Chế định về Hội thẩm, vai trò của Hội thẩm khi tham gia xét xử - Một số kiến nghị hoàn thiện

20/10/2015
 

Tại Hội nghị học tập của ngành cán bộ Tư pháp năm 1950 Chủ tịch Hồ Chí Minh, ân cần nhắc nhỡ: “Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không chỉ giới hạn hoạt động của mình trong khung Tòa án mà phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân…”. Muốn đưa ra quyết định đúng đắn, giải quyết các tranh chấp đúng pháp luật, hợp với lẽ công bằng, xử phạt đúng người, đúng tội, hiển nhiên đòi hỏi những người làm công tác xét xử phải có đạo đức trong sáng, có bản lĩnh, có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ vững vàng, có kiến thức và vốn hiểu biết cuộc sống, có kinh nghiệm hoạt động xã hội. Vì thế pháp luật quy định khi xét xử có Hội thẩm tham gia là sự bổ sung cần thiết. Hội thẩm là đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, hội thẩm có thể phản ánh một cách khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng nhân dân, chứ không phải từ góc độ của một luật gia thuần túy. Tuy nhiên, từ thực tiễn áp dụng lại nảy sinh những bất cập về vai trò của Hội thẩm khi tham gia xét xử.

Việc đảm bảo sự tham gia của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội nói chung và công tác xét xử của Tòa án nói riêng là yêu cầu quan trọng trong một nhà nước tiến bộ. Ở các nước theo hệ thống thông luật, có chế định về Bồi thẩm đoàn. Ở những nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, Hội đồng xét xử có thể bao gồm Thẩm phán chuyên nghiệp và Thẩm phán không chuyên nghiệp hoặc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Nói chung, hình thức thể hiện việc nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án cũng có sự khác nhau ở mỗi nước. Ở nước ta, việc nhân dân tham gia hoạt động xét xử của Tòa án được thể hiện tập trung nhất thông qua chế định về Hội thẩm nhân dân. Chế định Hội thẩm là sự bảo đảm nguyên tắc thực hiện quyền lực của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án, thể hiện bản chất nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đây là một chế định được ghi nhận trong tất cả các bản Hiến pháp, từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013.

1.Quy định của pháp luật về Hội thẩm khi tham gia xét xử.

Hội thẩm bằng sự tham gia của mình vào Hội đồng xét xử mà thực hiện quyền lực tư pháp và thông qua đó để nhân dân tham gia một cách có hiệu quả vào công tác quản lý Nhà nước nói chung, hoạt động của Tòa án nói riêng. Chính bằng hoạt động xét xử, Tòa án góp phần giáo dục công dân trung thành với Tổ quốc, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng, chống tội phạm, các vi phạm pháp luật khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân theo quy định của pháp luật.

Tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1.Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. 2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm…4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số…”. Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia, Điều 8 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 (viết tắc Luật TCTAND), quy định: “Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án có Hội thẩm tham gia theo quy định của luật tố tụng, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.” Và khoản 1 Điều 9 của Luật này quy định: “Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào.”.

Ngoài ra, Điều 85 Luật TCTAND có quy định về tiêu chuẩn Hội thẩm như sau:

1. Là công dân Việt Nam, trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có uy tín trong cộng đồng dân cư, có tinh thần dũng cảm và kiên quyết bảo vệ công lý, liêm khiết và trung thực.

2. Có kiến thức pháp luật.

3. Có hiểu biết xã hội.

4. Có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao.”; Riêng về thủ tục bầu, cử, miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm; nhiệm kỳ của Hội thẩm; trách nhiệm của Hội thẩm được quy định tại các điều 85, 87, 89 Luật TCTAND.

Bên cạnh đó, tại các điều 15, 16 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (BLTTHS) có quy định: “Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.”; “Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011- BLTTDS) tại các điều 11, 12 cũng có các quy định về Hội thẩm nhân dân tham gia xét xử các vụ án dân sự ; Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, cụ thể:Việc xét xử các vụ án dân sự có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.”; “Khi xét xử vụ án dân sự, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nghiêm cấm mọi hành vi cản trở Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân thực hiện nhiệm vụ.”

Là một nguyên tắc Hiến định nên nếu việc xét xử của Tòa án mà không có Hội thẩm tham gia thì sẽ không chỉ là vi hiến mà còn vi phạm nghiêm trọng phạm pháp luật tố tụng. Ngay cả khi Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bảo đảm đủ số lượng 03 thành viên (01 Thẩm phán, 02 Hội thẩm), nhưng một trong hai Hội thẩm đó không phải là giáo viên hoặc cán bộ Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, khi bị cáo trong vụ án đó là người chưa thành niên thì cũng bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và chắc chắn rằng bản án, quyết định của Hội đồng xét xử vụ án đó bị hủy để xét xử lại. Bởi việc tham gia và tham gia đúng thành phần của Hội thẩm giúp cho Tòa án xét xử không chỉ đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội thẩm, họ hoàn toàn không tách khỏi môi trường công tác, huấn luyện sẳn sàng chiến đấu (đối với Hội thẩm quân nhân); hoạt động tại cơ quan, lao động sản xuất tại doanh nghiệp (đối với Hội thẩm nhân dân) và với vốn hiểu biết thực tế, trải nghiệm trong cuộc sống, với sự am hiểu về phong tục tập quán ở địa phương, Hội thẩm sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã hội cần thiết trong quá trình xét xử để từ đó Hội đồng xét xử có cơ sở đưa ra phán quyết đúng pháp luật, được dư luận xã hội đồng tình ủng hộ.

Cùng với Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Hội thẩm khi được phân công tham gia xét xử vụ án, thì Hội thẩm được xác định là một trong những người tiến hành tố tụng tại Tòa án. Khi được phân công giải quyết vụ án thì Hội thẩm có các nhiệm vụ như: nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa; tham gia xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm (riêng đối với vụ án hình sự thì Hội thẩm có thể tham gia xét xử theo thủ tục phúc thẩm trong trường hợp cần thiết); tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng xét xử. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định của mình. Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành quy định thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm: 01 Thẩm phán và 02 Hội thẩm; trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp, nghiêm trọng thì Hội đồng xét xử có thể gồm 02 Thẩm phán và 03 Hội thẩm. Với các quy định nêu trên thì Hội thẩm có vai trò rất quan trọng trong công tác xét xử, vì khi tham gia xét xử ở cấp sơ thẩm, Hội thẩm chiếm đa số trong Hội đồng xét xử (2/3 hoặc 3/5) và khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán khi biểu quyết các vấn đề nghị bàn khi Hội đồng xét xử nghị án, mà không có bất kỳ sự lệ thuộc nào. Nếu như, khi nghị án ý kiến biểu quyết của các Hội thẩm là giống nhau và khác với ý kiến của Thẩm phán thì quyết định của Hội đồng xét xử phải theo ý kiến của đa số, dù Thẩm phán là người đã từng làm công tác xét xử lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, đạt đến trình độ chuyên nghiệp thì cũng chỉ có quyền bảo lưu ý kiến của mình trong Biên bản nghị án, sau đó báo cáo lại Chánh án nơi Tòa án mình đang công tác, đề nghị Tòa án cấp trên xem xét.

Như vậy, việc ghi nhận chế định Hội thẩm trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Tòa án có những ý nghĩa quan trọng sau:

Một là, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án. Việc tham gia vào công tác xét xử của Tòa án, không chỉ là thực hiện quyền tư pháp, mà còn tham gia vào việc kiểm soát thực hiện quyền tư pháp, thông qua việc góp tiếng nói phản ánh tâm tư từ thực tiễn gắn bó gần gũi với đời sống hoàn cảnh của người dân, bị cáo trong vụ án, để từ đó làm sáng tỏ nguyên nhân, hoàn cảnh phát sinh tội phạm cụ thể, phát sinh tranh chấp,… vào quá trình xét xử, nhằm giúp Hội đồng xét xử có sự đồng cảm từ đó đưa ra quyết định thật chính xác, khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân theo quy định của pháp luật.

Hai là, tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án và Nhân dân thông qua cầu nối là Hội thẩm. Cũng thông qua Hội thẩm, Tòa án nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình cảm của Nhân dân. Một phán quyết của Tòa án chỉ có thể nhận được sự đồng tình của Nhân dân, khi nó phản ánh đúng sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật, khi thật sự là chỗ dựa về mặt tinh thần, là niềm tin vào công lý của Nhân dân và khi đó tính thượng tôn pháp luật mới được đề cao

Ba là, thông qua công tác xét xử Hội thẩm giúp Tòa án thực hiện tốt công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong Nhân dân, tuyên truyền về kết quả xét xử,  phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án, từ đó góp phần giáo dục ý thức pháp luật của công dân tại nơi Hội thẩm làm việc.

2. Bất cập từ quy định của pháp luật đến thực trạng vai trò của Hội thẩm khi tham gia Hội đồng xét xử

Trong thành phần của Hội đồng xét xử sơ thẩm, số lượng Hội thẩm bao giờ cũng chiếm tỷ lệ cao hơn so với Thẩm phán. Đây là một lợi thế để các Hội thẩm thể hiện “ngang quyền” với Thẩm phán khi xét xử trên tinh thần dân chủ.Tuy nhiên, thực tế phải thẳng thắn nhìn nhận, khi trình độ kiến thức pháp luật, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ giữa Hội thẩm và Thẩm phán có một khoảng cách quá xa thì việc thực hiện nguyên tắc “ngang quyền” của Hội thẩm khi tham gia xét xử cũng chỉ mang tính hình thức và nhiều trường hợp là sự “gượng ép”.

Thứ nhất, theo quy định tại Điều 64 Luật TCTAND, để được bổ nhiệm làm Thẩm phán, thì nhiều tiêu chuẩn Thẩm phán phải có, đó là: Trình độ từ cử nhân luật trở lên; được đào tạo nghiệp vụ xét xử; có thời gian làm công tác thực tiễn pháp luật;…Theo quy định tại Điều 66 Luật TCTAND, các ngạch Thẩm phán, gồm: Thẩm phán TANDTC; Thẩm phán cao cấp; Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp. Điều kiện bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp theo quy định tại Điều 68 Luật TCTAND hết sức chặt chẽ, ví dụ: Để được bổ nhiệm Thẩm phán sơ cấp, ngoài các tiêu chuẩn quy định tại Điều 66 Luật TCTAND, còn đòi hỏi có thời gian làm công tác pháp luật từ 05 năm trở lên, trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn Thẩm phán sơ cấp; tương tự để bổ nhiệm Thẩm phán trung cấp ngoài các tiêu chuẩn quy định tại Điều 66 Luật TCTAND, còn đòi hỏi đã là Thẩm phán sơ cấptừ đủ 05 năm trở lên, trúng tuyển kỳ thi nâng ngạch Thẩm phán trung cấp. Trong khi đó đối với Hội thẩm, nếu thỏa các tiêu chuẩn quy định tại Điều 85 Luật TCTAND thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội thẩm, mà các tiêu chuẩn đề ra hoàn toàn mang tính định lượng không rõ ràng, không cụ thể nên rất dễ tùy nghi vận dụng, đa số Hội thẩm được bầu hoặc cử trong các nhiệm kỳ vừa qua chưa trải qua lớp đào tạo chuyên ngành Luật cho dù là trung cấp, mà chỉ được trang bị kiến thức rất cơ bản về pháp luật và nghiệp vụ công tác xét xử sau khi được bầu làm Hội thẩm thông qua đợt tập huấn hàng năm thời gian từ 02 đến 03 ngày là xong! Nên khi tham gia xét xử, bản thân Hội thẩm đó xem xét các vấn đề đặt ra đối với họ chủ yếu bằng kinh nghiệm sống là chính, chứ không hoàn toàn dựa trên cơ sở pháp luật thực định, thậm chí họ cũng không thể biết quan hệ pháp luật đó phải áp luật luật nội dung nào cho phù hợp, chứ chưa nói đến rất nhiều các Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng trong từng lĩnh vực riêng biệt, Hội thẩm chưa một lần đọc hay nghe đến, trong khi đó pháp luật lại trao cho họ quyền quá lớn “ngang quyền” với Thẩm phán khi thảo luật quyết định những vấn đề tội danh, hình phạt, biện pháp tư pháp,…Rõ là sự khập khiễng của quy định pháp luật hiện nay, dù rằng việc tham gia xét xử của Hội thẩm là cần thiết.

Thứ hai, chế độ nghiên cứu hồ sơ của Hội thẩm với thời gian quá ngắn, tối đa khoảng 12 ngày khi Tòa án ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử (chưa kể các trường hợp gia hạn thời hạn xét xử), nghĩa là sau khi có quyết định phân công của Chánh án của Tòa án đó và Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa ban hành Quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì từ thời điểm đó Hội thẩm chính thức trở thành thành viên của Hội đồng xét xử và theo sự sắp xếp, bố trí của Thư ký Hội thẩm được tham gia đọc hồ sơ, nghiên cứu xét xử vụ án đó. Trong khi đó, theo quy định tại khoản 2 Điều 176 BLTTHS năm 2003:“Trong thời hạn ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án…”. Theo quy định này, Thẩm phán được phân công xét xử vụ án có thời gian nghiên cứu hồ sơ dài hơn, cụ thể 30 ngày, 45 ngày, 02 tháng, 03 tháng tùy theo từng loại tội phạm. Tương tự như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 179 BLTTDS thời gian Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án đó nghiên cứu hồ sơ, có thể 02 tháng hoặc 04 tháng kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy thuộc vào vụ án theo quy định tại Điều 29, Điều 31 hay Điều 25, Điều 27 của BLTTDS, trong khi đó thời gian nghiên cứu hồ sơ của Hội thẩm tối đa cũng chỉ khoảng 12 ngày (chưa kể trường hợp được gia hạn thời gian chuẩn bị xét xử thì thời gian nghiên cứu được kéo dài thêm), mà đã là Hội thẩm thì sẽ tham gia xét xử tất cả các loại án từ hình sự, dân sự, đến hành chính, kinh tế, lao động… thời gian nghiên cứu hồ sơ ít như vậy cộng với vốn kiến thức pháp luật nền tảng bị hạn chế thì rõ ràng Hội thẩm không có đủ điều kiện để đánh giá hết các chứng cứ trong hồ sơ để có quyết định đúng đắn về vụ án, nhất là đối với những vụ án có nhiều tình tiết phức tạp như án dân sự về tranh chấp đất đai, thừa kế, những vụ án hình sự có nhiều bị cáo tham gia, hồ sơ lên đến hàng trăm bút lục…

Thứ ba, Hội thẩm được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu để tham gia xét xử tại TAND ở địa phương đó gọi là Hội thẩm nhân dân; Hội thẩm được Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân khu và tương đương cử theo đề nghị của các đơn vị thuộc quyền trên địa bàn gọi là Hội thẩm quân nhân cấp Khu vực, Hội thẩm được Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị cử theo đề nghị của cơ quan chính trị cấp quân khu và tương đương gọi là Hội thẩm quân nhân cấp Quân khu. Thực tiễn cho thấy hầu hết nguồn của Hội thẩm nhân dân là các công chức, viên chức nhà nước kiêm nhiệm hoặc đã nghỉ hưu; Hội thẩm quân nhân là cán bộ, sĩ quan công tác tại các cơ quan đơn vị đóng quân trên địa bàn, mà Tòa án quân sự đó đảm nhiệm. Hội thẩm tham gia vào hoạt động xét xử của Tòa án nói chung phần lớn trong số họ chưa thể hiện được trách nhiệm nặng nề mà người dân trao cho họ. Bởi:

Một là, hiện nay, ngoài chế độ về trang phục, Hội thẩm chỉ được hưởng chế độ bồi dưỡng phiên tòa với mức 90.000đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử (Quyết định số 41/2012/QĐ-TTg ngày 05/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ, có hiệu lực từ ngày 01/01/2013).Trong khi đó, khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, nhưng một số chế độ của Thẩm phán như: phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề thì Hội thẩm lại không được hưởng, nên xét về thu nhập, đây không phải là nguồn thu nhập có thể nuôi sống gia đình và bản thân.

Hai là, về trách nhiệm công vụ, đây cũng không phải là nơi họ sẽ phải chịu trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hành chính, nên cho dù có thực hiện tốt hay chưa tốt nhiệm vụ của Hội thẩm thì cũng không ảnh hưởng đến việc xét nâng lương, thăng quân hàm, bổ nhiệm chức danh,…kể cả đánh giá xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của người đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức tại cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý họ. Thực tế cho thấy, nhiều trường hợp bản án của Hội đồng xét xử đó bị hủy, bị sửa do áp dụng pháp luật không đúng hoặc xét xử oan, sai, nhưng cuối cùng Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử vẫn vô tư, coi như không có chuyện gì xảy ra, mặc dù theo quy định của pháp luật Hội thẩm đó trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật hoặc nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. (khoản 8 Điều 89 Luật TCTAND) Nhưng thực tế có vị Hội thẩm nào bị xét kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự do không hoàn thành nhiệm vụ, trách nhiệm của Hội thẩm chưa? Rõ ràng là chưa. Đây là một bất cập.

Ba là, do ảnh hưởng từ những hạn chế vừa phân tích trên nên về mặt xã hội tuy không phải là nhiều nhưng thực tiễn xét xử cho thấy, ngay sau khi được Chủ tọa phiên tòa giải thích cho họ biết về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng trong vụ án mà Tòa án đã xác định, không ít trường hợp bị cáo hoặc bị hại hay nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự đề nghị thay đổi vị Hội thẩm đang là thành viên của Hội đồng xét xử, lý do mà họ đưa ra để  giải thích về sự thiếu tin tưởng vào kỹ năng xét xử đỏi hỏi phải có của một “quan tòa” đối với Hội thẩm đó, như : Ông ấy, bà ấy là Cựu chiến binh, là cán bộ của Hội nông dân của phường,…chưa qua một trường đào tạo nào về luật! Tất nhiên, lý lẽ mà họ đưa ra không được Hội đồng xét xử chấp nhận, nhưng qua đó cũng thấy rằng thật sự họ không kỳ vọng nhiều vào những Hội thẩm như vậy. Công bằng mà nói, bên cạnh nhiều Hội thẩm tỏ ra rất tích cực trong nghiên cứu, giúp cho Hội đồng xét xử đưa ra phán quyết thật “thấu lý đạt tình”, cũng có nhiều Hội thẩm mà vai trò của họ khá mờ nhạt, điều này được thể hiện ngay chính phong thái của Hội thẩm tại phiên tòa, có thể do không nắm thật chắc tình tiết vụ án; kỹ năng xét xử nhất là kỹ năng vận dụng các nghị quyết hướng dẫn áp dụng pháp luật của Hội đồng thẩm phán TANDTC vào giải quyết từng loại án cụ thể còn hạn chế, chính vì lẽ đó cũng dễ bắt gặp những câu hỏi có tính chất “món cung”,… nên họ trở nên bị phụ thuộc vào ý kiến của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa khi nghị án.

Thứ tư, nghị án là thủ tục bắt buộc trước khi Hội đồng xét xử tuyên án. Theo quy định Hội thẩm là những người phát biểu, trình bày quan điểm trước rồi mới đến Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa. Tuy nhiên, từ những hạn chế và bất cập trên nên có trường hợp Hội thẩm khi tham gia nghị án, họ thường thiếu lý lẽ để bảo vệ chính kiến của mình, gần như “phó thác” trách nhiệm cho Chủ tọa. Hơn nữa, pháp luật tố tụng hiện hành quy định Hội đồng xét xử tuyên án sau khi nghị án xong, để thực hiện đúng quy định này do áp lực về thời gian, buộc Thẩm phán phải chuẩn bị trước bản án và kể cả Biên bản nghị án chứ không còn cách nào khác. Do vậy, nhiều phiên tòa khi nghị án, phần lớn thời gian Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa “chốt” lại một số nội dung chính, sau khi thống nhất với các thành viên trong Hội đồng xét xử, như: Tội danh; điều luật áp dụng; loại hình phạt, mức hình phạt; biện pháp tư pháp áp dụng;… Điều này cũng dễ dàng lý giải vì sao có đến 99,99% nội dung Biên bản nghị án trong các vụ án hình sự, dân sự, … tại cấp Sơ thẩm thể hiện tính thống nhất cao khi Hội đồng xét xử biểu quyết.

Như đã phân tích, do tác động của những hạn chế nêu trên nên khi tham gia Hội đồng xét xử, vai trò của không ít Hội thẩm chưa được thể hiện rõ nét và đúng nghĩa là người đại diện của các giới, các ngành, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, họ có thể phản ánh một cách khách quan suy nghĩ, tâm tư của quần chúng Nhân dân, chứ không phải từ góc độ của một luật gia thuần túy. Dù biết rằng Hội thẩm chỉ tham gia Hội đồng xét xử tại Tòa án cấp Sơ thẩm, nhưng một bản án, quyết định được tuyên nếu như không rõ ràng, thiếu khách quan thì chắc chắn rằng sẽ ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, họ vừa phải mất thời gian đeo đuổi vụ án theo vòng quay tố tụng, đó là chưa kể khi bản án đó bị hủy giao lại cấp sơ thẩm xét xử lại từ đầu vừa phải bỏ ra những khoản chi phí cũng không nhỏ, nhưng quan trọng hơn đó là niềm tin của người dân vào công lý chắc chắn sẽ bị giảm sút đáng kể.

Kiến nghị

Phải khẳng định rằng, việc xét xử các vụ án là hết sức phức tạp, đòi hỏi các thành viên Hội đồng xét xử phải tinh thông nghiệp vụ, nắm chắc quy định pháp luật và các văn bản hướng dẫn thống nhất áp dụng pháp luật của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thật sự có kinh nghiệm và am hiểu xã hội. Để chất lượng xét xử, giải quyết án tại Tòa án nhất là Tòa án cấp Sơ thẩm không ngừng được nâng lên, luôn bảo đảm tiêu chí thật chính xác trong áp dụng pháp luật, người viết có đề xuất mấy kiến nghị xoay quanh quy định của pháp luật về Hội thẩm như sau:

1.Về tiêu chuẩn kiến thức pháp luật của Hội thẩm:

Theo quy định của pháp luật hiện hành, người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm chỉ cần có kiến thức pháp luật mà không quy định cụ thể một tiêu chuẩn tối thiểu nào, trong khi đó, cùng tham gia xét xử với họ là những Thẩm phán có trình độ từ cử nhân luật trở lên, được đào tạo nghiệp vụ xét xử và thường xuyên được tập huấn, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử. Hơn nữa, Hội Thẩm cũng phải chịu trách nhiệm kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự nếu có hành vi vi phạm pháp luật, đồng thời phải bồi thường những thiệt hại đã gây ra (nếu làm oan, sai) cho người không có tội. Do vậy, khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành quy định cụ thể về tiêu chuẩn Hội thẩm (khoản 2 Điều 85 Luật TCTAND) nên quy định theo hướng người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm phải có trình độ pháp luật từ trung cấp trở lên hoặc ít nhất phải qua một lớp bồi dưỡng kiến thức pháp luật tập trung 06 tháng.

2.Về lựa chọn nhân sự để bầu hoặc cử làm Hội thẩm:

Hội thẩm là người đại diện cho các tầng lớp Nhân dân tham gia công tác xét xử của Tòa án. Tuy nhiên thực tế hiện nay, phần lớn những người được Mặt trận Tổ quốc giới thiệu để Hội đồng nhân dân bầu làm Hội thẩm là cán bộ công chức, viên chức của các cơ quan nhà nước hiện đang công tác hoặc đã nghỉ hưu, nên chưa thực sự đại diện đầy đủ cho tính nhân dân của chức danh này. Do đó, trong việc lựa chọn nhân sự để bầu làm Hội thẩm không được dễ dãi, hạ thấp tiêu chí như thời gian qua, mà nhất quyết cần lựa chọn những người thật sự có uy tín, kiến thức và hiểu biết trên các lĩnh vực đời sống xã hội, các khu vực dân cư khác nhau, thì mới đảm bảo đúng ý nghĩa của chế định này.

3.Về số lượng Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử sơ thẩm:

Công tác xét xử là một lĩnh vực liên quan tới các quyền rất quan trọng của cá nhân, tổ chức trong xã hội, do đó Hội đồng xét xử phải đảm bảo tính chuyên nghiệp cao, nhằm hạn chế đến mức thấp tỉ lệ án bị cải sửa, bị hủy. Do vậy, theo quan điểm của người viết một trong những giải pháp mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét đến, đó là chất lượng về trình độ chuyên môn của Hội đồng xét xử phải được coi trọng. Bên cạnh việc quy định trình độ kiến thức pháp luật tối thiều của Hội thẩm, thì vấn đề số lượng Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử cũng phải thay đổi cho phù hợp. Mà theo đó, cần quy định số lượng Hội thẩm trong Hội đồng xét xử nhiều hơn như hiện nay (02 Thẩm phán, 01 Hội thẩm), có như vậy mới đảm bảo huy động rộng rãi và tối đa trí tuệ phục vụ công tác xét xử và chắc chắn rằng bản án, quyết định của Hội đồng xét xử tuyên phù hợp với quy định pháp luật, bảo đảm công bằng được sự đồng tình ủng hộ của người dân, từ đó sẽ giảm hẳn tỉ lệ án có kháng cáo kháng nghị có xu hướng ngày một tăng như hiện nay và nhất là sẽ khắc phục được tình trạng quyết định của bản án tuyên đã có hiệu lực pháp luật nhưng không thể thi hành, do tuyên không rõ ràng.

4.Về mối quan hệ phối hợp giữa Tòa án với Đoàn Hội thẩm; trách nhiệm của cơ quan, đơn vị vũ trang nhân dân đối với Hội thẩm: Cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời ban hành quy định theo hướng quy định rõ trách nhiệm của Hội thẩm khi tham gia xét xử, như: Trong thời gian chuẩn bị xét xử Hội thẩm phải hết sức nỗ lực trong việc nghiên cứu hồ sơ xem xét đầy đủ những tình tiết có liên quan nhất buộc tội và gỡ tội; giá trị các tài liệu liên quan đến vụ kiện mà các bên cung cấp; nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh vụ án;… Từ đó Hội thẩm phải chuẩn bị cho mình một kế hoạch thẩm vấn tại phiên tòa, có như vậy mới chủ động khi tham gia xét xử và thể hiện sự “ngang quyền” với Thẩm phán. Song song đó, cần thực hiện tốt chế độ trao đổi thông tin cho nhau giữa Tòa án với Đoàn Hội thẩm về tinh thần trách nhiệm cũng như chất lượng các vụ án mà Hội thẩm đó đã tham gia xét xử, làm cơ sở đánh giá, xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ xét xử của Hội thẩm trong năm, trong nhiệm kỳ, kịp thời đề xuất cấp có thẩm quyền khen thưởng động viên khích lệ tinh thần và qua đó cũng là cơ sở quy hoạch bồi dưỡng nguồn tiếp tục cho nhiệm kỳ sau.

5.Về bảo đảm chế độ đối với Hội thẩm:

Khi tham gia xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán nhưng một số chế độ của Thẩm phán như phần trên đề cập: Phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề thì Hội thẩm lại không được hưởng là bất hợp lý. Hội thẩm là chức danh kiêm nhiệm,  trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường và Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án theo quy định của pháp luật hoặc nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật bãi nhiệm hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật. Vì vậy để bảo đảm công bằng và khuyến khích Hội thẩm tích cực tham gia công tác xét xử, đề nghị cần áp dụng các chế độ đãi ngộ tương xứng với công sức mà họ đã bỏ ra và trách nhiệm mà họ phải gánh chịu. Mà theo đó, đề nghị nâng mức bồi dưỡng từ 90.000 đồng/ngày nghiên cứu hồ sơ hoặc xét xử hiện nay lên mức 150.000 – 200.000 đồng/ngày.

Kết luận

Từ những vấn đề trên có thể thấy, chính sự thiếu thực tiễn trong quy định về chế định Hội thẩm dẫn đến việc thiếu tin tưởng vào vai trò Hội thẩm nói riêng và Hội đồng xét xử sơ thẩm nói chung. Bên cạnh đó, việc quy định thiếu thực tiễn về chế định Hội thẩm đã làm cho nhiều Hội thẩm trở thành những người thừa hành của Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa, thiếu sự tôn trọng đúng nghĩa đối với họ. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, một trong những yêu cầu trọng tâm của tiến trình cải cách tư pháp làm cho vai trò của Toà án ngày càng độc lập hơn đối với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Việc độc lập của Toà án không chỉ đòi hỏi nâng cao năng lực xét xử của các Thẩm phán, mà kể cả Hội thẩm khi tham gia công tác xét xử. Ngoài nhiều yêu cầu phải thay đổi quan trọng khác khi sửa đổi các luật về tố tụng sắp tới, một đòi hỏi cũng không kém phần quan trọng đó là nhận thức và quy định chế định Hội thẩm sau cho phù hợp với thực tiễn, nghĩa là hoàn thiện chế định này theo nghĩa đây là một chế định tham gia của xã hội vào quá trình xét xử của Tòa án, khắc phục triệt để tình trạng mà nhiều người cho rằng, Hội thẩm trong nhiều phiên tòa xét xử họ chỉ tham gia cho đủ thành phần, đủ số lượng.

 Th.s Lê Văn Sua