chồng lưu giữ tinh trùng phải trên 20 tuổi. Đây là độ tuổi theo quy định tại BLDS năm 2015 có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Vậy người chồng trong cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh có toàn quyền trong việc xác lập, thực hiện các giao dịch liên quan đến việc lưu giữ tinh trùng, xử lý tinh trùng khi họ không có nhu cầu lưu giữ...
Người được phép tiếp tục lưu giữ tinh trùng
Tại khoản 2 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định: “Trường hợp người gửi tinh trùng, gửi noãn, gửi phôi bị chết mà cơ sở lưu giữ tinh trùng, noãn, phôi nhận được thông báo kèm theo bản sao giấy khai tử hợp pháp từ phía gia đình người gửi, thì phải hủy số tinh trùng, noãn, phôi của người đó, trừ trường hợp vợ hoặc chồng của người đó có đơn đề nghị lưu giữ, bảo quản”.
Với quy định này đã cho phép người vợ được quyền tiếp tục lưu giữ tinh trùng của người chồng trong trường hợp người chồng gửi tinh trùng của mình vào ngân hàng tinh trùng trước khi chết.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 21 Nghị định này, trong trường hợp ly hôn người vợ chỉ có quyền sử dụng phôi để sinh con bằng kỹ thuật hộ trợ sinh sản.
2.4. Người nhận tinh trùng
2.4.1. Người phụ nữ độc thân
Pháp luật cho phép người phụ nữ độc thân được quyền nhận tinh trùng từ người hiến tinh trùng khi họ đáp ứng điều kiện từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, đáp ứng các điều kiện về sức khỏe theo quy định Bộ Y tế ban hành. Ngoài ra noãn của họ bảo đảm chất lượng để thụ thai, nghĩa là đứa trẻ được sinh ra trong trường hợp này do sự kết hợp tinh trùng của người cho và noãn của người nhận tinh trùng tạo thành phôi và phôi phát triển tự nhiên trong tử cung của người nhận tinh trùng. Người mẹ của đứa trẻ là người sinh, mang thai và có cùng huyết thống đối với đứa trẻ. Thêm vào đó giữa người cho và nhận tinh trùng không có quan hệ cùng dòng máu về trực hệ hoặc có họ trong phạm vi ba đời.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP, trong trường hợp chấm dứt hôn nhân do người chồng chết thì người vợ vẫn được phép sử dụng tinh trùng của người chồng được lưu giữ trước khi chết. Việc sinh con bằng tinh trùng của người chồng làm phát sinh các quan hệ ngoài quan hệ hôn nhân.
Trường hợp chấm dứt hôn nhân do ly hôn thì người vợ không được phép sử dụng tinh trùng của người chồng lưu giữ mà chỉ được sử dụng phôi. Việc sử dụng này làm phát sinh các quan hệ ngoài quan hệ hôn nhân gia đình thì thực hiện theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật dân sự.
2.4.2. Người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh
Đối với trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ tinh trùng của người hiến ngoài đáp ứng các điều kiện giống như phụ nữ độc thân còn phải đáp ứng điều kiện nguyên nhân vô sinh là từ phía người chồng. Đó là trường hợp người chồng không có tinh trùng hoặc tinh trùng bất thường nặng không thể sử dụng ngay cả khi làm thụ tinh trong ống nghiệm hoặc người chồng có bất thường về gen.
So với trường hợp phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có hai điểm khác biệt.
+Thứ nhất, khác nhau về độ tuổi được phép thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phụ nữ độc thân từ đủ 18 tuổi trở lên trong khi người vợ là từ đủ 19 tuổi trở lên.
+Thứ hai, đối với chủ thể là người vợ có thêm điều kiện nguyên nhân vô sinh là từ phía người chồng. Sở dĩ có sự khác biệt này là các nhà làm luật muốn có cơ hội cho vợ chồng sinh con tự nhiên trước khi quyết định sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ngoài ra cũng là hạn chế sinh con bằng kỹ thuật hộ trợ sinh sản để lựa chọn giới tính thai nhi.
Việc người vợ sử dụng tinh trùng của người chồng để sinh con phải có sự đồng thuận, thống nhất với người chồng.
3. Các nguyên tắc áp dụng
Về nguyên tắc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, Điều 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP qui định:
Một là, cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Hai là, vợ chồng nhờ mang thai hộ, người mang thai hộ, trẻ sinh ra nhờ mang thai hộ được bảo đảm an toàn về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và được pháp luật tôn trọng, bảo vệ.
Ba là, việc thụ tinh trong ống nghiệm, cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện.
Bốn là, việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc.
Năm là, việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm phải tuân theo quy trình kỹ thuật; quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
4. Hậu quả pháp lý trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
4.1.  Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
4.1.1. Đối với cặp vợ chồng vô sinh
Theo quy định tại Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014: “Trong trường hợp người vợ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì việc xác định cha, mẹ được áp dụng theo quy định tại Điều 88 của Luật này”. Đối chiếu với quy định tại Điều 88 Luật HN và GĐ năm 2014: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng. Con được sinh ra trong thời hạn 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Con sinh ra trước ngày đăng ký kết hôn và được cha mẹ thừa nhận là con chung của vợ chồng”. 
Như vậy, đối với cặp vợ, chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì căn cứ xác định cha, mẹ, con được xác định trên nguyên tắc suy đoán pháp lý, đó là căn cứ vào thời kỳ hôn nhân của cặp vợ chồng vô sinh, nhưng không hoàn toàn giống sinh con theo chu trình tự nhiên. Đây không chỉ là căn cứ xác định cha, mẹ, con trong trường hợp con sinh ra bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà còn là điều kiện bắt buộc để cặp vợ chồng được áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì tại khoản 2 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định: “vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai” và chỉ khi cặp vợ, chồng đáp ứng điều kiện vừa nêu thì mới được áp dụng. Do đó, trường hợp con sinh ra trước ngày vợ, chồng đăng ký kết hôn và được vợ chồng thừa nhận là con chung sẽ không được áp dụng đối với trường hợp con sinh ra bằng hỗ trợ kỹ thuật sinh sản. 
Từ quy định này đã phát sinh vướng mắc, đó là, trong trường hợp đang tiến hành kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà người chồng chết, đứa trẻ sinh ra đã quá 300 ngày kể từ khi hôn nhân chấm dứt thì đứa trẻ có được xác định là con chung của vợ, chồng không? Trường hợp này hiện pháp luật chưa có quy định cụ thể. Theo người viết, nếu theo nguyên tắc quy định tại Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014,thì đứa trẻ trong trường hợp này không phải con chung của vợ, chồng! Tuy nhiên, thực tế đứa trẻ đó mang huyết thống của người cha đã chết và được sinh ra hoàn toàn dựa trên sự mong muốn của người đã khuất. Do vậy, nếu xác định đứa trẻ sinh ra không phải con chung của cặp vợ chồng vô sinh thì sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của đứa trẻ, ví dụ như quyền thừa kế di sản của người cha để lại.
Việt Nam là nước đầu tiên ở Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về Quyền trẻ em (CRC, năm 1989) vào ngày 20/02/1990. Trong Bộ luật Nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong CRC, năm 1989 và hai Nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000, gồm: Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em; Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang. Trong đó khái niệm “Trẻ em” được xác định là những người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định các quyền trẻ em được bắt đầu ngay khi mang thai hay sau khi ra đời; và về độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC.
Theo Hiến pháp năm 2013; Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Luật HN&GĐ năm 2014, một số quyền cơ bản của trẻ em được quy định: Quyền được khai sinh và có quốc tịch; quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; quyền được sống chung với cha mẹ; quyền có tài sản;… Riêng về quyền có tài sản, theo quy định tại Điều 19 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004; Điều 75 Luật HN&GĐ năm 2014: Trẻ em có quyền có tài sản, quyền thừa kế theo quy định của pháp luật. Tài sản riêng của trẻ em bao gồm tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng, thu nhập do lao động của trẻ em, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của trẻ em và thu nhập hợp pháp khác. Tài sản được hình thành từ tài sản riêng của trẻ em cũng là tài sản riêng của trẻ em.
Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng chưa có quy định đối với trường hợp đang trong quá trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà người chồng bị tuyên bố mất tích thì người vợ có được tiếp tục thực hiện và nếu thực hiện thì xác định cha, mẹ, con như thế nào?
Mặt khác, chỉ khi có sự tự nguyện của cặp vợ chồng vô sinh thì mới được áp dụng việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trên tình thần tự nguyện, người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh được xác định là mẹ đứa trẻ trong mọi trường hợp kể cả người mẹ là người nhận tinh trùng, nhận noãn hay nhận phôi của người khác. Người chồng hợp pháp của người mẹ đó cũng chính là cha đứa trẻ, ngay cả trường hợp người chồng không phải là người cho tinh trùng!?. 
4.1.2. Đối với phụ nữ độc thân
Theo quy định tại khoản 6 Điều 2 Nghị định số 10/2015 NĐ-CP: “Phụ nữ độc thân là người phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật”. Căn cứ để xác định cha, mẹ, con trong trường hợp này chỉ dựa vào sự tự nguyện và sự kiện sinh đẻ của người phụ nữ độc thân đó. Theo quy định tại  khoản 2 Điều 93 Luật HN&GĐ năm 2014: “Trong trường hợp người phụ nữ sống độc thân sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì người phụ nữ đó là mẹ của con được sinh ra”. Theo đó, người phụ nữ sống độc thân đương nhiên là mẹ của đứa trẻ. Pháp luật hiện hành ngoài việc cho phép người phụ nữ độc thân được nhận tinh trùng từ người khác còn cho phép họ được nhận phôi trong trường hơp họ không có noãn hoặc noãn không bảo đảm chất lượng để thụ thai. Việc quy định cho người phụ nữ đơn thân được phép nhận phôi thể hiện được tính nhân đạo của pháp luật, bởi khi người phụ nữ độc thân khát khao được làm mẹ nhưng do không có noãn hay noãn không đảm bảo chất lượng để thụ thai, do vậy, dù có nhận tinh trùng của người khác thì họ cũng không thể thụ thai được nên lúc này họ có thể nhận phôi để được sinh con.
Việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không làm phát sinh quan hệ cha, mẹ và con giữa người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi với người con được sinh ra. Quy định này phù hợp với nguyên tắc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (khoản 3 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP): Việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận. Bởi  xuất phát từ việc chính cặp vợ chồng vô sinh và người phụ nữ độc thân là người đem lại sự sống cho đứa trẻ và họ cũng là người mong muốn có đứa trẻ chứ không phải là người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi . Quy định trên cũng nhằm tránh những tranh chấp về quan hệ cha, mẹ, con của các chủ thể liên quan, là cơ sở đảm bảo ổn định mối quan hệ cha, mẹ, con, giúp cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân yên tâm nuôi dạy đứa trẻ trong điều kiện tốt nhất.
 4.1.3. Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là điểm đổi mới tiến bộ của pháp luật hôn nhân và gia đình. Pháp luật cho phép cặp vợ chồng vô sinh có quyền nhờ mang thai hộ. Việc này đã mở ra cơ hội được làm cha mẹ thực sự cho nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, theo quy định tại khoản  22 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014: “việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Theo quy định tại  Điều 94, Luật HN&GĐ năm 2014: “Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”. Như vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không làm phát sinh mối quan hệ cha, mẹ, con giữa vợ chồng người được nhờ mang thai hộ và đứa trẻ sinh ra.
4.2. Xác định cha, mẹ trong trường hợp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng từ ngân hàng tinh trùng
4.3.1. Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng
Việc xác định quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp này không khác gì so với xác định quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con tự nhiên. Bản chất của việc xác định quan hệ cha, mẹ, con căn cứ vào huyết thống, con phải có chung huyết thống với cha, mẹ. Việc xác định một người là con hay không phải là con mình dựa trên việc chứng minh họ có cùng chung huyết thống với mình hay không. Pháp luật cho phép cha, mẹ có quyền xác định người nào đó là con mình cũng như có quyền xác định một người nào đó không phải là con mình theo Điều 89 Luật HN&GĐ năm 2014.
Quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014 cho phép suy đoán con do người vợ sinh ra hoặc mang thai trong thời kỳ hôn nhân sẽ có chung huyết thống với vợ chồng, do đó, sẽ là con chung của vợ chồng. Trong trường hợp cha mẹ không thừa nhận thì phải có chứng cứ và phải được Tòa án xác định.
4.3.2. Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người hiến
Đối với trường hợp cặp vợ chồng vô sinh sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ tinh trùng của người hiến. Con sinh ra có chung huyết thống với người vợ nhưng không có chung huyết thống với người chồng. Mẹ của đứa trẻ là người vợ, người có chung huyết thống với đứa trẻ cũng là người sinh ra đứa trẻ. Trong khi đó cha đứa trẻ xác định căn cứ vào thời kỳ hôn nhân. Cha của đứa trẻ là người chồng hợp pháp của mẹ đứa trẻ trong thời kỳ mang thai hoặc sinh con. Quy định tại khoản 1 Điều 88 Luật HN&GĐ năm 2014, con do người vợ sinh ra hoặc mang thai trong thời kỳ hôn nhân là con chung của vợ chồng.
5. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Một là, cần bổ sung quy định hạn chế ly hôn khi hai vợ chồng đang tiến hành áp dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản
Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: “Chồng không có quyền yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi”, quy định này áp dụng cho trường hợp sinh con bình thường, còn với trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì chưa có quy định cụ thể, dẫn đến nhiều lúng túng khi áp dụng, thiết nghĩ, việc bổ sung là cần thiết. Bởi lẽ, sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người vợ và người con sinh ra. 
Trong trường hợp, cặp vợ chồng vô sinh đã sử dụng biện pháp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhưng thất bại và nhờ mang thai hộ thì người chồng của người mang thai hộ, người chồng của người nhờ mang thai có bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn không? Theo người viết, đối với người chồng của người mang thai hộ thì nên quy định bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn. Vì khi người vợ của mình nhận mang thai hộ thì người chồng đã đồng ý, điều này cũng có thể hiểu là người chồng sẽ có các nghĩa vụ chăm sóc nhất định đối với người vợ của mình, cho dù không phải là con chung của hai vợ chồng. Còn với người chồng của người nhờ mang thai hộ thì chỉ nên hạn chế quyền yêu cầu ly hôn khi đứa trẻ được sinh ra và còn sống. Khi đó, sẽ thuộc trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014.
Còn với trường hợp người chồng muốn ly hôn khi phôi chưa được đưa vào tử cung của người vợ: Nếu quyết định ly hôn xuất phát từ ý chí của hai bên vợ chồng thì nên chăng có quyết định hủy bỏ yêu cầu áp dụng việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Còn trong trường hợp người chồng mất tích thì vẫn có thể tiếp tục thực hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì đã có sự đồng ý trước đó của người chồng.
Hai là, vấn đề xác định cha, mẹ, con khi sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Việc xác định cha mẹ con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng xuất phát từ nguyên tắc chung đó là xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp (Điều 88, 93 Luật HN&GĐ năm 2014). Quy định này nhằm đảm bảo mọi quyền lợi cho cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân và đặc biệt là đứa trẻ. Đối với trường hợp người phụ nữ độc thân khi sinh con thì áp dụng tương tự như trường hợp xác định cha, mẹ, con khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp, trong trường hợp này chỉ có quan hệ giữa mẹ và con. 
Ngoài ra, trong trường hợp xác định cha, mẹ, con cần quy định rõ sau khi đứa trẻ được sinh ra nếu người cha, mẹ không muốn thừa nhận con thì cũng không được yêu cầu xác định lại. Bởi vì họ là người yêu cầu thực hiện việc sinh con bằng biện pháp hỗ trợ sinh sản, quan hệ cha, mẹ và con là tất yếu, không thể phủ nhận. Điều này khác với trường hợp sinh con tự nhiên vì người chồng có quyền yêu cầu xác định lại quan hệ cha con khi không tin tưởng đứa con là con ruột của mình. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt nếu cặp vợ chồng, người phụ nữ độc thân nghi ngờ cơ sở y tế và có thể có sự nhầm lẫn trong quá trình thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì nên chăng cho phép họ được quyền yêu cầu xem xét lại.
Pháp luật đã cho phép sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng lưu giữ trước khi chết thì cũng nên cho phép xác lập quan hệ cha mẹ con dựa trên căn cứ huyết thống, con là người có chung huyết thống với cha mẹ mà không dựa trên căn cứ thời kỳ hôn nhân để bảo vệ quyền và lợi ích của bà mẹ và trẻ em.
Vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trường hợp vợ chồng ly hôn. Quy định tại khoản 4 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP trong trường hợp hai vợ chồng ly hôn người vợ sử dụng phôi để sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản làm phát sinh các quan hệ ngoài quan hệ hôn nhân gia đình thì thực hiện theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật dân sự. Với quy định như vậy thì “quan hệ ngoài hôn nhân và gia đình” được hiểu như thế nào? Thiết nghĩ, pháp luật cần phải quy định cụ thể, nếu không sẽ gây khó khăn trong việc áp dụng trong việc giải quyết các quan hệ đó, nếu phát sinh tranh chấp.
Ba là,  theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014, vợ chồng người nhờ mang thai hộ phải đang không có con chung. Điều kiện này dẫn đến cách hiểu rằng nếu vợ, chồng đã có con riêng nhưng đang không có con chung thì vẫn thuộc trường hợp được nhờ mang thai hộ. Trong khi đó, nếu vợ chồng không có con riêng mà có con chung nhưng con chung đã cho người khác nhận nuôi hoặc mắc những căn bệnh hiểm nghèo, như di chứng chất độc da cam; teo não;… thì cũng không thuộc diện được nhờ mang thai hộ.
Luật cũng quy định vợ chồng không thể sinh con thì mới được quyền nhờ mang thai hộ. Vậy có những phụ nữ vì nhiều lý do khác nhau mà họ không kết hôn, hoặc họ đã ly hôn (có những trường hợp ly hôn vì lý do không có khả năng mang thai và sinh đẻ) rơi vào tình trạng không thể sinh con vì những lý do chính đáng giống như người vợ trong cặp vợ chồng đủ điều kiện nhờ mang thai hộ và họ muốn có con thì có được nhờ mang thai hộ không?
Trong khi đó, Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định: Người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha, anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ. Theo quy định, mỗi gia đình có tối đa 2 người con thì tổng số người thân thích tối đa mà cả hai bên vợ chồng có thể nhờ là 10 người. Vậy, trong số tất cả 10 người này thì có bao nhiêu người đáp ứng đủ điểu kiện để có thể nhờ mang thai hộ. Từ đó, các cặp vợ chồng hiếm muộn sẽ gặp khó khăn trong việc nhờ mang thai hộ do đối tượng nhờ mang thai hộ khá hẹp. Đó là chưa kể đến một số trường hợp đặc biệt, họ không có anh em, chị em thuộc đối tượng có thể nhờ thì họ sẽ mất cơ hội có con.
Theo quy định tại Điều 14 Nghị định 10/2015/NĐ-CP, hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, có bản xác nhận của UBND cấp xã hoặc người mang thai hộ, nhờ người mang thai hộ tự mình chứng mình về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cở sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này. Tình trạng giấy tờ có thể làm giả, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng khó chứng thực được vì nhiều lý do khác nhau. Nếu có bên vi phạm về nội dung này thì pháp luật hiện hành cũng chưa quy định biện pháp chế tài cụ thể nào. Điều đó, liệu rằng có thể tránh được những hiện tượng đẻ thuê được hợp pháp hóa dưới hình thức mang thai hộ không?
Theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014, người được nhờ mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần là không dự tính đến trường hợp rủi ro trong qua trình mang thai hộ. Bởi thực tế cho thấy, không ít trường hợp người phụ nữ mang thai tự nhiên còn xảy ra những trường hợp sảy thai hoặc qua khám sàng lọc trước khi sinh phát hiện thai không thể giữ buộc phải bỏ. Do vậy, với quy định người mang thai hộ chỉ được mang thai hộ một lần, là chưa thật sự “nhân đạo” với họ!. Trong quá trình mang thai hộ do gặp “sự cố” ngoài ý muốn hoặc từ kết quả khám sàng lọc, không giữ được thai nhi thì cơ hội được làm mẹ, là cha của cặp vợ chồng hiếm muộn “có cũng bằng không”. Bởi theo quy định, họ không thể nhờ người mang thai hộ tiếp lần thứ hai.
Do vậy, tác giả đề xuất nên bỏ quy định “chỉ được mang thai hộ một lần
Bốn là, hoàn thiện quy định về người có nguyện vọng lưu giữ tinh trùng
Quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cho phép người có nguyện vọng muốn lưu giữ cá nhân được phép lưu giữ tinh trùng. Tuy nhiên pháp luật không quy định cụ thể về chủ thể được phép tự nguyện lưu giữ cũng như chưa đề cập đến quyền đối với tinh trùng của loại chủ thể này. Để giải quyết vấn đề trên pháp luật nên quy định điều kiện về chủ thể được phép lưu giữ tinh trùng cũng như quyền của họ đối với tinh trùng được lưu giữ.
Năm là, bổ sung quy định cấy tinh trùng giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ tinh trùng của người hiến tinh trùng khó xác định người cho tinh trùng và người nhận tinh trùng có cùng dòng máu về trực hệ hoặc có quan hệ họ hàng trong phạm vi ba đời.
Theo quan điểm của tôi để khắc phục tình trạng này trước khi nhận tinh trùng, người cho và người nhận phải làm xét nghiệm ADN để xác định xem họ có quan hệ huyết thống hay không. Nếu không thuộc trường hợp cấm thì sẽ được phép nhận tinh trùng từ người cho.
Tám là, về lấy tinh trùng của người chồng sau khi chết
Cần phải phân biệt hai trường hợp, trường hợp thứ nhất người chồng lấy tinh trùng lưu giữ khi sống, sau đó mất đi và người vợ sử dụng tinh trùng đã được lưu giữ để sinh con; trường hợp thứ hai người chồng mất đột ngột và phải lấy tinh trùng từ tinh hoàn ngay sau khi chết để lưu giữ. Trường hợp thứ nhất pháp luật cho phép người vợ được phép sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản với tình trùng của người chồng đã lưu giữ trước khi chết. Trường hợp hai pháp luật chưa quy định rõ ràng.
Xuất phát từ tình cảm, mong muốn cũng như tôn trọng quyền tự quyết của người chồng đã chết và người vợ. Quyết định lấy tinh trùng của người chồng sau khi chết phải là quyết định của cả hai vợ chồng, là sự thống nhất ý chí của hai vợ chồng. Người chồng thể hiện ý chí của mình trước khi chết mong muốn có con chung với vợ và người vợ đồng ý việc lấy tinh trùng của chồng sau khi người chồng chết. Nếu chỉ có sự thể hiện ý chí mong muốn của vợ hoặc chồng thì không được phép lấy tinh trùng của người chồng sau khi chết.
Tuy nhiên, sự kiện chết của người chồng có thể là sự kiện bất ngờ nên khó chứng minh ý chí của người chồng về việc mong muốn có con chung với người vợ. Trong trường hợp này nếu cha mẹ của người chồng đã chết và người vợ cùng đồng ý lấy tinh trùng từ người đã chết thì pháp luật nên cho phép được lấy tinh trùng của người chồng đã chết.
Ngoài hai trường hợp trên việc lấy tinh trùng của người chồng sau khi chết là không được phép.Việc xác định quan hệ cha con trong trường hợp này giống với trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hộ trợ sinh sản với tinh trùng của người chồng lưu giữ trước khi chết. Công nhận quan hệ cha con giữa người chồng đã chết và đứa trẻ sinh ra.
 
Phạm Thị Hồng Đào 
 
[1] http://news.zing.vn/bao-dong-tinh-trang-vo-sinh-o-vo-chong-tre-post621987.html
[2] http://news.zing.vn/bao-dong-tinh-trang-vo-sinh-o-vo-chong-tre-post621987.html
[3] Điều 4. Quy định về việc cho tinh trùng, cho noãn
1. Người cho tinh trùng, cho noãn được khám và làm các xét nghiệm để xác định: Không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ sau; không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình; không bị nhiễm HIV.
2. Tự nguyện cho tinh trùng, cho noãn và chỉ cho tại một cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm.
3. Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh không được cung cấp tên, tuổi, địa chỉ và hình ảnh của người cho tinh trùng.
4. Tinh trùng, noãn của người cho chỉ được sử dụng cho một người, nếu không sinh con thành công mới sử dụng cho người khác. Trường hợp sinh con thành công thì tinh trùng, noãn chưa sử dụng hết phải được hủy hoặc hiến tặng cho cơ sở làm nghiên cứu khoa học.