Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017, được đánh giá là bộ luật nền, có vị trí, vai trò là luật chung của hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự chịu trách nhiệm; có tính khái quát và tính khả thi để một mặt, bảo đảm tính ổn định của Bộ luật, mặt khác, đáp ứng được kịp thời sự phát triển thường xuyên, liên tục của các quan hệ xã hội thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự. Trên cơ sở bảo đảm tính kế thừa và phát triển các quy định còn phù hợp với thực tiễn và các giá trị văn hóa, tập quán, truyền thống đạo đức tốt đẹp của Việt Nam, BLDS năm 2015 là một đạo luật có ý nghĩa to lớn không chỉ về mặt bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phát triển kinh tế - xã hội mà còn cả về mặt xây dựng pháp luật.
Xuất phát từ yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng đòi hỏi nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, mà theo đó, pháp luật phải có tính nhất quán, thể hiện ở chỗ các văn bản pháp luật trong cùng một lĩnh vực, có khi trong nhiều lĩnh vực khác nhau đều phải bảo đảm thực hiện quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể. So sánh với quy định của BLDS năm 2015 với một số quy định của pháp luật có liên quan, đang tồn tại một thực trạng đó là, chưa có sự tương thích, còn chồng chéo, thiếu thống nhất khi điều chỉnh về cùng một vấn đề giữa các văn bản quy phạm pháp luật hoặc quy định hướng dẫn (văn bản hướng dẫn chi tiết thi hành) chưa phù hợp với quy định của Luật tương ứng;…
Trong phạm vi bài viết này, tác giả đề cập đến Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014); Luật Thương mại năm 2005; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, mà theo đó, một số quy định về chấm dứt nghĩa vụ; về mức phạt vi phạm và mối liên hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại; hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng nhưng chưa tương thích, đồng bộ với quy định của BLDS năm 2015, từ đó, đưa đề xuất kiến nghị hoàn thiện với hy vọng tạo thành một chỉnh thể thống nhất trong hệ thống pháp luật hiện hành.
Thứ nhất, quy định về chấm dứt nghĩa vụ
Điều 372 BLDS năm 2015 quy định các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ, như sau:
“1. Nghĩa vụ được hoàn thành;
2. Theo thỏa thuận của các bên;
3. Bên có quyền miễn việc thực hiện nghĩa vụ;
4. Nghĩa vụ được thay thế bằng nghĩa vụ khác;
5. Nghĩa vụ được bù trừ;
6. Bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một;
7. Thời hiệu miễn trừ nghĩa vụ đã hết;
8. Bên có nghĩa vụ là cá nhân chết hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà nghĩa vụ phải do chính cá nhân, pháp nhân đó thực hiện;
9. Bên có quyền là cá nhân chết mà quyền yêu cầu không thuộc di sản thừa kế hoặc là pháp nhân chấm dứt tồn tại mà quyền yêu cầu không được chuyển giao cho pháp nhân khác;
10. Vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng nghĩa vụ khác;
11. Trường hợp khác do luật quy định.”
So với Điều 274 BLDS năm 2005, nội dung quy định về các căn cứ chấm dứt nghĩa vụ tại Điều 372 BLDS năm 2015, như vừa trích dẫn không có sự thay đổi.
Tuy nhiên, tại khoản 23 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi hành án dân sự năm 2014, mà theo đó, sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 50 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, như sau:
“1. Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong trường hợp sau đây:
a) Người phải thi hành án chết không để lại di sản hoặc theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế;
b) Người được thi hành án chết mà theo quy định của pháp luật quyền và lợi ích của người đó theo bản án, quyết định không được chuyển giao cho người thừa kế hoặc không có người thừa kế;
c) Đương sự có thỏa thuận bằng văn bản hoặc người được thi hành án có văn bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự đình chỉ thi hành một phần hoặc toàn bộ quyền, lợi ích được hưởng theo bản án, quyết định, trừ trường hợp việc đình chỉ thi hành án ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người thứ ba;
d) Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 103 của Luật này;
đ) Người phải thi hành án là tổ chức đã bị giải thể, không còn tài sản mà theo quy định của pháp luật nghĩa vụ của họ không được chuyển giao cho tổ chức khác;
e) Có quyết định miễn nghĩa vụ thi hành án;
g) Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản đối với người phải thi hành án;
h) Người chưa thành niên được giao nuôi dưỡng theo bản án, quyết định đã chết hoặc đã thành niên.”
Như vậy, đối chiếu với các trường hợp theo quy định tại Điều 372 BLDS năm 2015, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), đều chưa quy định về hai căn cứ
“Bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một”; “vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng nghĩa vụ khác.” (khoản 6; khoản 10 Điều 372 BLDS năm 2015).
Để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp luật, đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014), theo hướng bổ sung quy định: Đình chỉ thi hành án khi bên có quyền và bên có nghĩa vụ hòa nhập làm một; thay đổi tài sản thi hành án trong trường hợp vật đặc định là đối tượng của nghĩa vụ không còn và được thay thế bằng nghĩa vụ khác, việc thi hành án được tiếp tục với tài sản mới.
Thứ hai, về mức phạt vi phạm và mối liên hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại
Theo quy định tại khoản 3 Điều 418 BLDS năm 2015
: “Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Tuy nhiên, khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại năm 2005 quy định:
“Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”.
Như vậy, quy định tại khoản 3 Điều 418 BLDS năm 2015 với khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại năm 2005 là chưa thống nhất với nhau. Theo quy định tại khoản 3 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2015):
“Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản quy phạm pháp luật ban hành sau.”. Ở đây, BLDS và Luật Thương mại đều do Quốc hội ban hành, tuy nhiên, do BLDS năm 2015 được ban hành sau, nên căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 156 vừa trích dẫn, chúng ta phải áp dụng khoản 3 Điều 418 BLDS năm 2015, mặc dù Luật Thương mại năm 2005 vẫn đang còn hiệu lực thi hành.
Để khắc phục sự bất cập này, người viết đề nghị xem xét sửa đổi, bổ sung quy định của Luật Thương mại năm 2005 về mối quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại, để bảo đảm tính thống nhất với quy định BLDS năm 2015. Mà theo đó, nếu các bên chỉ có thỏa thuận về việc bên vi phạm hợp đồng chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì phải tôn trọng ý chí của các chủ thể trong hợp đồng.
Thứ ba, về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng
Về hợp đồng theo mẫu, Điều 405 BLDS năm 2015, quy định như sau:
“1. Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra.
Hợp đồng theo mẫu phải được công khai để bên được đề nghị biết hoặc phải biết về những nội dung của hợp đồng.
Trình tự, thể thức công khai hợp đồng theo mẫu thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản không rõ ràng thì bên đưa ra hợp đồng theo mẫu phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó.
3. Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
BLDS năm 2015, có quy định về điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng, tại Điều 406 như sau:
“1. Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này.
2. Điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao dịch trong trường hợp điều kiện giao dịch này đã được công khai để bên xác lập giao dịch biết hoặc phải biết về điều kiện đó.
Trình tự, thể thức công khai điều kiện giao dịch chung thực hiện theo quy định của pháp luật.
3. Điều kiện giao dịch chung phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên. Trường hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì quy định này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Từ nội dung quy định tại 2 điều luật vừa trích dẫn, cho thấy: Hợp đồng theo mẫu phải được công khai để bên được đề nghị biết hoặc phải biết về những nội dung của hợp đồng, trình tự, thể thức công khai hợp đồng theo mẫu thực hiện theo quy định của pháp luật. Về điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng, được hiểu là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này; điều kiện giao dịch chung chỉ có hiệu lực với bên xác lập giao dịch trong trường hợp điều kiện giao dịch này đã được công khai để bên xác lập giao dịch biết hoặc phải biết về điều kiện đó, trình tự, thể thức công khai điều kiện giao dịch chung thực hiện theo quy định của pháp luật; điều kiện giao dịch chung phải bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên. Trường hợp điều kiện giao dịch chung có quy định về miễn trách nhiệm của bên đưa ra điều kiện giao dịch chung, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì quy định này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu, theo tác giả hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của nước ta hiện nay, chỉ có Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, có quy định về điều kiện giao dịch chung. Cụ thể:
+Điều kiện giao dịch chung là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng (khoản 6 Điều 3).
+
Trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc cung cấp thông tin về hàng hóa, dịch vụ cho người tiêu dùng (Điều 12)
“1. Ghi nhãn hàng hóa theo quy định của pháp luật.
2. Niêm yết công khai giá hàng hóa, dịch vụ tại địa điểm kinh doanh, văn phòng dịch vụ.
3. Cảnh báo khả năng hàng hóa, dịch vụ có ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, tính mạng, tài sản của người tiêu dùng và các biện pháp phòng ngừa.
4. Cung cấp thông tin về khả năng cung ứng linh kiện, phụ kiện thay thế của hàng hóa.
5. Cung cấp hướng dẫn sử dụng; điều kiện, thời hạn, địa điểm, thủ tục bảo hành trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ có bảo hành.
6. Thông báo chính xác, đầy đủ cho người tiêu dùng về hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch.”
+Thực hiện điều kiện giao dịch chung (Điều 18)
“1. Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sử dụng điều kiện giao dịch chung có trách nhiệm thông báo công khai điều kiện giao dịch chung trước khi giao dịch với người tiêu dùng.
2. Điều kiện giao dịch chung phải xác định rõ thời điểm áp dụng và phải được niêm yết ở nơi thuận lợi tại địa điểm giao dịch để người tiêu dùng có thể nhìn thấy.”
+ Giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (Điều 26)
“1. Khi nhận được yêu cầu của người tiêu dùng, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện có trách nhiệm yêu cầu các bên giải trình, cung cấp thông tin, bằng chứng hoặc tự mình xác minh, thu thập thông tin, bằng chứng để xử lý theo quy định của pháp luật.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cấp huyện có trách nhiệm trả lời bằng văn bản việc giải quyết yêu cầu bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; trường hợp xác định tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng, văn bản trả lời phải có các nội dung sau đây:
a) Nội dung vi phạm;
b) Biện pháp khắc phục hậu quả;
c) Thời hạn thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả;
d) Biện pháp xử lý vi phạm hành chính, nếu có.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại điểm b khoản 2 điều này bao gồm:
a) Buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thu hồi, tiêu hủy hàng hóa hoặc ngừng cung cấp hàng hóa, dịch vụ;
b) Đình chỉ hoặc tạm đình chỉ hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân vi phạm;
c) Buộc tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ loại bỏ điều khoản vi phạm quyền lợi người tiêu dùng ra khỏi hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung.
4. Ngoài các biện pháp quy định tại khoản 3 Điều này, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ tái phạm còn bị đưa vào Danh sách tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này.”
+ Hiệu lực của điều khoản trọng tài (Điều 38)
“Tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải thông báo về điều khoản trọng tài trước khi giao kết hợp đồng và được người tiêu dùng chấp thuận. Trường hợp điều khoản trọng tài do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đưa vào hợp đồng theo mẫu hoặc điều kiện giao dịch chung thì khi xảy ra tranh chấp, người tiêu dùng là cá nhân có quyền lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp khác.”
Song song đó, vẫn còn một số văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa bảo đảm sự sự tương thích với quy định về hợp đồng theo mẫu của BLDS năm 2015. Chẳng hạn, khoản 2 Điều 2 Quyết định số 35/2015/QĐ-TTg ngày 20/8/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg ngày 13/01/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung quy định việc phát hành thẻ ghi nợ nội địa, mở và sử dụng dịch vụ tài khoản thanh toán (áp dụng cho khách hàng cá nhân), vay vốn cá nhân (nhằm mục đích tiêu dùng)
phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung là chưa phù hợp với quy định của BLDS năm 2015, vì BLDS năm 2015 chỉ yêu cầu về việc công khai hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung mà không có quy định phải đăng ký hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung. Việc bổ sung các dịch vụ này vào danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu, điều kiện giao dịch chung có thể không cần thiết, tạo thêm thủ tục hành chính cho tổ chức tín dụng và có thể tăng thêm chi phí cho người tiêu dùng. Do vậy, đây cũng là vấn đề mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu ban hành văn bản sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế nhằm bảo đảm sự phù hợp, thống nhất với quy định chung của Luật
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 5 và khoản 6 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, mà theo đó, khái niệm “
Hợp đồng theo mẫu”; “
Điều kiện giao dịch chung trong giao kết hợp đồng”, được giải thích như sau:
+”Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng.”
+“Điều kiện giao dịch chung là những quy định, quy tắc bán hàng, cung ứng dịch vụ do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ công bố và áp dụng đối với người tiêu dùng.”
Theo tác giả, với nội dung giải thích này vẫn còn chung chung, chưa thật đầy đủ và rõ nghĩa, nên dễ phát sinh những cách hiểu khác nhau. Do đó, để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ trong hệ thống pháp luật nói chung, BLDS năm 2015 với Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 nói riêng, tác giả đề xuất khi sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng sắp tới, cần thiết sửa đổi, bổ sung khoản 5 và khoản 6 của Luật này, theo hướng tương thích với quy định tại khoản 1 Điều 405 và khoản 1 Điều 406 BLDS năm 2015. Cụ thể, sau khi sửa đổi, bổ sung khoản 5 và khoản 6 Điều 3 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 được viết lại như sau:
“
5. Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra.”
“6. Điều kiện giao dịch chung là những điều khoản ổn định do một bên công bố để áp dụng chung cho bên được đề nghị giao kết hợp đồng; nếu bên được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng thì coi như chấp nhận các điều khoản này.”
Thứ tư, khoản được bồi thường thiệt hại nếu chậm được thanh toán có được tính lãi không?
Theo quy định về bồi thường thiệt hại, tại Điều 13, Điều 360 BLDS năm 2015:
“Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”; “Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.”. Thông thường việc bồi thường thiệt hại được thực hiện bằng việc trả một khoản tiền. Vấn đề đặt ra, khoản tiền này có phát sinh tiền lãi không? Nói cách khác, bên cạnh việc trả khoản tiền bồi thường thiệt hại, bên phải bồi thường thiệt hại có phải chịu lãi suất chậm trả không? Bởi theo quy định tại Điều 302 Luật Thương mại năm 2005:
“1. Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm.
2. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.”
Xét về bản chất cụm từ
“khoản lợi trực tiếp” quy định tại khoản 2 Điều 302 như vừa trích dẫn, được hiểu là khoản thu nhập hợp pháp của bên bị vi phạm, khoản thu lợi này có thể quy đổi tương ứng bằng khoản tiền lãi, nếu bên bị vi phạm mang số tiền được bồi thường thiệt hại gửi tại ngân hàng. Quan điểm này được dẫn giải từ quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005:
“Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”.
Nhưng có ý kiến cho rằng, BLDS năm 2015 chỉ quy định trường hợp
“lãi chồng lãi”; “lãi mẹ đẻ lãi con”, khi vi phạm nghĩa vụ trả nợ vay mà thôi. Cụ thể, tại khoản 5 Điều 466 BLDS năm 2015, quy định:
“Trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi như sau:
a) Lãi trên nợ gốc theo lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng tương ứng với thời hạn vay mà đến hạn chưa trả; trường hợp chậm trả thì còn phải trả lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này;
b) Lãi trên nợ gốc quá hạn chưa trả bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Một bất cập khác, theo khoản 2 Điều 357 BLDS năm 2015:
“Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo thỏa thuận của các bên nhưng không được vượt quá mức lãi suất được quy định tại khoản 1 Điều 468 của Bộ luật này; nếu không có thỏa thuận thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật này.”. Trong khi đó, khoản 2 Điều 468 BLDS năm 2015, quy định
: “Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ.”. Tức bằng 10%/năm của khoản tiền vay.
Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005:
“…bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán…”. Việc Luật thương mại xác định lãi suất nợ quá hạn như trên là còn chung chung, chưa rõ ràng. Bởi, cần phải lấy lãi trung bình của bao nhiêu ngân hàng và trong phạm vi huyện, quận hay tỉnh, thành phố? Cũng không biết phải chọn ngân hàng nào để tính lãi suất trung bình?. Nghiên cứu vấn đề này tại Án lệ số 09/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17/10/2016 và được công bố theo
Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, thì:
“Tòa án cần lấy mức lãi suất quá hạn trung bình của ít nhất ba Ngân hàng tại địa phương (Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam...) để tính lại tiền lãi do chậm thanh toán cho đúng quy định của pháp luật.”.
Nội dung án lệ trên xác định mức lãi trung bình của ít nhất 03 ngân hàng tại địa phương, nhưng không rõ là địa phương của bên nguyên đơn hay địa phương của phía bị đơn hay địa phương nơi đặt trụ sở của Tòa án đang thụ lý giải quyết vụ kiện?
Thứ năm, về di chúc chung của vợ chồng
So với BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 không có điều khoản nào quy định về di chúc chung giữa vợ và chồng, điều đó không có nghĩa là pháp luật về thừa kế không thừa nhận, nhưng cũng không cấm vợ chồng lập di chúc chung mà áp dụng nguyên tắc chung về di chúc để xác định hiệu lực của di chúc chung của vợ chồng. Theo đó, trường hợp vợ chồng có lập di chúc chung thì di chúc chung này không vô hiệu nếu bảo đảm các điều kiện về di chúc hợp pháp và hình thức của di chúc được quy định tại Điều 625, Điều 627, 628 BLDS năm 2015. Về thời điểm có hiệu lực của di chúc, trường hợp một bên vợ, chồng lập di chúc chung chết trước thì phần di chúc của người đó có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế - thời điểm người đó chết.
Như đã đề cập, do BLDS năm 2015 không quy định về vấn đề này, nhưng thực tiễn vẫn phát sinh những bản di chúc do vợ chồng tự nguyện lập. Do đó, để bảo đảm thống nhất về nhận thức và trong áp dụng pháp luật trong thực tiễn, đối với việc tôn trọng và bảo vệ quyền, lợi ích của người dân trong việc lập di chúc chung của vợ chồng, thiết nghĩ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn một số vấn đề sau:
Một là, chỉ nên lập di chúc chung bằng thể thức văn bản có người làm chứng (nếu cả hai đủ điều kiện minh mẫn, sáng suốt, không thuộc trường hợp mù chữ hoặc bị khiếm khuyết thể chất liên quan tới chức năng lập, kiểm tra nội dung di chúc); hoặc văn bản công chứng, chứng thực. Quy định quyền được sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của một bên, khi vợ chồng còn sống, vẫn phải có sự đồng ý của vợ, chồng. Nhưng nếu một bên cần sửa đổi mà bên kia nhất quyết không đồng ý hoặc không thể biểu lộ ý chí một cách tự nguyện, thì người kia có quyền tự lập di chúc cá nhân hoặc có quyền sửa đổi, bổ sung một phần di chúc chung trong phạm vi phần tài sản của mình không? Thủ tục ra sao? Bởi theo quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật Công chứng năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2015):
“Việc công chứng sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hợp đồng giao dịch đã được công chứng chỉ được thực hiện khi có sự thỏa thuận, cam kết bằng văn bản của tất cả những người đã tham gia hợp đồng, giao dịch đó.” . Cũng cần nói thêm rằng, khi các bên còn sống, di chúc chung vẫn chưa có hiệu lực, và người ta vẫn có nhiều cách để làm mất hiệu lực của di chúc chung, mà không cần phải sửa đổi, bổ sung, thay thế hay huỷ bỏ di chúc chung đó.
Hai là, cần dự liệu các căn cứ cụ thể làm chấm dứt di chúc chung của vợ chồng một cách đương nhiên, nhằm tạo cơ sở pháp lý rõ ràng để giải quyết các trường hợp tương ứng, tránh gây ra sự lúng túng, thiếu nhất quán hoặc những tranh cãi không cần thiết, khi các bên liên quan tiến hành phân chia di sản dựa trên di chúc chung của vợ chồng. Cần phải dung hoà giữa quyền của vợ, chồng trong việc lập di chúc chung với lợi ích chính đáng của những người thừa kế của vợ hay chồng. Có thể qui định thời điểm phát sinh hiệu lực của di chúc chung vợ chồng là thời điểm người sau cùng chết, nhưng cũng cho phép những người thừa kế hợp pháp của người vợ hay chồng chết trước có quyền chia thừa kế đối với phần di sản của vợ, chồng không được định đoạt trong di chúc chung.
Việc kéo dài thời điểm phát sinh hiệu lực của di chúc chung sẽ chấm dứt, nếu người còn sống kết hôn với người khác hoặc họ đã lập di chúc khác để thay thế, huỷ bỏ, sửa đổi, bổ sung di chúc chung liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung, mà việc đó ảnh hưởng tới sự tồn tại của di chúc chung hoặc ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài sản chung của vợ chồng.
Từ lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật về thừa kế nói chung, những quy định của pháp luật về di chúc chung của vợ chồng nói riêng, qua nghiên cứu cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là vấn đề thật sự không đơn giản, rất mong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm hướng dẫn quy định về di chúc chung của vợ chồng, một mặt vừa tạo nên cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, mặt khác, vừa bảo đảm các qui định đó tương thích với các quy định khác trong hệ thống pháp luật nói chung, pháp luật thừa kế nói riêng.
Phạm Thị Hồng Đào