Lập hồ sơ kê khai giả để được cấp lại giấy đăng ký xe, còn nhiều bất cập trong xử lýHiện nay không ít trường hợp sau khi hợp đồng mua, bán xe (ô tô, mô tô) được thực hiện trên thực tế, nghĩa là, bên mua xe đã giao đủ cho bên bán số tiền trị giá chiếc xe, đồng thời bên bán cũng giao cho bên mua đối tượng giao dịch là chiếc xe với đầy đủ các giấy tờ liên quan “hợp pháp” theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng được công chứng, nhưng một thời gian sau bên mua mới “tá hỏa” khi biết giấy đăng ký của chiếc xe mà mình mua được Phòng Cảnh sát giao thông có thẩm quyền cấp lại (lần hai) từ hồ sơ kê khai là giả. Pháp luật hiện hành có quy định cấm hành vi làm giả hồ sơ đăng ký xe và cũng có quy định xử lý hành vi này bằng biện pháp hành chính hoặc hình sự. Tuy nhiên, vấn đề đang gặp vướng mắc của các cơ quan thực thi pháp luật hiện nay, đó là, việc xử phạt hành chính chủ xe trước đó (người lập hồ sơ kê khai giả) theo quy định của pháp luật còn bất cập; với định bao nhiêu hồ sơ kê khai được làm giả thì mới đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi làm giả hồ sơ đăng ký xe mô tô, ô tô theo quy định tại Điều 266 BLHS hiện hành.
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009, mà theo đó, tại Điều 8 có quy định các hành vi bị nghiêm cấm sau:
“1. Phá hoại đường, cầu, hầm, bến phà đường bộ, đèn tín hiệu, cọc tiêu, biển báo hiệu, gương cầu, dải phân cách, hệ thống thoát nước và các công trình, thiết bị khác thuộc kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
2. Đào, khoan, xẻ đường trái phép; đặt, để chướng ngại vật trái phép trên đường; đặt, rải vật nhọn, đổ chất gây trơn trên đường; để trái phép vật liệu, phế thải, thải rác ra đường; mở đường, đấu nối trái phép vào đường chính; lấn, chiếm hoặc sử dụng trái phép đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ; tự ý tháo mở nắp cống, tháo dỡ, di chuyển trái phép hoặc làm sai lệch công trình đường bộ.
3. Sử dụng lòng đường, lề đường, hè phố trái phép.
4. Đưa xe cơ giới, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường tham gia giao thông đường bộ.
5. Thay đổi tổng thành, linh kiện, phụ kiện xe cơ giới để tạm thời đạt tiêu chuẩn kỹ thuật của xe khi đi kiểm định.
6. Đua xe, cổ vũ đua xe, tổ chức đua xe trái phép, lạng lách, đánh võng.
7. Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy.
8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.
Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.
9. Điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định.
Điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ không có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng.
10. Giao xe cơ giới, xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia giao thông đường bộ.
11. Điều khiển xe cơ giới chạy quá tốc độ quy định, giành đường, vượt ẩu.
12. Bấm còi, rú ga liên tục; bấm còi trong thời gian từ 22 giờ đến 5 giờ, bấm còi hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị và khu đông dân cư, trừ các xe được quyền ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định của Luật này.
13. Lắp đặt, sử dụng còi, đèn không đúng thiết kế của nhà sản xuất đối với từng loại xe cơ giới; sử dụng thiết bị âm thanh gây mất trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng.
14. Vận chuyển hàng cấm lưu thông, vận chuyển trái phép hoặc không thực hiện đầy đủ các quy định về vận chuyển hàng nguy hiểm, động vật hoang dã.
15. Đe dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; bắt ép hành khách sử dụng dịch vụ ngoài ý muốn; chuyển tải, xuống khách hoặc các hành vi khác nhằm trốn tránh phát hiện xe chở quá tải, quá số người quy định.
16. Kinh doanh vận tải bằng xe ô tô khi không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh theo quy định.
17. Bỏ trốn sau khi gây tai nạn để trốn tránh trách nhiệm.
18. Khi có điều kiện mà cố ý không cứu giúp người bị tai nạn giao thông.
19. Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bị nạn và người gây tai nạn.
20. Lợi dụng việc xảy ra tai nạn giao thông để hành hung, đe dọa, xúi giục, gây sức ép, làm mất trật tự, cản trở việc xử lý tai nạn giao thông.
21. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp của bản thân hoặc người khác để vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ.
22. Sản xuất, sử dụng trái phép hoặc mua, bán biển số xe cơ giới, xe máy chuyên dùng.
23. Hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ.”
Để thi hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Chính phủ đã ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành, trong đó có Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, gần đây là Nghị định số 107/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, mà theo đó, Điều 30. Xử phạt chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ của Nghị định 171/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại điểm e khoản 5 của Nghị định 107/2014/NĐ-CP, như sau: “ 5. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với cá nhân là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô, từ 4.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: …e) Khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, Giấy đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường;
Ngoài ra, tại điểm khoản 11 Điều 5 của Nghị định này có quy định: “11. Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: a) Thực hiện hành vi quy định tại Điểm b, Điểm d Khoản 3; Điểm b, Điểm e Khoản 5 Điều này bị tịch thu biển số, Giấy đăng ký xe (trường hợp đã được cấp lại), tịch thu hồ sơ, các loại giấy tờ, tài liệu giả mạo;”
Bên cạnh đó, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 15/2015/TT-BCA ngày 04/4/2014 của Bộ Công an quy định về đăng ký xe, mà theo đó, tại Điều 6 của Thông tư này có quy định trách nhiệm của chủ xe, như sau:
“1. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về đăng ký xe; có hồ sơ xe theo quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của xe và hồ sơ đăng ký xe; đưa xe đến cơ quan đăng ký xe để kiểm tra và nộp lệ phí đăng ký, cấp biển số xe theo quy định.
Trường hợp chủ xe được cơ quan đăng ký xe trước đây giao quản lý một phần hồ sơ xe thì khi làm thủ tục cấp, đổi lại giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe; sang tên, di chuyển xe; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe phải nộp lại phần hồ sơ đó.
2. Ngay khi có quyết định điều chuyển, bán, cho, tặng xe, chủ xe phải thông báo bằng văn bản theo mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư này đến cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký xe đó để theo dõi. Trường hợp chủ xe không thông báo thì tiếp tục phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về chiếc xe đó đến khi tổ chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe.
3. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm chứng từ chuyển quyền sở hữu xe, tổ chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe phải đến cơ quan đăng ký xe làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe.
4. Nghiêm cấm mọi hành vi giả mạo hồ sơ, đục xóa số máy, số khung để đăng ký xe.”
Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này như liệt kê trên, dễ thấy rằng, sở dĩ hiện nay đang tồn tại một thực trạng gây bức xúc trong nhân dân, đó là, còn có rất nhiều trường hợp chuyển nhượng, mà người mua đã mua phải xe với giấy đăng ký xe là thật (do Phòng Cảnh sát giao thông địa phương nơi quản lý cấp), hồ sơ do chủ phương tiện kê khai là giả, nhưng kết quả xử lý còn rất khiêm tốn, thậm chí nhiều trường hợp một người làm hồ sơ kê khai giả cùng một lúc 03 xe ô tô, khi bị phát hiện dù cơ quan chức năng cố gắng lắm cũng chỉ dừng lại việc thu hồi giấy đăng ký xe và biển số xe đã cấp không đúng, còn việc xử phạt người đã lập hồ sơ giả thì dường như là điều không thể, họ vắng mặt tại địa phương nơi cư trú hoặc ngay cả trường hợp người vi phạm vẫn ở tại địa phương nhưng cơ quan chức năng vẫn không thể tiến hành xử phạt hành chính họ được. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hệ quả trên là do các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này chưa đầy đủ và thiếu tính khả thi.
Trước hết, nhà làm luật đã không quy định trong luật chuyên ngành cấm việc chủ phương tiện giao thông chuyển nhượng phương tiện, mà họ đang thực hiện quyền sở hữu mà biết rõ giấy đăng ký phương tiện đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấptrên cơ sở hồ sơ kê khai là giả. Đây là một kẻ hở dễ bị lợi dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật, bởi trên thực tế công tác quản lý dữ liệu của các cơ quan, đơn vị chức năng thuộc lực lượng cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt của Ngành công an chưa thật sự đồng bộ, nên mới xảy ra tình trạng giấy tờ gốc của xe ô tô, mô tô được chủ phương tiện đem thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự tại ngân hàng đã vay, nhưng chủ phương tiện vẫn cố tình “qua mặt” cơ quan chức năng tại địa phương nơi đã đăng ký lần đầu phương tiện đó, bằng việc lập hồ sơ đề nghị cấp lại giấy đăng ký xe, kèm theo đơn mất toàn bộ giấy tờ gốc của phương tiện đó nhằm để thực hiện hành vi lừa đảo. Có ý kiến cho rằng xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của Luật Giao thông đường bộ là các quy định về quy tắc giao thông đường bộ; kết cấu hạ tầng giao thông, phương tiện và người giao thông đường bộ; vận tải đường bộ và quản lý nhà nước về giao thông đường bộ, nên Luật này không quy định cụ thể việc “cấm lập hồ sơ kê khai giả để cấp lại giấy đăng ký xe” là phù hợp. Nhưng người viết thấy rằng, nghiên cứu khoản 22 của Điều 8 Luật này, có quy định cấm: “ Sản xuất, sử dụng trái phép hoặc mua, bán biển số xe cơ giới, xe máy chuyên dùng”.Giấy đăng ký xe (lần đầu hoặc cấp lại lần hai) và biển số xe đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo phân cấp cấp, do vậy việc bổ sung quy định cấm lập hồ sơ kê khai với nội dung là giả để được cấp lại giấy đăng ký xe cũng không ảnh hưởng gì đến phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Thứ hai, Tại điểm a khoản 2 Điều 79 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có quy định: “Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây: a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;”, căn cứ vào nội dung của quy định này có thể thấy rằng, do Luật Giao thông đường bộ năm 2008 không có quy định cấm chủ phương tiện lập hồ sơ kê khai là giả mạo để đề nghị cấp lại giấy đăng ký xe, nên khi Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn thi hành luật đó cũng không thể đặt ra quy định cấm, dù biết rằng hành vi đó tác động xấu đến công tác quản lý hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lưu trữ hồ sơ hợp pháp việc đăng ký phương tiện giao thông đường bộ, vì như thế là trái luật. Do vậy, tại điểm e khoản 5 Điều 30 Nghị định số 107/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 của Chính phủ, về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, cũng chỉ dừng lại ở việc quy định xử lý hành chính đối với hành vi này mà không đề cập đến việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm sang cơ quan cảnh sát điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp cố tình vi phạm với số lượng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của pháp luật hiện hành để xử lý hành chính người đã thực hiện hành vi này trên thực tế là điều không đơn giản. Cụ thể, theo quy định: “Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với cá nhân là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô, từ 4.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: …e) Khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, Giấy đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường”. Ngoài ra, tại điểm khoản 11 Điều 5 của Nghị định này có quy định: “Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: a) Thực hiện hành vi quy định tại Điểm b, Điểm d Khoản 3; Điểm b, Điểm e Khoản 5 Điều này bị tịch thu biển số, Giấy đăng ký xe (trường hợp đã được cấp lại), tịch thu hồ sơ, các loại giấy tờ, tài liệu giả mạo”. Với trường hợp sau khi được cấp lại giấy đăng ký xe (bằng hồ sơ kê khai giả) chủ phương tiện đã bán những xe đó cho người có nhu cầu mua xe, người mua xe cứ nghĩ mình mua tài sản là hoàn toàn hợp pháp nên chưa vội làm thủ tục đăng ký sang tên đổi chủ, mãi đến hơn 01 năm sau kể từ ngày mua, người mua xe mới đến cơ quan chức năng làm thủ tục trước bạ sang tên, thì sự việc mới bị phát hiện. Như vậy, tuy hành vi vi phạm pháp luật của phía bên bán xe đã rõ ràng, nhưng cơ quan chức năng cũng không thể căn cứ vào điểm e khoản 5 Điều 30 Nghị định 107/2014/NĐ-CP để xử phạt hành chính người lập hồ sơ kê khai giả, vì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính này là 01 năm (hết thời hiệu xử phạt).
Thứ ba, Điều 266 BLHS quy định về tội: “Sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức”, như sau:
1. Người nào sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. …”
-Khách thể cần bảo vệ tại Điều 266 BLHS đó là trật tự quản lý hành chính nhà nước, sự hoạt động bình thường và uy tín của cơ quan nhà nước, tổ chức. Ngoài ra, hành vi phạm tội còn xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức hoặc công dân. Đối tượng phạm tội ở đây là hộ chiếu, hộ khẩu hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức (giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy chứng minh, bằng lái xe,…)
-Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội có các hành vi như:
+Sữa chữa nội dung hộ chiếu, hộ khẩu hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật.
+Làm sai lệch nội dung hộ chiếu, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật.
Chỉ cần người phạm tội có một trong hai hành vi là “sửa chữa” hoặc “làm sai lệch” nội dung các đối tượng trên thì đã thỏa mãn dấu hiệu hành vi của tội phạm này. Chỉ cấu thành tội phạm này khi người phạm tội sau khi “sửa chữa” hoặc “làm sai lệch” đã sử dụng giấy tờ đó để thực hiện hành vi trái pháp luật và gây ra hậu quả nghiêm trọng . Nhưng hiểu thế nào là gây ra hậu quả nghiêm trọng trong cấu thành cơ bản của tội phạm này, hiện tại còn đang có nhiều ý kiến khác nhau, bởi do quy định tại Điều 266 BLHS mang tính định tính, hơn nữa, từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành cho đến nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa ban hành hướng dẫn cụ thể để áp dụng thống nhất quy định tại Điều 266 BLHS, nghĩa là hành vi cố tình làm sai lệch nội dung của bao nhiêu hộ chiếu, bao nhiêu hộ khẩu hoặc các loại giấy chứng nhận với số lượng bao nhiêu,…(định lương cụ thể) và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật thì mới xem là gây hậu quả nghiêm trọng, nên không thể áp đặt ý chí chủ quan của cơ quan thực thi pháp luật mà cho rằng, nếu một người (cơ quan, tổ chức) lập hồ sơ kê khai giả để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại từ ba giấy đăng ký xe ô tô hoặc mô tô trở lên là đã gây ra hậu quả nghiêm trọng! mà phải cần một văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thống nhất nhận thức và áp dụng trong thực tiễn của các cơ quan thực thi pháp luật về nội dung này là mới bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Bộ Công an đã ban hành các thông tư như: Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về đăng ký xe; Thông tư số 75/2011/TT-BCA ngày 17/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung điểm 3.1.7 khoản 3 Điều 7 Thông tư số 36/2010/TT-BCA quy định về đăng ký xe; Thông tư số 12/2013/TT-BCA ngày 01/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 20 Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2013 quy định về đăng ký xe; Thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 04/4/2014 của Bộ Công an quy định về đăng ký xe (thay thế cho các Thông tư trên), mà theo đó, tại khoản 1 và khoản 4 Điều 6 của Thông tư này có quy định về trách nhiệm của chủ xe: “1. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về đăng ký xe; có hồ sơ xe theo quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của xe và hồ sơ đăng ký xe;…”; “4. Nghiêm cấm mọi hành vi giả mạo hồ sơ, đục xóa số máy, số khung để đăng ký xe”. Như vậy, Thông tư số 15/2014/TT-BCA cũng chỉ dừng lại ở quy định “Nghiêm cấm mọi hành vi giả mạo hồ sơ,.. để đăng ký xe” mà chưa có quy định mang tính dẫn dắt, định hướng để đấu tranh có hiệu quả với hành vi vi phạm khá phổ biến này, nhất là trong tình hình hiện nay.
Từ những bất cập trên, rất mong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này, để công tác đấu tranh phòng chống hành vi vi phạm này có hiệu quả hơn.
Th.S Lê Văn Sua
Tòa án quân sự Khu vực 1 – QK9
7, Nguyễn Thị Thập, phường 6, Tp. Mỹ Tho – Tiền Giang
Lập hồ sơ kê khai giả để được cấp lại giấy đăng ký xe, còn nhiều bất cập trong xử lý
10/03/2015
Hiện nay không ít trường hợp sau khi hợp đồng mua, bán xe (ô tô, mô tô) được thực hiện trên thực tế, nghĩa là, bên mua xe đã giao đủ cho bên bán số tiền trị giá chiếc xe, đồng thời bên bán cũng giao cho bên mua đối tượng giao dịch là chiếc xe với đầy đủ các giấy tờ liên quan “hợp pháp” theo thỏa thuận ghi trong hợp đồng được công chứng, nhưng một thời gian sau bên mua mới “tá hỏa” khi biết giấy đăng ký của chiếc xe mà mình mua được Phòng Cảnh sát giao thông có thẩm quyền cấp lại (lần hai) từ hồ sơ kê khai là giả. Pháp luật hiện hành có quy định cấm hành vi làm giả hồ sơ đăng ký xe và cũng có quy định xử lý hành vi này bằng biện pháp hành chính hoặc hình sự. Tuy nhiên, vấn đề đang gặp vướng mắc của các cơ quan thực thi pháp luật hiện nay, đó là, việc xử phạt hành chính chủ xe trước đó (người lập hồ sơ kê khai giả) theo quy định của pháp luật còn bất cập; với định bao nhiêu hồ sơ kê khai được làm giả thì mới đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự người thực hiện hành vi làm giả hồ sơ đăng ký xe mô tô, ô tô theo quy định tại Điều 266 BLHS hiện hành.
Luật Giao thông đường bộ năm 2008 đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009, mà theo đó, tại Điều 8 có quy định các hành vi bị nghiêm cấm sau:
“1. Phá hoại đường, cầu, hầm, bến phà đường bộ, đèn tín hiệu, cọc tiêu, biển báo hiệu, gương cầu, dải phân cách, hệ thống thoát nước và các công trình, thiết bị khác thuộc kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
2. Đào, khoan, xẻ đường trái phép; đặt, để chướng ngại vật trái phép trên đường; đặt, rải vật nhọn, đổ chất gây trơn trên đường; để trái phép vật liệu, phế thải, thải rác ra đường; mở đường, đấu nối trái phép vào đường chính; lấn, chiếm hoặc sử dụng trái phép đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ; tự ý tháo mở nắp cống, tháo dỡ, di chuyển trái phép hoặc làm sai lệch công trình đường bộ.
3. Sử dụng lòng đường, lề đường, hè phố trái phép.
4. Đưa xe cơ giới, xe máy chuyên dùng không bảo đảm tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường tham gia giao thông đường bộ.
5. Thay đổi tổng thành, linh kiện, phụ kiện xe cơ giới để tạm thời đạt tiêu chuẩn kỹ thuật của xe khi đi kiểm định.
6. Đua xe, cổ vũ đua xe, tổ chức đua xe trái phép, lạng lách, đánh võng.
7. Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà trong cơ thể có chất ma túy.
8. Điều khiển xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn.
Điều khiển xe mô tô, xe gắn máy mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá 50 miligam/100 mililít máu hoặc 0,25 miligam/1 lít khí thở.
9. Điều khiển xe cơ giới không có giấy phép lái xe theo quy định.
Điều khiển xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ không có chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, bằng hoặc chứng chỉ điều khiển xe máy chuyên dùng.
10. Giao xe cơ giới, xe máy chuyên dùng cho người không đủ điều kiện để điều khiển xe tham gia giao thông đường bộ.
11. Điều khiển xe cơ giới chạy quá tốc độ quy định, giành đường, vượt ẩu.
12. Bấm còi, rú ga liên tục; bấm còi trong thời gian từ 22 giờ đến 5 giờ, bấm còi hơi, sử dụng đèn chiếu xa trong đô thị và khu đông dân cư, trừ các xe được quyền ưu tiên đang đi làm nhiệm vụ theo quy định của Luật này.
13. Lắp đặt, sử dụng còi, đèn không đúng thiết kế của nhà sản xuất đối với từng loại xe cơ giới; sử dụng thiết bị âm thanh gây mất trật tự an toàn giao thông, trật tự công cộng.
14. Vận chuyển hàng cấm lưu thông, vận chuyển trái phép hoặc không thực hiện đầy đủ các quy định về vận chuyển hàng nguy hiểm, động vật hoang dã.
15. Đe dọa, xúc phạm, tranh giành, lôi kéo hành khách; bắt ép hành khách sử dụng dịch vụ ngoài ý muốn; chuyển tải, xuống khách hoặc các hành vi khác nhằm trốn tránh phát hiện xe chở quá tải, quá số người quy định.
16. Kinh doanh vận tải bằng xe ô tô khi không đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh theo quy định.
17. Bỏ trốn sau khi gây tai nạn để trốn tránh trách nhiệm.
18. Khi có điều kiện mà cố ý không cứu giúp người bị tai nạn giao thông.
19. Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tài sản của người bị nạn và người gây tai nạn.
20. Lợi dụng việc xảy ra tai nạn giao thông để hành hung, đe dọa, xúi giục, gây sức ép, làm mất trật tự, cản trở việc xử lý tai nạn giao thông.
21. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp của bản thân hoặc người khác để vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ.
22. Sản xuất, sử dụng trái phép hoặc mua, bán biển số xe cơ giới, xe máy chuyên dùng.
23. Hành vi vi phạm quy tắc giao thông đường bộ, hành vi khác gây nguy hiểm cho người và phương tiện tham gia giao thông đường bộ.”
Để thi hành Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Chính phủ đã ban hành các nghị định hướng dẫn thi hành, trong đó có Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Thủ tướng Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, gần đây là Nghị định số 107/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, mà theo đó, Điều 30. Xử phạt chủ phương tiện vi phạm quy định liên quan đến giao thông đường bộ của Nghị định 171/2013/NĐ-CP được sửa đổi, bổ sung theo quy định tại điểm e khoản 5 của Nghị định 107/2014/NĐ-CP, như sau: “ 5. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với cá nhân là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô, từ 4.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: …e) Khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, Giấy đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường;
Ngoài ra, tại điểm khoản 11 Điều 5 của Nghị định này có quy định: “11. Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: a) Thực hiện hành vi quy định tại Điểm b, Điểm d Khoản 3; Điểm b, Điểm e Khoản 5 Điều này bị tịch thu biển số, Giấy đăng ký xe (trường hợp đã được cấp lại), tịch thu hồ sơ, các loại giấy tờ, tài liệu giả mạo;”
Bên cạnh đó, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 15/2015/TT-BCA ngày 04/4/2014 của Bộ Công an quy định về đăng ký xe, mà theo đó, tại Điều 6 của Thông tư này có quy định trách nhiệm của chủ xe, như sau:
“1. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về đăng ký xe; có hồ sơ xe theo quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của xe và hồ sơ đăng ký xe; đưa xe đến cơ quan đăng ký xe để kiểm tra và nộp lệ phí đăng ký, cấp biển số xe theo quy định.
Trường hợp chủ xe được cơ quan đăng ký xe trước đây giao quản lý một phần hồ sơ xe thì khi làm thủ tục cấp, đổi lại giấy chứng nhận đăng ký xe, biển số xe; sang tên, di chuyển xe; thu hồi giấy chứng nhận đăng ký, biển số xe phải nộp lại phần hồ sơ đó.
2. Ngay khi có quyết định điều chuyển, bán, cho, tặng xe, chủ xe phải thông báo bằng văn bản theo mẫu số 01 ban hành kèm theo Thông tư này đến cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký xe đó để theo dõi. Trường hợp chủ xe không thông báo thì tiếp tục phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về chiếc xe đó đến khi tổ chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe.
3. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm chứng từ chuyển quyền sở hữu xe, tổ chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe phải đến cơ quan đăng ký xe làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe.
4. Nghiêm cấm mọi hành vi giả mạo hồ sơ, đục xóa số máy, số khung để đăng ký xe.”
Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này như liệt kê trên, dễ thấy rằng, sở dĩ hiện nay đang tồn tại một thực trạng gây bức xúc trong nhân dân, đó là, còn có rất nhiều trường hợp chuyển nhượng, mà người mua đã mua phải xe với giấy đăng ký xe là thật (do Phòng Cảnh sát giao thông địa phương nơi quản lý cấp), hồ sơ do chủ phương tiện kê khai là giả, nhưng kết quả xử lý còn rất khiêm tốn, thậm chí nhiều trường hợp một người làm hồ sơ kê khai giả cùng một lúc 03 xe ô tô, khi bị phát hiện dù cơ quan chức năng cố gắng lắm cũng chỉ dừng lại việc thu hồi giấy đăng ký xe và biển số xe đã cấp không đúng, còn việc xử phạt người đã lập hồ sơ giả thì dường như là điều không thể, họ vắng mặt tại địa phương nơi cư trú hoặc ngay cả trường hợp người vi phạm vẫn ở tại địa phương nhưng cơ quan chức năng vẫn không thể tiến hành xử phạt hành chính họ được. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hệ quả trên là do các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này chưa đầy đủ và thiếu tính khả thi.
Trước hết, nhà làm luật đã không quy định trong luật chuyên ngành cấm việc chủ phương tiện giao thông chuyển nhượng phương tiện, mà họ đang thực hiện quyền sở hữu mà biết rõ giấy đăng ký phương tiện đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấptrên cơ sở hồ sơ kê khai là giả. Đây là một kẻ hở dễ bị lợi dụng để thực hiện hành vi trái pháp luật, bởi trên thực tế công tác quản lý dữ liệu của các cơ quan, đơn vị chức năng thuộc lực lượng cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt của Ngành công an chưa thật sự đồng bộ, nên mới xảy ra tình trạng giấy tờ gốc của xe ô tô, mô tô được chủ phương tiện đem thế chấp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự tại ngân hàng đã vay, nhưng chủ phương tiện vẫn cố tình “qua mặt” cơ quan chức năng tại địa phương nơi đã đăng ký lần đầu phương tiện đó, bằng việc lập hồ sơ đề nghị cấp lại giấy đăng ký xe, kèm theo đơn mất toàn bộ giấy tờ gốc của phương tiện đó nhằm để thực hiện hành vi lừa đảo. Có ý kiến cho rằng xuất phát từ đối tượng điều chỉnh của Luật Giao thông đường bộ là các quy định về quy tắc giao thông đường bộ; kết cấu hạ tầng giao thông, phương tiện và người giao thông đường bộ; vận tải đường bộ và quản lý nhà nước về giao thông đường bộ, nên Luật này không quy định cụ thể việc “cấm lập hồ sơ kê khai giả để cấp lại giấy đăng ký xe” là phù hợp. Nhưng người viết thấy rằng, nghiên cứu khoản 22 của Điều 8 Luật này, có quy định cấm: “ Sản xuất, sử dụng trái phép hoặc mua, bán biển số xe cơ giới, xe máy chuyên dùng”.Giấy đăng ký xe (lần đầu hoặc cấp lại lần hai) và biển số xe đều do cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo phân cấp cấp, do vậy việc bổ sung quy định cấm lập hồ sơ kê khai với nội dung là giả để được cấp lại giấy đăng ký xe cũng không ảnh hưởng gì đến phạm vi điều chỉnh của Luật này.
Thứ hai, Tại điểm a khoản 2 Điều 79 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, có quy định: “Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với các trường hợp sau đây: a) Quy định trách nhiệm pháp lý mới đối với hành vi mà vào thời điểm thực hiện hành vi đó pháp luật không quy định trách nhiệm pháp lý;”, căn cứ vào nội dung của quy định này có thể thấy rằng, do Luật Giao thông đường bộ năm 2008 không có quy định cấm chủ phương tiện lập hồ sơ kê khai là giả mạo để đề nghị cấp lại giấy đăng ký xe, nên khi Chính phủ ban hành nghị định hướng dẫn thi hành luật đó cũng không thể đặt ra quy định cấm, dù biết rằng hành vi đó tác động xấu đến công tác quản lý hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về lưu trữ hồ sơ hợp pháp việc đăng ký phương tiện giao thông đường bộ, vì như thế là trái luật. Do vậy, tại điểm e khoản 5 Điều 30 Nghị định số 107/2014/NĐ-CP ngày 17/11/2014 của Chính phủ, về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 171/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, cũng chỉ dừng lại ở việc quy định xử lý hành chính đối với hành vi này mà không đề cập đến việc chuyển hồ sơ vụ việc vi phạm sang cơ quan cảnh sát điều tra để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những trường hợp cố tình vi phạm với số lượng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên, việc áp dụng quy định của pháp luật hiện hành để xử lý hành chính người đã thực hiện hành vi này trên thực tế là điều không đơn giản. Cụ thể, theo quy định: “Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với cá nhân là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô, từ 4.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với tổ chức là chủ xe ô tô, máy kéo, xe máy chuyên dùng và các loại xe tương tự xe ô tô thực hiện một trong các hành vi vi phạm sau đây: …e) Khai báo không đúng sự thật hoặc sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả để được cấp lại biển số, Giấy đăng ký xe, Giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường”. Ngoài ra, tại điểm khoản 11 Điều 5 của Nghị định này có quy định: “Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm còn bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung sau đây: a) Thực hiện hành vi quy định tại Điểm b, Điểm d Khoản 3; Điểm b, Điểm e Khoản 5 Điều này bị tịch thu biển số, Giấy đăng ký xe (trường hợp đã được cấp lại), tịch thu hồ sơ, các loại giấy tờ, tài liệu giả mạo”. Với trường hợp sau khi được cấp lại giấy đăng ký xe (bằng hồ sơ kê khai giả) chủ phương tiện đã bán những xe đó cho người có nhu cầu mua xe, người mua xe cứ nghĩ mình mua tài sản là hoàn toàn hợp pháp nên chưa vội làm thủ tục đăng ký sang tên đổi chủ, mãi đến hơn 01 năm sau kể từ ngày mua, người mua xe mới đến cơ quan chức năng làm thủ tục trước bạ sang tên, thì sự việc mới bị phát hiện. Như vậy, tuy hành vi vi phạm pháp luật của phía bên bán xe đã rõ ràng, nhưng cơ quan chức năng cũng không thể căn cứ vào điểm e khoản 5 Điều 30 Nghị định 107/2014/NĐ-CP để xử phạt hành chính người lập hồ sơ kê khai giả, vì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính này là 01 năm (hết thời hiệu xử phạt).
Thứ ba, Điều 266 BLHS quy định về tội: “Sửa chữa, sử dụng giấy chứng nhận và các tài liệu của cơ quan, tổ chức”, như sau:
1. Người nào sửa chữa, làm sai lệch nội dung hộ chiếu, thị thực, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm.
2. …”
-Khách thể cần bảo vệ tại Điều 266 BLHS đó là trật tự quản lý hành chính nhà nước, sự hoạt động bình thường và uy tín của cơ quan nhà nước, tổ chức. Ngoài ra, hành vi phạm tội còn xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức hoặc công dân. Đối tượng phạm tội ở đây là hộ chiếu, hộ khẩu hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức (giấy chứng nhận đăng ký xe, giấy chứng minh, bằng lái xe,…)
-Mặt khách quan của tội phạm: Người phạm tội có các hành vi như:
+Sữa chữa nội dung hộ chiếu, hộ khẩu hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật.
+Làm sai lệch nội dung hộ chiếu, hộ khẩu, hộ tịch hoặc các loại giấy chứng nhận và tài liệu khác của cơ quan, tổ chức và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật.
Chỉ cần người phạm tội có một trong hai hành vi là “sửa chữa” hoặc “làm sai lệch” nội dung các đối tượng trên thì đã thỏa mãn dấu hiệu hành vi của tội phạm này. Chỉ cấu thành tội phạm này khi người phạm tội sau khi “sửa chữa” hoặc “làm sai lệch” đã sử dụng giấy tờ đó để thực hiện hành vi trái pháp luật và gây ra hậu quả nghiêm trọng . Nhưng hiểu thế nào là gây ra hậu quả nghiêm trọng trong cấu thành cơ bản của tội phạm này, hiện tại còn đang có nhiều ý kiến khác nhau, bởi do quy định tại Điều 266 BLHS mang tính định tính, hơn nữa, từ khi BLHS năm 1999 có hiệu lực thi hành cho đến nay, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa ban hành hướng dẫn cụ thể để áp dụng thống nhất quy định tại Điều 266 BLHS, nghĩa là hành vi cố tình làm sai lệch nội dung của bao nhiêu hộ chiếu, bao nhiêu hộ khẩu hoặc các loại giấy chứng nhận với số lượng bao nhiêu,…(định lương cụ thể) và sử dụng giấy tờ đó thực hiện hành vi trái pháp luật thì mới xem là gây hậu quả nghiêm trọng, nên không thể áp đặt ý chí chủ quan của cơ quan thực thi pháp luật mà cho rằng, nếu một người (cơ quan, tổ chức) lập hồ sơ kê khai giả để được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp lại từ ba giấy đăng ký xe ô tô hoặc mô tô trở lên là đã gây ra hậu quả nghiêm trọng! mà phải cần một văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thống nhất nhận thức và áp dụng trong thực tiễn của các cơ quan thực thi pháp luật về nội dung này là mới bảo đảm tính pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, thực hiện quy định tại khoản 2 Điều 54 Luật Giao thông đường bộ năm 2008, Bộ Công an đã ban hành các thông tư như: Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2010 của Bộ trưởng Bộ Công an quy định về đăng ký xe; Thông tư số 75/2011/TT-BCA ngày 17/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung điểm 3.1.7 khoản 3 Điều 7 Thông tư số 36/2010/TT-BCA quy định về đăng ký xe; Thông tư số 12/2013/TT-BCA ngày 01/3/2013 của Bộ trưởng Bộ Công an sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 20 Thông tư số 36/2010/TT-BCA ngày 12/10/2013 quy định về đăng ký xe; Thông tư số 15/2014/TT-BCA ngày 04/4/2014 của Bộ Công an quy định về đăng ký xe (thay thế cho các Thông tư trên), mà theo đó, tại khoản 1 và khoản 4 Điều 6 của Thông tư này có quy định về trách nhiệm của chủ xe: “1. Chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về đăng ký xe; có hồ sơ xe theo quy định và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính hợp pháp của xe và hồ sơ đăng ký xe;…”; “4. Nghiêm cấm mọi hành vi giả mạo hồ sơ, đục xóa số máy, số khung để đăng ký xe”. Như vậy, Thông tư số 15/2014/TT-BCA cũng chỉ dừng lại ở quy định “Nghiêm cấm mọi hành vi giả mạo hồ sơ,.. để đăng ký xe” mà chưa có quy định mang tính dẫn dắt, định hướng để đấu tranh có hiệu quả với hành vi vi phạm khá phổ biến này, nhất là trong tình hình hiện nay.
Từ những bất cập trên, rất mong các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề này, để công tác đấu tranh phòng chống hành vi vi phạm này có hiệu quả hơn.
Th.S Lê Văn Sua
Tòa án quân sự Khu vực 1 – QK9
7, Nguyễn Thị Thập, phường 6, Tp. Mỹ Tho – Tiền Giang