Thủ tục đối thoại trong Tố tụng hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015Luật Tố tụng hành chính được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016, trong đó quy định rất nhiều nội dung mới như: Việc xem xét văn bản hành chính, hành vi hành chính và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong vụ án hành chính; Bảo đảm tranh tụng trong xét xử; Xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng; Quy định về thủ tục rút gọn; Về trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài…trong những nội dung trên thì thủ tục đối thoại giúp quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí và công sức, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử.1. Nguyên tắc đối thoại
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn và vụ án khiếu nại về danh sách cử tri. Những vụ án không tiến hành đối thoại được: “Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tính vắng mặt; Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng; Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại”.
Tại khoản 2 Điều 134 Luật Tố tụng hành chính quy định việc đối thoại phải đảm bảo các nguyên tắc sau: (i) Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự. Việc đối thoại có thể tiến hành tại Toà án hoặc tại địa điểm khác do Toà án và các đương sự thống nhất, song phải diễn ra thực sự công khai, dân chủ, có sự tham gia của các bên đương sự và những người có liên quan. Các chủ thể tham gia phải thực sự bình đẳng với nhau trong việc đưa ra các quan điểm, đánh giá, đề nghị trong quá trình đối thoại; (2) Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính trái với ý chí của họ. Do đó, các bên cần quan tâm đến yêu cầu, lợi ích chính đáng, hợp pháp để có quyết định phù hợp. Các bên đối thoại cần đánh giá một cách trung thực, chính xác về tình tiết của vụ án; thực hiện nguyên tắc này tạo điều kiện để các bên đưa ra những quan điểm, đề nghị thiện chí trong quá trình đối thoại; (3) Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Các bên đối thoại cần dựa trên các quy định của pháp luật để đánh giá khách quan về yêu cầu của mỗi bên, về tính hợp pháp của đối tượng khởi kiện. Mặt khác, nguyên tắc này đòi hỏi các bên đương sự tham gia đối thoại ngoài việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của mình còn phải tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích của Nhà nước. Mọi thoả thuận thông qua đối thoại có nội dung trái pháp luật và đạo đức xã hội đều không được thừa nhận.
2. Thông báo về phiên họp đối thoại
Mục đích của việc thông báo về phiên họp đối thoại là nhằm giúp cho đương sự, người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ biết được thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại. Ngoài ra, thông qua việc thông báo này giúp các bên đương sự có thời gian chuẩn bị trước để có thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất. Điều 136 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định thông báo về phiên họp đối thoại cùng một điều luật với thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, cụ thể: (i) Trước khi tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại giữ các đương sự, Thẩm phán phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp; (ii) Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 của Luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành việc đối thoại.
Trách nhiệm thông báo về phiên họp đối thoại thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, đồng thời là chủ thể tiến hành đối thoại. Nội dung thông báo bao gồm thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại. Trên cơ sở thông báo của Thẩm phán, người được thông báo đến tham dự phiên họp để nêu ý kiến của mình về vụ án mà Tòa án đang thụ lý giải quyết. Ngoài ra, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cũng nêu rõ đối với vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được thì chỉ tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ.
3. Thành phần phiên đối thoại
Khoản 1 Điều 137 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại gồm có: Thẩm phán chủ trì phiên họp; Thư ký phiên họp ghi biên bản; đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự; người bảo vê quyền và lợi ich hợp pháp của đương sự (nếu có), người phiên dịch (nếu có). Đây là những chủ thể phải có mặt tại phiên họp đối thoại. Đối với đương sự hoặc người đại diện thì chỉ cần một trong hai có mặt. Trường hợp vụ án hành chính có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ có quyền đến tham dự phiên đối thoại, người phiên dịch bắt buộc phải có mặt tại phiên họp đối thoại nếu như trong vụ án hành chính có đương sự là người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc đương sự bị khuyết tật nghe, khuyết tật nói, khuyết tật nhìn theo quy định tại Điều 21 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 137 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì trường hợp cần thiết, Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia phiên họp. Đây là những cá nhân, cơ quan và tổ chức có thể không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng được Thẩm phán mời đến phiên họp để hỗ trợ Thẩm phán, các bên đương sự trong việc thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án ví dụ như người làm chứng, người giám định…
Bên cạnh đó, trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì thẩm phán phải hoãn phiên họp. Thẩm phán thông báo việc hoãn phiên họp và việc mở lại phiên họp cho các đương sự biết (khoản 2 Điều 137).
4. Trình tự phiên họp đối thoại
Trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại được quy định tại khoản 4 Điều 138 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, theo đó Thẩm phán tiến hành thủ tục đối thoại như sau: (i) Thẩm phán phổ biến cho đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc đối thoại để họ tự nguyện thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án; (ii) Người khởi kiện trình bày bổ sung về yêu cầu khởi kiện, những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm của người khởi kiện về hướng giải quyết vụ án (nếu có); (iii) Người bị kiện trình bày bổ sung ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện, những căn cứ ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện và đề xuất hướng giải quyết vụ án (nếu có); (iii) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày bổ sung và đề xuất ý kiến giải quyết phần liên quan đến họ (nếu có); (iiiii) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người khác tham gia phiên họp đối thoại (nếu có) phát biểu ý kiến; (iiiiii) Tùy từng trường hợp, Thẩm phán yêu cầu đương sự nêu văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, đồng thời kiểm tra hiệu lực pháp luật của văn bản đó. Thẩm phán có thể phân tích để các đương sự nhận thức đúng về nội dung văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa chọn và quyết định việc giải quyết vụ án; (iiiiiii) Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất; (iiiiiiii) Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất.
Luật Tố tụng hành chính quy định rất chi tiết về thủ tục phiên họp đối thoại, trong đó Thẩm phán có vai trò rất lớn. Theo quy định trên thì tại phiên họp đối thoại Thẩm phán với tư cách là người tiến hành tố tụng và là chủ thể tiến hành đối thoại sẽ cung cấp cho các đương sự biết về các văn bản pháp luật có liên quan đến việc đánh giá tính hợp pháp của đối tượng khiếu kiện để họ tự xác định xem khiếu kiện Tòa án đang giải quyết có hợp pháp hay không, đồng thời Thẩm phán có thể phân tích cho các đương sự hiểu đúng về nội dung của quy phạm pháp luật để họ có thể quyết định việc lựa chọn việc giải quyết tranh chấp đang phát sinh giữa các bên.
5. Biên bản phiên họp đối thoại
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính (khoản 2 Điều 139), biên bản đối thoại phải có những nội dung sau: Ngày, tháng, năm tiến hành phiên họp; địa điểm tiến hành phiên họp; thành phần tham gia phiên họp; ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; nội dung đã được đương sự thống nhất, không thống nhất. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký phiên họp ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản phiên họp ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên họp và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.
6. Xử lý kết quả đối thoại
Điều 140 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã quy định rất cụ thể về xử lý kết quả đối thoại: (i) Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, người bị kiện giữ nguyên quyết định, hành vi bị khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Đối với trường hợp này trong quá trình đối thoại thì người khởi kiện vẫn giữ quan điểm cho rằng khiếu kiện bị khởi kiện là trái với quy định của pháp luật trong khi đó người bị kiện vẫn bảo lưu quan điểm cho rằng khiếu kiện do mình ban hành hoặc thực hiện là hợp pháp. Trường hợp này giữa các bên đương sự đã không thể thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính nên Thẩm phán phải tiến hành thủ tục để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa; (ii) Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện thì Thẩm phán lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện và người khởi kiện được quyền khởi kiện lại vụ án nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Đối với trường hợp này thì đây là hành động từ một phía của người khởi kiện mà không cần có sự thống nhất của người bị kiện vì trong quá trình đối thoại người khởi kiện nhận thức được các quyết định hành chính, hành vi hành chính cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện là đúng với quy định của pháp luật nên họ đã tự nguyện rút đơn khởi kiện, bởi lẽ họ xác định nếu tiếp tục theo đuổi vụ kiện cũng không đạt được kết quả như mong muốn lại mất thêm thời gian, công sức và tiền bạc; (iii) Trường hợp qua đối thoại mà người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Tòa án lập biên bản về việc cam kết của đương sự. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị kiện phải gửi cho Tòa án quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải gửi cho Tòa án văn bản rút đơn khởi kiện. Hết thời hạn này mà một trong các đương sự không thực hiện cam kết của mình thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Trường hợp nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khởi kiện thì Tòa án phải thông báo cho các đương sự khác biết. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, nếu các đương sự không có ý kiến phản đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án và gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các bên đã thống nhất và cam kết là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì quyết định của Tòa án có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Bên cạnh đó, trong trường hợp nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khởi kiện thì tòa án thông báo cho đương sự khác biết. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, nếu các đương sự không có ý kiến phản đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành và đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các bên đã thống nhất và cam kết là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì quyết định của Tòa án có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm”.
Với những quy định cụ thể về thủ tục đối thoại trong tố tụng hành chính theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, việc Tòa án khuyến khích và tạo điều kiện để các đương sự thỏa thuận với nhau trong việc giải quyết vụ án trên cơ sở của pháp luật. Đối thoại trong vụ án hành chính còn có ý nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án trong quá trình tiến hành các thủ tục đối thoại giúp quá trình giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác; tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết các vụ án hành chính của tòa án.
Thủ tục đối thoại trong Tố tụng hành chính theo quy định của Luật tố tụng hành chính năm 2015
11/05/2017
Luật Tố tụng hành chính được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua vào ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016, trong đó quy định rất nhiều nội dung mới như: Việc xem xét văn bản hành chính, hành vi hành chính và văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong vụ án hành chính; Bảo đảm tranh tụng trong xét xử; Xét xử vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng; Quy định về thủ tục rút gọn; Về trình tự, thủ tục xét xử vụ án hành chính có yếu tố nước ngoài…trong những nội dung trên thì thủ tục đối thoại giúp quá trình giải quyết vụ án được nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chi phí và công sức, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử.
1. Nguyên tắc đối thoại
Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án tiến hành đối thoại để các đương sự thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không tiến hành đối thoại được, vụ án xét xử theo thủ tục rút gọn và vụ án khiếu nại về danh sách cử tri. Những vụ án không tiến hành đối thoại được: “Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tính vắng mặt; Đương sự không thể tham gia đối thoại được vì có lý do chính đáng; Các bên đương sự thống nhất đề nghị không tiến hành đối thoại”.
Tại khoản 2 Điều 134 Luật Tố tụng hành chính quy định việc đối thoại phải đảm bảo các nguyên tắc sau: (i) Bảo đảm công khai, dân chủ, tôn trọng ý kiến của đương sự. Việc đối thoại có thể tiến hành tại Toà án hoặc tại địa điểm khác do Toà án và các đương sự thống nhất, song phải diễn ra thực sự công khai, dân chủ, có sự tham gia của các bên đương sự và những người có liên quan. Các chủ thể tham gia phải thực sự bình đẳng với nhau trong việc đưa ra các quan điểm, đánh giá, đề nghị trong quá trình đối thoại; (2) Không được ép buộc các đương sự thực hiện việc giải quyết vụ án hành chính trái với ý chí của họ. Do đó, các bên cần quan tâm đến yêu cầu, lợi ích chính đáng, hợp pháp để có quyết định phù hợp. Các bên đối thoại cần đánh giá một cách trung thực, chính xác về tình tiết của vụ án; thực hiện nguyên tắc này tạo điều kiện để các bên đưa ra những quan điểm, đề nghị thiện chí trong quá trình đối thoại; (3) Nội dung đối thoại, kết quả đối thoại thành giữa các đương sự không trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Các bên đối thoại cần dựa trên các quy định của pháp luật để đánh giá khách quan về yêu cầu của mỗi bên, về tính hợp pháp của đối tượng khởi kiện. Mặt khác, nguyên tắc này đòi hỏi các bên đương sự tham gia đối thoại ngoài việc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của mình còn phải tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích của Nhà nước. Mọi thoả thuận thông qua đối thoại có nội dung trái pháp luật và đạo đức xã hội đều không được thừa nhận.
2. Thông báo về phiên họp đối thoại
Mục đích của việc thông báo về phiên họp đối thoại là nhằm giúp cho đương sự, người đại diện và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ biết được thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại. Ngoài ra, thông qua việc thông báo này giúp các bên đương sự có thời gian chuẩn bị trước để có thể bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất. Điều 136 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định thông báo về phiên họp đối thoại cùng một điều luật với thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, cụ thể: (i) Trước khi tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại giữ các đương sự, Thẩm phán phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên họp và nội dung của phiên họp; (ii) Trường hợp vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được theo quy định tại Điều 135 của Luật này thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ mà không tiến hành việc đối thoại.
Trách nhiệm thông báo về phiên họp đối thoại thuộc về Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, đồng thời là chủ thể tiến hành đối thoại. Nội dung thông báo bao gồm thời gian, địa điểm và nội dung của phiên họp đối thoại. Trên cơ sở thông báo của Thẩm phán, người được thông báo đến tham dự phiên họp để nêu ý kiến của mình về vụ án mà Tòa án đang thụ lý giải quyết. Ngoài ra, Luật Tố tụng hành chính năm 2015 cũng nêu rõ đối với vụ án hành chính không tiến hành đối thoại được thì chỉ tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ.
3. Thành phần phiên đối thoại
Khoản 1 Điều 137 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 quy định thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và đối thoại gồm có: Thẩm phán chủ trì phiên họp; Thư ký phiên họp ghi biên bản; đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự; người bảo vê quyền và lợi ich hợp pháp của đương sự (nếu có), người phiên dịch (nếu có). Đây là những chủ thể phải có mặt tại phiên họp đối thoại. Đối với đương sự hoặc người đại diện thì chỉ cần một trong hai có mặt. Trường hợp vụ án hành chính có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì họ có quyền đến tham dự phiên đối thoại, người phiên dịch bắt buộc phải có mặt tại phiên họp đối thoại nếu như trong vụ án hành chính có đương sự là người nước ngoài, người dân tộc thiểu số hoặc đương sự bị khuyết tật nghe, khuyết tật nói, khuyết tật nhìn theo quy định tại Điều 21 Luật Tố tụng hành chính năm 2015. Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 137 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì trường hợp cần thiết, Thẩm phán có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tham gia phiên họp. Đây là những cá nhân, cơ quan và tổ chức có thể không có quyền và nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng được Thẩm phán mời đến phiên họp để hỗ trợ Thẩm phán, các bên đương sự trong việc thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án ví dụ như người làm chứng, người giám định…
Bên cạnh đó, trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành phiên họp và việc tiến hành phiên họp đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành phiên họp giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên họp để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì thẩm phán phải hoãn phiên họp. Thẩm phán thông báo việc hoãn phiên họp và việc mở lại phiên họp cho các đương sự biết (khoản 2 Điều 137).
4. Trình tự phiên họp đối thoại
Trình tự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và đối thoại được quy định tại khoản 4 Điều 138 Luật Tố tụng hành chính năm 2015, theo đó Thẩm phán tiến hành thủ tục đối thoại như sau: (i) Thẩm phán phổ biến cho đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc đối thoại để họ tự nguyện thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án; (ii) Người khởi kiện trình bày bổ sung về yêu cầu khởi kiện, những căn cứ để bảo vệ yêu cầu khởi kiện và đề xuất quan điểm của người khởi kiện về hướng giải quyết vụ án (nếu có); (iii) Người bị kiện trình bày bổ sung ý kiến về yêu cầu của người khởi kiện, những căn cứ ban hành quyết định hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị khởi kiện và đề xuất hướng giải quyết vụ án (nếu có); (iii) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trình bày bổ sung và đề xuất ý kiến giải quyết phần liên quan đến họ (nếu có); (iiiii) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự hoặc người khác tham gia phiên họp đối thoại (nếu có) phát biểu ý kiến; (iiiiii) Tùy từng trường hợp, Thẩm phán yêu cầu đương sự nêu văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để đánh giá tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện, đồng thời kiểm tra hiệu lực pháp luật của văn bản đó. Thẩm phán có thể phân tích để các đương sự nhận thức đúng về nội dung văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính có liên quan để họ có sự lựa chọn và quyết định việc giải quyết vụ án; (iiiiiii) Sau khi các đương sự trình bày hết ý kiến của mình, Thẩm phán xác định những vấn đề các bên đã thống nhất, những vấn đề chưa thống nhất và yêu cầu các bên đương sự trình bày bổ sung về những nội dung chưa rõ, chưa thống nhất; (iiiiiiii) Thẩm phán kết luận về những vấn đề các bên đương sự đã thống nhất và những vấn đề chưa thống nhất.
Luật Tố tụng hành chính quy định rất chi tiết về thủ tục phiên họp đối thoại, trong đó Thẩm phán có vai trò rất lớn. Theo quy định trên thì tại phiên họp đối thoại Thẩm phán với tư cách là người tiến hành tố tụng và là chủ thể tiến hành đối thoại sẽ cung cấp cho các đương sự biết về các văn bản pháp luật có liên quan đến việc đánh giá tính hợp pháp của đối tượng khiếu kiện để họ tự xác định xem khiếu kiện Tòa án đang giải quyết có hợp pháp hay không, đồng thời Thẩm phán có thể phân tích cho các đương sự hiểu đúng về nội dung của quy phạm pháp luật để họ có thể quyết định việc lựa chọn việc giải quyết tranh chấp đang phát sinh giữa các bên.
5. Biên bản phiên họp đối thoại
Theo quy định của Luật Tố tụng hành chính (khoản 2 Điều 139), biên bản đối thoại phải có những nội dung sau: Ngày, tháng, năm tiến hành phiên họp; địa điểm tiến hành phiên họp; thành phần tham gia phiên họp; ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; nội dung đã được đương sự thống nhất, không thống nhất. Biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của những người tham gia phiên họp, chữ ký của Thư ký phiên họp ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên họp. Những người tham gia phiên họp có quyền được xem biên bản phiên họp ngay sau khi kết thúc phiên họp, yêu cầu ghi những sửa đổi, bổ sung vào biên bản phiên họp và ký tên hoặc điểm chỉ xác nhận.
6. Xử lý kết quả đối thoại
Điều 140 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 đã quy định rất cụ thể về xử lý kết quả đối thoại: (i) Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện vẫn giữ yêu cầu khởi kiện, người bị kiện giữ nguyên quyết định, hành vi bị khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập vẫn giữ nguyên yêu cầu thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Đối với trường hợp này trong quá trình đối thoại thì người khởi kiện vẫn giữ quan điểm cho rằng khiếu kiện bị khởi kiện là trái với quy định của pháp luật trong khi đó người bị kiện vẫn bảo lưu quan điểm cho rằng khiếu kiện do mình ban hành hoặc thực hiện là hợp pháp. Trường hợp này giữa các bên đương sự đã không thể thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án hành chính nên Thẩm phán phải tiến hành thủ tục để đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa; (ii) Trường hợp qua đối thoại mà người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện thì Thẩm phán lập biên bản về việc người khởi kiện tự nguyện rút đơn khởi kiện, ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của người khởi kiện và người khởi kiện được quyền khởi kiện lại vụ án nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Đối với trường hợp này thì đây là hành động từ một phía của người khởi kiện mà không cần có sự thống nhất của người bị kiện vì trong quá trình đối thoại người khởi kiện nhận thức được các quyết định hành chính, hành vi hành chính cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc thực hiện là đúng với quy định của pháp luật nên họ đã tự nguyện rút đơn khởi kiện, bởi lẽ họ xác định nếu tiếp tục theo đuổi vụ kiện cũng không đạt được kết quả như mong muốn lại mất thêm thời gian, công sức và tiền bạc; (iii) Trường hợp qua đối thoại mà người bị kiện cam kết sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ quyết định bị khởi kiện hoặc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện cam kết rút đơn khởi kiện thì Tòa án lập biên bản về việc cam kết của đương sự. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản, người bị kiện phải gửi cho Tòa án quyết định hành chính mới hoặc thông báo về việc chấm dứt hành vi hành chính bị khởi kiện và người khởi kiện phải gửi cho Tòa án văn bản rút đơn khởi kiện. Hết thời hạn này mà một trong các đương sự không thực hiện cam kết của mình thì Thẩm phán tiến hành các thủ tục để mở phiên tòa xét xử vụ án. Trường hợp nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khởi kiện thì Tòa án phải thông báo cho các đương sự khác biết. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, nếu các đương sự không có ý kiến phản đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành, đình chỉ việc giải quyết vụ án và gửi ngay cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp. Quyết định này có hiệu lực thi hành ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các bên đã thống nhất và cam kết là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì quyết định của Tòa án có thể được xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Bên cạnh đó, trong trường hợp nhận được quyết định hành chính mới hoặc văn bản rút đơn khởi kiện thì tòa án thông báo cho đương sự khác biết. Trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của Tòa án, nếu các đương sự không có ý kiến phản đối thì Thẩm phán ra quyết định công nhận kết quả đối thoại thành và đình chỉ giải quyết vụ án. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm; trường hợp có căn cứ cho rằng nội dung các bên đã thống nhất và cam kết là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội thì quyết định của Tòa án có thể bị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm”.
Với những quy định cụ thể về thủ tục đối thoại trong tố tụng hành chính theo quy định của Luật Tố tụng hành chính năm 2015, việc Tòa án khuyến khích và tạo điều kiện để các đương sự thỏa thuận với nhau trong việc giải quyết vụ án trên cơ sở của pháp luật. Đối thoại trong vụ án hành chính còn có ý nghĩa rất quan trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho tòa án trong quá trình tiến hành các thủ tục đối thoại giúp quá trình giải quyết vụ án nhanh chóng, chính xác; tiết kiệm thời gian, chi phí, công sức, góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác giải quyết các vụ án hành chính của tòa án.