Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử phúc thẩm, vướng mắc, kiến nghị hoàn thiện

03/03/2015

Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (viết tắt là BLTTHS) về xét xử phúc thẩm (viết tắt là XXPT) tương đối đầy đủ góp phần quan trọng vào hiệu quả trong công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm trong thời gian qua; tránh oan sai, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân. Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng trong thực tiễn, một số quy định của BLTTHS về XXPT tỏ ra lạc hậu, nhiều quy định của BLTTHS đã bộc lộ nhiều bất cập, vướng mắc như quy định về phạm vi XXPT, về bổ sung, thay đổi và rút kháng cáo, kháng nghị; thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm (HĐXXPT), xác định tư cách người tham gia tố tụng ở giai đoạn XXPT... Các bất cập này ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động xét xử của Tòa án, không bảo vệ kịp thời lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Cùng với xu hướng chung của công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra là “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”[1] thì việc tìm hiểu quy định của BLTTHS về XXPT, làm rõ một số bất cập trong các quy định của BLTTHS về XXPT từ đó nêu lên các kiến nghị hoàn thiện sẽ góp phần là vô cùng cần thiết, làm cho các quy định của BLTTHS sát với thực tiễn, nâng cao công tác giải quyết các vụ án hình sự (VAHS) tại Tòa án cấp phúc thẩm.

Trong phạm vi bài viết này, tác giả lần lượt trình bày quy định của BLTTHS về XXPT, nêu lên những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự và kiến nghị hoàn thiện.

1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về xét xử phúc thẩm

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của xét xử phúc thẩm trong tố tụng hình sự

Xét xử phúc thẩm VAHS là một giai đoạn tố tụng hình sự, trong đó Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị nhằm kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (TACST).

Theo quy định tại Điều 230 BLTTHS, tính chất của XXPT được xác định “là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị”. Từ quy định này có thể hiểu, trong quá trình giải quyết VAHS, để xuất hiện giai đoạn XXPT thì bản án hoặc quyết định của TACST phải có kháng cáo, kháng nghị và phạm vi bản án bị kháng cáo, kháng nghị cũng là căn cứ để xác định phạm vi XXPT. Điều này cũng khẳng định không phải VAHS nào cũng trải qua hai cấp xét xử mà chỉ những vụ án sau khi có bản án, quyết định của TACST bị kháng cáo, kháng nghị đúng theo quy định của pháp luật. Quy định tại Điều 230 BLTTHS cũng đã khẳng định XXPT là cấp xét xử thứ hai, khắc hẳn với thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chỉ là thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Đây cũng là một trong những quy định cụ thể hóa một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS (nguyên tắc hai cấp xét xử) được quy định tại khoản 1 Điều 20 BLTTHS. Đó là, “Toà án thực hiện chế độ hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo quy định của Bộ luật này. Bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn do Bộ luật này quy định thì có hiệu lực pháp luật. Đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vụ án phải được XXPT. Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật”.

Việc xác định XXPT là cấp xét xử thứ hai sau xét xử sơ thẩm có ý nghĩa quan trọng để cụ thể hóa các nội dung có liên quan đến thủ tục tố tụng như: trình tự, thủ tục tiến hành giai đoạn chuẩn bị xét xử, tiến hành phiên tòa phúc thẩm, thẩm quyền của cấp XXPT …

Từ các phân tích trên, có thể nêu lên khái niệm về XXPT như sau: “XXPT là việc Tòa án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án và quyết định của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo, kháng nghị theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định”.

Qua đó, có thể xác định XXPT có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, Tòa án cấp phúc thẩm (TACPT) không chỉ kiểm tra việc tuân theo yêu cầu của pháp luật trong khi xét xử của Tòa án cấp dưới, mà còn kiểm tra tính đúng đắn của các tình tiết thực tế được xác định trong bản án, tức là đồng thời kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án,

Thứ hai, đối tượng của XXPT chỉ có thể là những vụ án mà bản án (quyết định) sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.

Thứ ba, XXPT chỉ có thể được tiến hành khi có kháng cáo của những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 231 BLTTHS, hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 232 BLTTHS.

Thứ tư, TACPT không bị ràng buộc bởi những lý do kháng cáo hoặc kháng nghị mà kiểm tra toàn bộ vụ án đối với tất cả những người bị kết án, kể cả những người không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị trong giới hạn do BLTTHS quy định.

Thứ năm, chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong XXPT bao gồm: TACPT, Viện kiểm sát cấp phúc thẩm; những người có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật; những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và những người tham gia tố tụng khác mà TACPT thấy cần thiết triệu tập tham gia phiên tòa.

Thứ sáu, phiên tòa phúc thẩm có một số đặc thù phù hợp với cấp XXPT như: khi khai mạc phiên toà, Thẩm phán - Chủ tọa phiên toà không phải đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử; trước khi tiến hành xét hỏi; việc công bố Cáo trạng của kiểm sát viên được thay thế bằng việc một thành viên HĐXXPT tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo, kháng nghị; việc luận tội của kiểm sát viên ở phần tranh luận được thay thế bằng việc trình bày kết luận của đại diện Viện kiểm sát.

Thứ bảy, XXPT có những đặc điểm đặc trưng trong các quan hệ pháp luật tố tụng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng như: giữa TACST và TACPT (trong việc thông báo kháng cáo, kháng nghị; xác minh lý do kháng cáo quá hạn...) giữa Viện kiểm sát cấp sơ thẩm và Viện kiểm sát cấp phúc thẩm (trong việc kháng nghị bản án sơ thẩm); TACPT và Viện kiểm sát cấp phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án...

Thứ tám, khi XXPT, những người tham gia tố tụng liên quan đến kháng cáo, kháng nghị có quyền bổ sung thêm tài liệu, chứng cứ. Chủ thể kháng cáo, kháng nghị không chỉ viện dẫn những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án mà còn được xuất trình những tài liệu mới chưa được xem xét tại TACST. Bản án của TACPT phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới.

Với khái niệm và những đặc điểm được xác định bên trên, xét xử phúc thẩm VAHS có các vai trò sau:

Trong tố tụng hình sự, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự góp phần quan trọng vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án hình sự; bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mọi tổ chức, cá nhân.

XXPT còn có vai trò quan trọng trong việc giáo dục nâng cao ý thức pháp luật cho công dân, ý thức tuân thủ pháp luật và chủ động tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm. Thông qua xét hỏi, tranh luận trước phiên toà và bản án được tuyên công khai, Toà án giúp cho những người tham dự phiên toà nâng cao ý thức pháp luật, biết được những gì là trái pháp lu ật, những gì là hợp pháp...và qua đó nhìn nhận pháp luật đúng đắn, tuân thủ pháp luật và tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm.

Thông qua xét xử các vụ án, TACPT hướng dẫn cho các Tòa án cấp dưới và các cơ quan tiến hành tố tụng khác trong việc nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật; góp phần nâng cao chất lượng xét xử các VAHS.

1.2. Trình tự, thủ tục tiến hành kháng cáo, kháng nghị

Trình tự, thủ tục kháng cáo, kháng nghị được xem là hợp pháp khi đảm các quy định của BLTTHS bao gồm: Điều 231 (những người có quyền kháng cáo); Điều 232 (Kháng nghị của Viện kiểm sát); Điều 233 (Thủ tục kháng cáo và kháng nghị); Điều 234 (Thời hạn kháng cáo, kháng nghị). Đối với kháng cáo quá hạn phải tuân thủ thêm quy định tại Điều 235 BLTTHS. Tuy nhiên, cần lưu ý, BLTTHS cũng như mục 5 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “XXPT” của BLTTHS (viết tắt là Nghị quyết số 05/2005) chỉ hướng dẫn xét kháng cáo quá hạn không quy định xét kháng nghị quá hạn. Vì vậy, trong trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp không kháng cáo nhưng Viện kiểm sát cấp trên kháng cáo quá hạn vì bất cứ lý do gì (như: nhận được bản án trể, gửi quyết định kháng nghị qua đường bưu điện đến TACST trể…) cũng không được chấp nhận. Bởi vì, việc kháng nghị quá hạn không chỉ liên quan đến hoạt động xét xử của TACST mà còn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng. Không thể vì sai sót của cơ quan tiến hành tố tụng mà buộc người tham gia tố tụng phải gánh chịu[2]. Trong trường hợp đó, TACST cần ban hành văn bản trả lại cho Viện kiểm sát.

Đối với kháng cáo, kháng nghị hợp pháp thì TACST phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát và những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 236 BLTTHS. TACST phải chuyển hồ sơ cho TACPT đối với những kháng cáo, kháng nghị hợp pháp theo quy định tại khoản 2 Điều 237 BLTTHS. Trong trường hợp hết kháng cáo, kháng nghị mà TACST đã ban hành Quyết định thi hành án đối với bị cáo bị phạt tù sau đó có kháng cáo về hình phạt đối với bị cáo được xác định là hợp pháp thì thông báo kháng cáo hợp lệ của TACST sẽ làm mất hiệu lực của quyết định thi hành án của Chánh án TACST.[3]

Việc bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị phải tuân thủ quy định tại Điều 238 BLTTHS. Cụ thể, trước khi bắt đầu hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo; rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị. Trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc XXPT phải được đình chỉ. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ việc XXPT. Đối với việc kháng cáo, kháng nghị quyết định của TACST thì việc kháng cáo, kháng nghị phải tuân thủ quy định tại Điều 239 BLTTHS. Ngoài ra, việc tiến hành kháng cáo, kháng nghị còn phải tuân thủ quy định tại các mục 1, 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Phần I Nghị quyết số 05/2005.

1.3. Phạm vi xét xử phúc thẩm

Phạm vi XXPT có thể hiểu là giới hạn nội dung những vấn đề mà TACPT có thể xem xét, quyết định[4]. Việc quy định phạm vi XXPT có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đảm bảo tính ổn định của bản án sơ thẩm. Theo quy định tại Điều 241 BLTTHS thì phạm vi XXPT được xác định là việc “TACPT xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì TACPT có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án.”

Từ quy định trên, có thể thấy, trước tiên, TACPT phải xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị trước, nếu thấy cần thiết thì mới xem xét đến phần không bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị của TACPT không bị hạn chế bởi việc quyết định theo hướng có lợi cho người bị kháng cáo (chấp nhận kháng cáo) hoặc theo hướng kháng nghị của Viện kiểm sát (chấp nhận kháng nghị) mà có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản của BLHS về tội nhẹ hơn, giảm bồi thường, miễn hình phạt … thậm chí tuyên bố bị cáo không phạm tội hoặc cũng có thể tăng hình phạt, áp dụng điều khoản của BLHS về tội nặng hơn, tăng mức bồi thường … nếu có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó. Tuy nhiên, BLTTHS lại không quy định thế nào là trường hợp “cần thiết” cho nên có thể vận dụng hướng dẫn tại mục 4 phần VI Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 8/12/1988 của Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong BLTTHS, “trường hợp cần thiết là trường hợp ở phần không bị kháng cáo hoặc kháng nghị có điểm cần được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”. Mặc dù, được xem xét hầu như toàn bộ nội dung vụ án nhưng khi quyết định thì HĐXXPT chỉ được quyết định theo hướng không làm xấu đi tình trạng của bất cứ ai[5].

TACPT chỉ xem xét những phần mà bị kháng cáo, kháng nghị đúng trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Đối với những phần không bị kháng cáo, kháng nghị, TACPT chỉ xem xét đối với những nội dung có thể dẫn đến việc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Đối với vấn đề bồi thường thiệt hại (vấn đề dân sự trong VAHS), TACPT không được xem xét nếu không có kháng cáo, kháng nghị mặc dù có cơ sở để giảm mức bội thường thiệt hại. Ngoài ra, TACPT còn có quyền xem xét về phần thủ tục tố tụng trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng ngay cả khi không có kháng cáo, kháng nghị.

Như vậy, có thể thấy, phạm vi XXPT rất quan trọng vì chúng là cơ sở để HĐXXPT giải quyết các nội dung liên quan đến vụ án. Nhìn một cách tổng quát, phạm vi XXPT chỉ bị giới hạn bởi quy định của pháp luật như phân tích bên trên.

1.4. Thẩm quyền xét xử phúc thẩm

Xuất phát từ quy định về tính chất của XXPT tại Điều 230 BLTTHS là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xem xét lại quyết định sơ thẩm của Tòa án cấp dưới cho nên để xác định được thẩm quyền của Tòa án cần làm rõ nhưng Tòa án nào được xét xử sơ thẩm và Tòa án nào được xác định là Tòa án cấp trên. Theo quy định tại Điều 170 BLTTHS, Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm bao gồm: Tòa án nhân dân (TAND) cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực; TAND cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu. Tuy nhiên, BLTTHS lại không quy định rõ Tòa án nào được xác định là Tòa án cấp trên của các Tòa án này. Cho nên, cần xem xét về cơ cấu tổ chức của hệ thống TAND và Tòa án quân sự để xác định. Theo quy định tại Điều 20 và Điều 28 Luật Tổ chức TAND năm 2002 và Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự năm 2002 thì Tòa án cấp trên của Tòa án được xét xử sơ thẩm VAHS được xác định như sau:

- TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền XXPT những vụ án mà bản án, quyết định của TAND cấp huyện bị kháng cáo, kháng nghị;

- Tòa án quân sự quân khu có thẩm quyền XXPT những vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án quân sự khu vực bị kháng cáo, kháng nghị;

- Các Tòa phúc thẩm TAND tối cao (hiện nay, được đặt ở thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẳng và thành phố Hồ Chí Minh) có thẩm quyền XXPT những vụ án mà bản án, quyết định của TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương bị kháng cáo, kháng nghị;

- Tòa án quân sự trung ương có có thẩm quyền XXPT những vụ án mà bản án, quyết định của Tòa án quân sự quân khu bị kháng cáo, kháng nghị.

Như vậy, ngoài các Tòa án có thẩm quyền XXPT bên trên thì không còn Tòa án nào khác có thẩm quyền XXPT VAHS.

1.5. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng chế Nhà nước được quy định trong BLTTHS do cơ quan hoặc người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội khi có căn cứ do pháp luật quy định nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hoặc không cho người bị tình nghi tiếp tục phạm tội mới.

Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS, biện pháp ngăn chặn bao gồm: bắt người; tạm giữ; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Trong đó, biện pháp bắt người bao gồm: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; bắt người trong trường hợp khẩn cấp; bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Tuy nhiên, trong các biện pháp ngăn chặn này, TACPT nói riêng, Tòa án nói chung chỉ có thể áp dụng các biện pháp: bắt bị can, bị cáo để tạm giam; tạm giam; cấm đi khỏi nơi cư trú; bảo lĩnh; đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm. Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn ở giai đoạn XXPT phải tuân thủ trình tự, thủ tục được quy định tại Chương VI – Các biện pháp ngăn chặn của BLTTHS. Trong giai đoạn XXPT VAHS có hai thời điểm áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn là trước và sau khi tuyên án phúc thẩm.

Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn trước khi tuyên án (trong giai đoạn chuẩn bị XXPT) được quy định tại khoản 1 và 2 Điều 243 BLTTHS như sau: Sau khi nhận hồ sơ vụ án, TACPT có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Đối với biện pháp tạm giam, việc áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ do Chánh án, Phó Chánh án TAND cấp tỉnh, Toà án quân sự cấp quân khu, Thẩm phán giữ chức vụ Chánh toà, Phó Chánh toà Toà phúc thẩm TAND tối cao quyết định. Thời hạn tạm giam không được quá thời hạn chuẩn bị XXPT được quy định tại Điều 243 BLTTHS. Cụ thể, không quá sáu mươi ngày đối với bị cáo trong vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu; chín mươi ngày đối với bị cáo trong vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Toà phúc thẩm TAND tối cao, Tòa án quân sự trung ương, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Toà án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.

Việc áp dụng, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn sau khi tuyên án được quy định tại khoản 3 Điều 243 và khoản 5 Điều 250  BLTTHS như sau: Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, HĐXX ra quyết định tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án, trừ trường hợp: bị cáo bị xử phạt tù, nhưng được hưởng án treo; thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn bị cáo đã bị tạm giam. Đối với bị cáo không bị tạm giam, nhưng bị xử phạt tù thì HĐXX có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo ngay sau khi tuyên án, trừ các trường hợp được hoãn  chấp hành hình phạt tù quy định tại Điều 261 của BLTTHS. Thời hạn tạm giam là bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, HĐXXPT ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.

1.6. Thời hạn xét xử phúc thẩm

Thời hạn XXPT có thể hiểu là khoản thời gian từ khi TACPT nhận được hồ sơ vụ án do TACST chuyển đến cho đến khi mở phiên tòa phúc thẩm.

Theo quy định tại Điều 242 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 1 Phần II Nghị quyết số 05/2005 thì TAND cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên toà phúc thẩm trong thời hạn sáu mươi ngày; Tòa phúc thẩm TAND tối cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn chín mươi ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án. Chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày mở phiên toà, Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm XXPT vụ án.

Toà án cấp phúc thẩm không phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử mà chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày mở phiên toà phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm XXPT vụ án. Việc thông báo được thực hiện như sau:

- Đối với Viện kiểm sát, Toà án cấp phúc thẩm có công văn gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, trong đó ghi cụ thể vụ án (hoặc các vụ án) được đưa ra XXPT; thời gian, địa điểm XXPT từng vụ án cụ thể. Trong trường hợp có nhiều vụ án thì có thể lập lịch xét xử cụ thể đối với các vụ án và gửi lịch xét xử này kèm theo công văn cho Viện kiểm sát. Việc nghiên cứu hồ sơ của Viện kiểm sát cùng cấp được thực hiện theo quy định tại các mục 1, 2 và 3 Nghị quyết số 05/2005.

- Đối với những người tham gia tố tụng, Toà án cấp phúc thẩm chỉ phải thông báo cho người tham gia tố tụng quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 245 của BLTTHS. Việc thông báo được thực hiện bằng giấy triệu tập tham gia phiên toà của Toà án cấp phúc thẩm.

1.7. Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm và những người tham gia phiên tòa phúc thẩm

1.7.1. Về thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm:

Điều 244 BLTTHS quy định: “HĐXXPT gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có thêm hai Hội thẩm.” Việc quy định HĐXXPT phải có ba Thẩm phán xuất phát từ tính chất của XXPT là việc xét lại bản án, quyết định của TACST chưa có hiệu lực, có kháng cáo, kháng nghị nên cần phải có một tập thể có kiến thức pháp lý vững chắc, có kinh nghiệm trong việc kinh qua giải quyết các VAHS nhằm đánh giá tính có căn cứ của bản án, quyết định bị kháng cáo, kháng nghị.

Bên cạnh ba Thẩm phán, trong thành phần HĐXXPT còn có hai Hội thẩm tham gia. Tuy nhiên, việc tham gia của Hội thẩm không phải mọi trường hợp mà chỉ trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, cần lưu ý, theo quy định của Luật Tổ chức TAND năm 2002 và Pháp lệnh Tổ chức Tòa án quân sự năm 2002, Hội thẩm nhân dân không được quy định ở cấp TAND tối cao và Hội thẩm quân nhân không được quy định ở cấp Tòa án quân sự trung ương.

Ngoài ra, để thành phần HĐXXPT tham gia giải quyết vụ án đúng quy định thì họ phải không thuộc các trường hợp phải từ chối, thay đổi theo quy định tại Điều 42 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 4, mục 6 Phần I Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP ngày 02/10/2004 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 (được viết tắt là Nghị quyết số 03/2004).

1.7.2. Về những người tham gia phiên tòa phúc thẩm:

Theo quy định tại Điều 245 BLTTHS, mục 3 phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP, những người tham gia phiên tòa phúc thẩm bao gồm: Người tiến hành tố tụng (Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp) và người tham gia tố tụng (người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị) và người khác mà TACPT thấy cần thiết, triệu tập họ.

Đối với Kiểm sát viên Viện Kiểm sát cùng cấp, khoản 1 Điều 245 BLTTHS quy định, “Tại phiên tòa phúc thẩm, sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp là bắt buộc, nếu Kiểm sát viên vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa”. Cũng như thành viên HĐXXPT, Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phúc thẩm phải không thuộc trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi theo quy định tại Điều 42, Điều 45 BLTTHS và hướng dẫn tại mục 4 và mục 5 Phần I Nghị quyết số 03/2004/NQ-HĐTP.

Đối với người tham gia phiên tòa phúc thẩm là người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị được triệu tập tham gia phiên tòa, khoản 2 Điều 245 BLTTHS quy định họ phải tham gia phiên tòa. Nếu có người vắng mặt mà có lý do chính đáng thì HĐXX có thể vẫn tiến hành xét xử nhưng không được ra bản án hoặc quyết định không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự vắng mặt. Trong các trường hợp khác thì phải hoãn phiên tòa.

Thời hạn hoãn phiên tòa theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 245 hoặc tại các Điều 45, 46, và 47 của BLTTHS thì không được quá ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định hoãn phiên tòa.

Đối với những người khác không phải là Kiểm sát viên và người tham gia tố tụng bên trên, khoản 3 Điều 245 BLTTHS trao quyền quyết định cho TACPT quyết định, nếu xét thấy sự có mặt của họ là cần thiết thì TACPT triệu tập họ tham gia phiên tòa.

Ngoài ra, việc xác định trường hợp nào được xem là triệu tập hợp lệ người tham gia tố tụng, người khác tham gia phiên tòa; trường hợp nào người tham gia tố tụng, người khác được triệu tập vắng mặt mà Tòa án tiếp tục xét xử vắng mặt họ hoặc phải hoãn phiên tòa; trường hợp nào được xem là bản án, quyết định của TACPT bất lợi hay không bất lợi cho những người tham gia tố tụng vắng mặt được hướng dẫn cụ thể tại mục 3 Phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP.

1.8. Việc xem xét, bổ sung chứng cứ tại phiên tòa phúc thẩm

Điều 246 BLTTHS quy định, trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị; người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật. Chứng cứ cũ, chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa. Bản án của TACPT phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và mới.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 64 BLTTHS thì “Chứng cứ là những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án”. Trong khi đó, nguồn chứng cứ được xác định tại khoản 2 Điều 64 BLTTHS bao gồm: Vật chứng; lời khai của người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; kết luận giám định; biên bản về hoạt động điều tra, xét xử và các tài liệu, đồ vật khác. Qua các quy định này thấy rằng, nguồn chứng cứ rất đa dạng cho nên việc thu thập chưa đầy đủ trong giai đoạn điều tra, truy tố là điều khó tránh khỏi. Ngoài ra, một số loại chứng cứ phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người cung cấp như lời khai của người bị hại, người làm chứng … nên trong một số trường hợp hợp các lời khai được cung cấp có sai sự thật và điều này càng đòi hỏi phải xác định đúng sự thật, dễ phát sinh chứng cứ mới. Mặc dù, ở giai đoạn xét xử sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát, những người tham gia tố tụng phải cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho lập luận của mình. Tuy nhiên, vì nhiều lý do có thể là chủ quan, cũng có thể là khách quan thì một số chứng cứ chưa được cung cấp đầy đủ cho Tòa án hoặc chưa được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thu thập đầy đủ. Sau khi có kết quả xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát, người tham gia tố tụng mới có được các chứng cứ có liên quan đến vụ án. Cho nên, việc quy định cho Viện kiểm sát, người tham gia tố tụng cung cấp thêm chứng cứ mới góp phần giúp hoạt động xét xử của TACPT đánh giá được hoạt động xét xử của TACST có đảm bảo tính có căn cứ, hợp pháp hay không và góp phần quan trọng vào việc làm rõ sự thật khách quan của vụ án.

Tuy nhiên, việc bổ sung chứng cứ mới ở giai đoạn XXPT phải đảm bảo đúng quy định của BLTTHS về việc xác định chứng cứ, thu thập, bảo quản chứng cứ … Chứng cứ chỉ được xác định là chứng cứ mới nếu chứng cứ đó chưa được thu thập ở giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, khi được cung cấp chứng cứ mới nhưng khi đánh giá chứng cứ tại phiên tòa, HĐXXPT phải xem xét toàn diện các chứng cứ kể cả chứng cứ cũ và chứng cứ mới. BLTTHS không có quy định cụ thể về hình thức mà Tòa án phải áp dụng để yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ mới; các cơ quan tiến hành tố tụng cũng chưa có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này. Tuy nhiên, để đảm bảo công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án thì trong trường hượp cần bổ sung thêm chứng cứ ở giai đoạn XXPT và TACPT xét thấy Viện kiểm sát có thể bổ sung được thì TACPT cần làm công văn yêu cầu Viện kiểm sát bồ sung chứng cứ, trong đó cần nêu rõ đó là những chứng cứ về vấn đề gì[6].

1.9. Thủ tục phiên tòa phúc thẩm

Khác với quy định về phiên tòa sơ thẩm được BLTTHS quy định chi tiết về từng hoạt động cần phải tiến hành trong từng phần thủ tục tại phiên tòa, Điều 247 BLTTHS quy định về phiên tòa phúc thẩm mang tính dẫn chiếu đến các quy định của BLTTHS về phiên tòa sơ thẩm nhưng có bổ sung mốt số đặt thù của phiên tòa phúc thẩm. Cụ thể, “Phiên tòa phúc thẩm cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nhưng trước khi xét hỏi, một thành viên của HĐXX phải trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo hoặc kháng nghị. Khi tranh luận, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án”.

Cụ thể hơn, tại mục 4 Phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP đã hướng dẫn, phiên toà phúc thẩm cũng tiến hành như phiên toà sơ thẩm. Nếu quy định về XXPT của BLTTHS không có quy định khác, thì khi tiến hành phiên toà phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm phải thực hiện đúng các quy định tương ứng về phiên toà sơ thẩm tại Chương XVIII, XIX, XX, XXI và XXII của BLTTHS và hướng dẫn tại các phần II, III, IV Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP. Khi bắt đầu phiên toà, thay cho việc đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, chủ toạ phiên toà khai mạc phiên toà. Lời khai mạc của chủ toạ phiên toà. Trước khi bắt đầu xét hỏi thay cho việc đọc bản cáo trạng, một thành viên của HĐXX trình bày tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo, kháng nghị.

1.10. Thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm

Theo quy định tại khoản 2 Điều 248, Điều 249, Điều 250, Điều 251, Điều 252 BLTTHS thì HĐXXPT có quyền: (1) Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; (2) Sửa bản án sơ thẩm; (3) Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; (4) Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Tùy từng trường hợp mà HĐXXPT có thể ra một trong các quyết định này hoặc có thể ra nhiều quyết định khác nhau trong cùng vụ án.

*  Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm

Không như quy định về trường hợp sửa án sơ thẩm, hủy bản án sơ thẩm, BLTTHS không quy định căn cứ để HĐXXPT áp dụng khi quyên không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử thể hiện, HĐXXPT tuyên nội dung này khi kháng cáo của người tham gia tố tụng, kháng nghị của Viện kiểm sát không có căn cứ và kết quả giải quyết của TACST là có căn cứ và hợp pháp.

Tuy nhiên, cần lưu ý trường hợp có nhiều kháng cáo, kháng nghị nhưng chỉ có một hoặc một vài kháng cáo, kháng nghị có căn cứ và các kháng cáo, kháng nghị khác không có căn cứ thì khi bác kháng cáo, kháng nghị nào thì HĐXXPT phải xác định rõ và được áp dụng điểm a khoản 2 Điều 248 BLTTHS để tuyên; đối với những phần kháng cáo, kháng nghị có căn cứ thì HĐXXPT vẫn có quyền án dụng các căn cứ về sử án sơ thẩm, hủy án sơ thẩm được trình bày dưới đây để giải quyết vụ án. Điều đó có nghĩa, có thể trong cùng một bản án mà HĐXXPT có thể vừa y án đối với nội dung này nhưng có thể hủy bản án sơ thẩm đối với nội dung khác.

*  Sửa bản án sơ thẩm

Sửa bản án sơ thẩm được hiểu là việc HĐXXPT quyết định khác với quyết định của bản án sơ thẩm theo hướng có lợi hoặc không có lợi cho bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ  liên quan đến vụ án theo quy định của pháp luật.[7] Căn cứ vào Điều 249 BLTTHS, HĐXXPT sửa bản án sơ thẩm trong các trường hợp:

- Trường hợp sửa bản án sơ thẩm theo hướng có lợi cho người bị kết án: Đó là sự can thiệp trực tiếp vào bản án mà TACST đã tuyên, làm they đổi nội dung của bản án theo hướng làm cho tình trạng của bị cáo có lợi hơn so với tình trạng của bị cáo tại bản án sơ thẩm[8]. Các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 249 BLTTHS bao gồm:

Thứ nhất, miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi có căn cứ tại Điều 25 BLHS hoặc miễn hình phạt cho bị cáo khi có các căn cứ quy định tại Điều 54 BLHS.

Thứ hai, áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn. BLTTHS không nói rõ bao gồm những trường hợp nào nhưng dựa vào quy định của BLHS và thực tiễn áp dụng thì áp dụng điều khoản của BLHS về tội nhẹ hơn bao gồm: chuyển từ tội danh nặng thành tội danh nhẹ; thêm một hoặc một số tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điều 46 BLHS hoặc bỏ đi một hoặc một số tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 48 BLHS. Tuy nhiên, không phải cứ áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn luôn đi kèm với việc giảm hình phạt cho bị cáo mà có thể chỉ áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn nhưng giữ ngyên hình phạt.

Thứ ba, giảm hình phạt cho bị cáo. Đó là trường hợp HĐXXPT quyết định một hình phạt nhẹ hơn hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Thứ tư, giảm mức bồi thường thiệt hại và sửa quyết định xử lý vật chứng. HĐXXPT quyết định sửa bản án giảm mức bồi thường thiệt hại khi cấp sơ thẩm áp dụng không đúng quy định của Bộ luật Dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, trong trường hợp có kháng cáo yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại nhưng họ vắng mặt thì HĐXXPT không được giảm mức bồi thường khi người kháng cáo vắng mặt theo quy định tại khoản 2 Điều 245 BLTTHS. Việc giảm mức bồi thường thiệt hại của HĐXXPT không phụ thuộc vào việc có kháng cáo, kháng nghị về trách nhiệm bồi thường thiệt hại hay không. Tuy nhiên, mặc dù có kháng cáo của người bị hại yêu cầu tăng mức bồi thường thiệt hại trong khi Toà án cấp sơ thẩm đã tách phần bồi thường thiệt hại để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác mà Toà án cấp phúc thẩm vẫn quyết định bồi thường thiệt hại là không đúng quy định của pháp luật [9], vi phạm nguyên tắc hai cấp xét xử.

Khi có căn cứ xác định TACST tuyên trong bản án về xử lý vật chứng không đúng thì HĐXXPT áp dụng khoản 2 Điều 76 BLTTHS để sửa lại cho đúng. Cũng như sử bản án về giảm mức bồi thường thiệt hại, việc cấp phúc thẩm sửa bản án về xử lý vật chứng không phụ thuộc vào việc có kháng cáo, kháng nghị hay không về việc xử lý vật chứng của cấp sơ thẩm.

Thứ năm, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Theo quy định tại Điều 28 BLHS thì hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung nhưng BLHS cũng như BLTTHS không có giải thích hình phạt nào nhẹ hơn hình phạt nào. Tuy nhiên, dựa vào thực tiễn giải quyết và cách sắp xếp của khoản 1 Điều 28 BLHS thì hình phạt chính được sắp xếp từ điểm a đến điểm g có mức độ nặng dần. Đối với hình phạt bổ sung thì không có căn cứ đánh giá. Cho nên, việc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn chỉ áp dụng đối với hình phạt chính.

Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện. Đó là việc buộc người được hưởng án treo phải chịu sự giám sát trong thời gian thử thách. Khi có căn cứ cho hưởng án treo được quy định tại Điều 60 BLHS và mục 6 Nghị quyết số 01/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt thì HĐXXPT có quyền giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo đối với bị cáo bị TACST tuyên hình phạt tù.

Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 Điều 249 BLTTHS, nếu có căn cứ, TACPT có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị.

- Trường hợp sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho người bị kết án: Theo quy định tại khoản 3 Điều 249 BLTTHS thì trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì TACPT có thể sửa bản án sơ thẩm theo hướng không có lợi cho bị cáo như sau:

Thứ nhất, tăng hình phạt đối với bị cáo bao gồm cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, HĐXXPT chỉ có thể tăng hình phạt khi có kháng cáo, kháng nghị theo hướng đó. Nếu không có căn cứ tăng mà có căn cứ giảm thì HĐXXPT cũng có quyền quyết định theo hướng đó nhưng người kháng cáo theo hướng tăng nặng cho bị cáo phải có mặt tại phiên tòa.

Thứ hai, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn. Đó là các trường hợp: chuyển tội danh từ tội nhẹ sang tội danh nặng hơn; chuyển từ khoản có khung hình phạt nhẹ sang khoản có khung hình phạt nặng hơn trong cùng điều luật. Tuy nhiên, cần lưu ý, tăng hình phạt đối với bị cáo và áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn là hai vấn đề khác nhau. HĐXXPT chỉ áp dụng cả hai khi có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu áp dụng cả hai. Nếu chỉ yêu cầu áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn mà không yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo hoặc ngược lại thì HĐXXPT không được vừa áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn và tăng hình phạt đối với bị cáo.

Thứ ba, tăng mức bồi thường thiệt hại, nếu có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự. Việc TACPT tăng mức bồi thường thiệt hại chỉ áp dụng khi có kháng cáo, kháng nghị theo hướng này. HĐXXPT sửa án theo hướng tăng mức bồi thường thiệt hại khi có căn cứ quyết định mức bồi thường của HĐXX sơ thẩm là thấp và chưa đúng quy định của pháp luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.

Ngoài ra, khoản 3 Điều 249 BLTTHS còn quy định, mặc dù có kháng cáo, kháng nghị theo hướng không có lợi cho người bị kết án nhưng nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.

*  Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại

Đối với trường hợp hủy bản án để điều tra lại, theo quy định tại khoản 1 Điều 250 BLTTHS thì “Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được”. Tuy nhiên, BLTTHS lại không quy định thế nào là “điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ”.  Cho nên, để đánh giá việc điều tra ở cấp sơ thẩm có đầy đủ hay không cần phải xem việc điều tra đó có giải quyết được các vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS được quy định tại Điều 63 BLTTHS hay không. Đó là: (1) Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; (2) Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; (3) Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo; (4) Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. 

HĐXXPT chỉ hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại khi việc điều tra không đầy đủ có ảnh hưởng đế việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Bên cạnh đó, cần phải hiểu điều tra không đầy đủ bao gồm cả trường hợp đó điều tra đối với vấn đề cần phải chứng minh nhưng việc điều tra đó có vi phạm pháp luật (thủ tục tố tụng) làm cho tài liệu, chứng cứ thu thập không thể dùng để giải quyết vụ án. Ngoài ra, khi có việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ, HĐXXPT cần xem xét việc thiếu sót đó có thể khắc phục tại phiên tòa hay không. Nếu có thể làm rõ tại phiên tòa thì cũng không hủy án để điều tra lại.

Đối với trường hợp hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, theo quy định tại khoản 2 Điều 250 BLTTHS, Toà án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm với thành phần HĐXX mới trong hai trường hợp: (1) Thành phần HĐXX sơ thẩm không đúng luật định hoặc có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng; (2) Người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội.

Để đánh giá thành phần HĐXX sơ thẩm có đúng quy định pháp luật hay không phải xác định các nội dung: (1) các thành viên HĐXX sơ thẩm có thuộc trường hợp phải thay đổi, từ chối theo quy định tại Điều 42, Điều 46 BLTTHS; (2) trong trường hợp, bị cáo là người chưa thành niên thì Hội thẩm tham gia có phải là đoàn viên hoặc giáo viên theo quy định tại khoản 1 Điều 307 BLTTHS không; (3) trong trường hợp, vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, bị cáo bị đưa ra xét xử với khung hình phạt đến tử hình thì HĐXX có đảm bảo đủ số lượng là 2 Thẩm phán và 3 Hội thẩm không. Khi có một trong các vi phạm trên được xem là căn cứ để HĐXXPT hủy án sơ thẩm để xét xử lại.

Đối với trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, theo quy định tại tiểu mục 4.4 mục 4 Phần I Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP thì “Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là trường hợp BLTTHS quy định bắt buộc phải tiến hành hoặc tiến hành theo thủ tục tố tụng đó, nhưng cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng bỏ qua hoặc thực hiện không đúng xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi của bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách quan toàn diện” và theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ điều tra bổ sung (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 01/2010) thì “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng quy định tại khoản 3 Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án”. Bên cạnh đó, khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010 còn liệt kê các trường hợp được xem là việc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, như phân tích bên trên thì sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thuộc trường hợp hủy án để điều tra lại nên trong nội dung này chỉ xem xét trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.

Tuy nhiên, dựa vào quy định của BLTTHS thì có thể xác định các vi phạm sau của cấp sơ thẩm là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng: (1) cấp sơ thẩm xét xử sai thẩm quyền; (2) khi thuộc một trong các trường hợp phải hoãn phiên tòa do vắng mặt người tham gia tố tụng nhưng cấp sơ thẩm vẫn xét xử; (3) triệu tập thiếu người tham gia tố tụng mà theo quy định họ phải có mặt tại phiên tòa; (4) Chủ tọa phiên tòa điều khiển phiên tòa không đúng quy định; (4) nghị án không đúng quy định; (5) việc xét xử không liên tục; (6) Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án thuộc trường hợp phải từ chối hoặc bị thay đối nhưng vẫn tham gia phiên tòa … Vì vậy, khi có một trong các vi phạm này thì  hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại. Ngoài ra, nếu một người mà hành vi của họ đã đáp ứng đầy đủ tất cả các yêu tố cấu thành một tội cụ thể được quy định trong BLHS nhưng TACST lại tuyên họ không phạm tội thì TACPT không được sửa án tuyên bố bị cáo phạm tội mà phải hủy án để xét xử sơ thẩm lại. Quy định này đã khắc phục hạn chế quy định của BLTTHS năm 1988 nhằm đảm bảo quyền bào chữa và quyền kháng cáo của bị cáo.

Bên cạnh các căn cứ bên trên, khi hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, Toà án cấp phúc thẩm không quyết định trước những chứng cứ mà Toà án cấp sơ thẩm cần phải chấp nhận hoặc cần phải bác bỏ, cũng như không quyết định trước về điều khoản Bộ luật hình sự và hình phạt mà Toà án cấp sơ thẩm sẽ phải áp dụng. Trong trường hợp hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại hoặc xét xử lại mà thời hạn tạm giam đối với bị cáo đã hết và xét thấy việc tiếp tục tạm giam bị cáo là cần thiết, thì HĐXXPT ra quyết định tiếp tục tạm giam bị cáo cho đến khi Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án. Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày hủy bản án sơ thẩm, hồ sơ vụ án phải được chuyển cho Viện kiểm sát hoặc Toà án cấp sơ thẩm để giải quyết theo thủ tục chung.

*  Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án

Theo quy định tại Điều 251 BLTTHS thì khi có một trong những căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của BLTTHS thì TACPT hủy bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án; nếu có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của BLTTHS thì hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. Một trong các căn cứ quy định tại điểm 1 và điểm 2 Điều 107 của BLTTHS là không có sự việc phạm tội và hành vi không cấu thành tội phạm. Một trong các căn cứ quy định tại các điểm 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 107 của BLTTHS là: Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự; người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật; đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự; Tội phạm đã được đại xá; Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác.

Bên cạnh việc hủy bản án sơ thẩm, đình chỉ vụ án (nếu thuộc khoản 1, khoản 2 Điều 107 BLTTHS thì tuyên bố bị cáo không phạm tội), thì tùy từng trường hợp mà HĐXXPT giải quyết luôn hậu quả pháp lý của vụ án như: ngưởi đã bị kết án được hưởng quyền lợi gì, trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với người đã bịu kết án; vấn đề bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng[10]. Chẳng hạn, toà án cấp sơ thẩm kết tội và buộc bị cáo phải bồi thường thiệt hại; sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã nộp một phần tiền bồi thường thiệt hại; hội đồng giám đốc thẩm cho rằng nếu có đầy đủ căn cứ thì toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không có tội và “đình chỉ vụ án về phần hình sự” và phải giải quyết phần trách nhiệm dân sự trong bản án phúc thẩm chứ không được tuyên đình chỉ vụ án và phần trách nhiệm dân sự nếu có tranh chấp thì được giải quyết theo thủ tục khác[11]. Trong trường hợp quy định tại Điều 107 BLTTHS chỉ được áp dụng với 01 hoặc một vài bị cáo trong vụ án có nhiều đồng phạm thì HĐXXPT chỉ hủy một phần bản án sơ thẩm đối với bị cáo đó; đối với những người bị kết án khác thì HĐXXPT giải quyết theo thủ tục chung mà không hủy toàn bộ bản án.

Như vậy, qua các nội dung nghiên cứu bên trên, có thể khẳng định quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm là khá đầy đủ, đảm bảo các nội dung của một cấp xét xử. Nhận định này được thể hiện qua từng nội dung mà đề tài đã trình bày bên trên. Mặc dù, các vấn đề được nghiên cứu bên trên không phải là nội dung chính của đề tài nhưng việc nắm vững quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm sẽ có ý nghĩa quan trọng cho bước tiếp theo nghiên cứu nội dung chính của tiểu luận. Nhìn chung, từng mục mà đề tài nghiên cứu đã có sự trình bày tương đối đầy đủ về quy định của BLTTHS cũng như văn bản hướng dẫn và có sự phân tích đánh giá nên giúp dễ dàng nắm bắt. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu nội dung bên trên cũng chỉ ra rằng, một số quy định của BLTTHS và văn bản hướng dẫn về xét xử phúc thẩm chưa cụ thể, rõ ràng. Không những thế, một số quy định của BLTTHS trong Chương xét xử phúc thẩm còn mâu thuẫn và một số quy định của Chương xét xử phúc thẩm mâu thuẫn với quy định tại các chương khác của BLTTHS. Chính vì vậy, việc tạo ra các bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm là khó tránh khỏi. Cho nên, trên cơ sở nghiên cứu một cách khái quát các quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm, nội dung tiếp theo của đề tài sẽ hệ thống các vướng mắc, bất cập từ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về xét xử phúc thẩm và thực tiễn áp dụng các quy định này và đề xuất các giải pháp khắc phục.

2. Những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự và kiến nghị hoàn thiện

2.1. Những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

2.1.1. Về phạm vi xét xử phúc thẩm

Điều 241 BLTTHS quy định: “TACPT xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì TACPT có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị của bản án”. Tuy nhiên quy định của BLTTHS về vấn đề này có một số điểm chưa phù hợp.

Thứ nhất, Điều 230 BLTTHS quy định, XXPT là việc Tòa án cấp trên xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định đó chưa có hiệu lực, bị kháng cáo, kháng nghị. Quy định này có thể hiểu, Tòa án xét xử lại hoặc xét lại chứ không xem xét như quy định tại Điều 241 BLTTHS. Ngoài ra, việc dùng thuật ngữ xem xét sẽ có thể dẫn đến hiểu nhầm XXPT không phải là cấp xét xử như thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.

Thứ hai, việc quy định chỉ xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị cũng có thể dẫn đến hiểu nhầm là đối tượng của XXPT chỉ là nội dung của kháng cáo, kháng nghị chứ không phải là vụ án mà bản án có kháng cáo, kháng nghị.

Thứ ba, theo tinh thần quy định về thẩm quyền tại khoản 2 Điều 248, Điều 249 BLTTHS thì HĐXXPT thỉ có thể quyết định những nội dung không có kháng cáo, kháng nghị nếu phần đó có tính chất giảm nhẹ cho bị cáo. Vì vậy, “phần khác” không bị cáo, kháng nghị được xem xét mà Điều 241 BLTTHS quy định là quá rộng. Vì vậy, cần phải có sự giới hạn các phần không bị kháng cáo, kháng nghị được xem xét chỉ là những nội dung vụ án có tính giảm nhẹ cho bị cáo.

2.1.2. Việc xem xét, bổ sung chứng cứ tại phiên tòa phúc thẩm:

Khoản 1 Điều 246 BLTTHS quy định: “Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể tự mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật”. Trong khi đó, khoản 1 Điều 65 BLTTHS lại quy định: “Để thu thập chứng cứ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án có quyền triệu tập những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề có liên quan đến vụ án, trưng cầu giám định, tiến hành khám xét, khám nghiệm và các hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, trình bày những tình tiết làm sáng tỏ vụ án”.

Chính vì quy định chưa cụ thể của Điều 246 và Điều 65 BLTTHS mà trong thực tiễn xét xử có cách hiểu khác nhau. Có ý kiến cho rằng, Tòa án chỉ có quyền yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung chứng cứ chứ không có quyền yêu cầu tổ chức, cá nhận khác cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ. Ý kiến khác lại cho rằng, Tòa án cũng có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, tình tiết làm sáng tỏ vụ án[12]. Đối với ý kiến thứ hai, có tác giả cho rằng, hai quyền của Tòa án quy định tại khoản 1 Điều 61 và khoản 1 Điều 264 BLTTHS là hai quyền độc lập, riêng biệt mà không bị chế ước lẫn nhau. Tòa án vừa có quyền thu thập chứng cứ, vừa có quyền yêu cầu Viện kiểm sát cung cấp chứng cứ[13]. Tuy nhiên, việc xác định Tòa án có quyền thu thập chứng cứ nói chung hay yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ nói riêng hay không phải dựa vào các quy định khác của BLTTHS để xác định vì quy định tại Điều 246 BLTTHS là chưa rõ ràng. Trước tiên, theo quy định tại Điều 38, Điều 39 BLTTHS, trong các quyền hạn của Chánh án, Thẩm phán, ta thấy, BLTTHS không quy định quyền về thu thập chứng cứ. Đối với Tòa án, việc thu thập cũng như kiểm tra, đánh giá chứng cứ diễn ra chủ yếu công khai tại phiên tòa. Cho nên  khi xem xét nội dung quy định tại Điều 246 BLTTHS cần hiểu các bên tham gia phiên tòa phúc thẩm là Viện kiểm sát và người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền cung cấp tài liệu, chứng cứ mới và Tòa án chỉ có quyền duy nhất là yêu cầu Viện kiểm sát cung cấp chứng cứ mới chứ không có quyền thu thập chứng cứ theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp bên trên.

Tuy nhiên, theo tiến trình cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta đang đặt ra, xây dựng các cơ quan tư pháp với các nhiệm vụ, quyền hạn đúng chức năng của mình. Trong đó, Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử với vai trò là trọng tài. Vì vậy, việc quy định Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát phải bổ sung chứng cứ khi chứng cứ mà Viện kiểm sát dựa vào đó truy tố bị cáo chưa đầy đủ là chưa phù hợp. Việc bổ sung chứng cứ của các bên tham gia phiên tòa phúc thẩm cần để họ tự quyết định. Tòa án chỉ đánh giá dựa vào tài liệu, chứng cứ các bên cung cấp để giải quyết vụ án, tránh việc Tòa án làm thay. Từ đó, kiến nghị sửa đổi quy định tại Điều 246 BLTTHS theo hướng bỏ quy định Tòa án yêu cầu Viện kiểm sát cung cấp chứng cứ mới tại phiên tòa phúc thẩm.

2.1.3. Về thủ tục phiên tòa phúc thẩm

Nghiên cứu quy định của BLTTHS về phiên tòa phúc thẩm, chùng tôi thấy có một số vướng mắc sau:

Thứ nhất, việc bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị ở giai đoạn XXPT được quy định tại Điều 238 BLTTHS và hướng dẫn cụ thể tại mục 7 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP. Quy định tại Điều 238 bao gồm cả việc bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi bắt đầu và tại phiên tòa phúc thẩm. Tuy nhiên, thủ tục phiên tòa phúc thẩm lại được quy định tại Điều 247 BLTTHS nên việc quy định bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị tại Điều 238 BLTTHS là chưa phù hợp. Do đó, cần chuyển quy định việc bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị từ Điều 238 sang Điều 247. Đồng thời quy định thêm trình tự xem xét việc chấp nhận hay không và hậu quả của việc chấp nhận. Chẳng hạn, việc xem xét, giải quyết phải được thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. HĐXX có thể không chấp nhận việc bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nếu vi phạm Điều 238 BLTTHS. Nếu việc bổ sung kháng cáo dẫn đến việc thay đổi phạm vi XXPT vì liên quan đến những người tham gia tố tụng khác chưa được triệu tập thì cần phải hoãn phiên tòa để triệu tập thêm người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị và áp dụng quy định tại mục 7 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP để giải quyết vụ án. Cụ thể, trong trường hợp Viện kiểm sát, người kháng cáo rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc rút kháng cáo, kháng nghị phải được ghi vào biên bản. Nếu rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì việc XXPT phải được đình chỉ. Nếu rút một phần kháng cáo, kháng nghị hoặc còn có kháng cáo, kháng nghị khác thì TACPT  xét xử phần kháng cáo, kháng nghị còn lại và cả những phần đã rút theo hướng giảm nhẹ về hình sự cho bị cáo theo quy định tại Điều 241 và khoản 2 Điều 249 BLTTHS.

Khoản 2 Điều 238 BLTTHS quy định, trong trường hợp rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì việc XXPT phải được đình chỉ. Tuy nhiên, BLTTHS lại không quy định trường hợp quyết định rút kháng nghị của Viện kiểm sát rõ ràng không có căn cứ thì xử lý bằng thủ tục gì. Trong thực tiễn xét xử, trường hợp việc rút kháng nghị của Viện kiểm sát rõ ràng là không có căn cứ thì việc khắc phục sai lầm của Toà án cấp sơ thẩm chỉ có thể được thực hiện theo thủ tục giám đốc thẩm. Cách giải quyết này vừa kéo dài vụ án vừa không bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng[14]. Trong khi đó, nếu có quy định huỷ quyết định rút kháng nghị thì vụ án chỉ phải XXPT một lần.

Thứ hai, quy định về thủ tục phiên tòa phúc thẩm tại Điều 247 BLTTHS quá chung chung khi điều luật không quy định từng hoạt động được diễn ra tại phiên tòa phúc thẩm mà viện dẫn hầu như toàn bộ trình tự, thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm nên gây khó khăn khi áp dụng trên thực tế. Chúng tôi thấy rằng, XXPT và xét xử sơ thẩm là hai cấp xét xử độc lập nhau và tính chất của XXPT và xét xử sơ thẩm là khác nhau. Cho nên nhiều quy định của xét xử sơ thẩm không thể áp dụng cho xét xử sơ thẩm, trong đó, có phiên tòa phúc thẩm. Quy định tại Điều 247 BLTTHS chưa cụ thể, rõ ràng như: không quy định trình tự xét hỏi ra sao, việc tranh luận được tiến hành như thế nào khi có ý kiến khác nhau giữa bên Viện kiểm sát với bị cáo, người bào chữa cho bị cáo… Chính vì vậy, mà có ý kiến cho rằng, do phiên tòa phúc thẩm được tiến hành như phiên tòa sơ thẩm nên các quy định tại phiên tòa sơ thẩm đều được áp dụng vào phiên tòa phúc thẩm miễn không trái quy định của Điều 247 BLTTHS. Chẳng hạn, trong trường hợp, người thân của bị cáo xuất trình tài liệu chứng minh bị cáo đã bồi thường thiệt hại xong sau phiên tòa sơ thẩm nhưng người bị hại vắng mặt tại phiên tòa phúc thẩm. HĐXXPT có quyền xem xét tài liệu đó, nếu chưa có cơ sở xác định HĐXX có quyền áp dụng Điều 199 BLTTHS “yêu cầu điều tra bổ sung”[15].

Cho nên, cần bổ sung một số thủ tục phiên tòa phúc thẩm mà trên thực tế được tiến hành khác với thủ tục phiên tòa sơ thẩm và không thể áp dụng tương tự quy định pháp luật về thủ tục phiên tòa sơ thẩm nhưng chưa được quy định trong Điều 247 BLTTHS như: (1) Khi bắt đầu phiên tòa, thay cho việc đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa. Thủ tục này khác với thủ tục phiên tòa sơ thẩm nên cần đưa vào điều luật; (2) Phải bổ sung quy định về thủ tục kiểm tra xem người tham gia tố tụng đã được giao thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị; thông báo về việc mở phiên tòa hay chưa và giải quyết yêu cầu hoãn phiên tòa nếu họ yêu cầu vì chưa được giao những thông báo này đúng thời hạn luật định; (3) Bên cạnh thời gian, địa điểm XXPT vụ án, trong nội dung của thông báo phải nêu rõ thêm các vấn đề sau: xử công khai hay xử kín; họ tên thẩm Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, họ tên thẩm phán dự khuyết, nếu có; họ tên kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên dự khuyết, nếu có; họ tên người bào chữa, nếu có; họ tên người phiên dịch, nếu có; họ tên người được triệu tập để xét hỏi tại phiên tòa; vật chứng cần đưa ra xem xét tại phiên tòa.

Thứ ba, một số thủ tục phiên tòa phúc thẩm được tiến hành trên thực tế khác với thủ tục phiên tòa sơ thẩm cho nên không thể áp dụng tương tự quy định pháp luật về thủ tục phiên tòa sơ thẩm. Chẳng hạn, cơ sở phát sinh thủ tục phúc thẩm và phạm vi XXPT là căn cứ vào kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm. Vì vậy, TACST phải thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn bảy ngày bằng công văn đối với Viện kiểm sát và bằng giấy triệu tập tham gia phiên tòa đối với người tham gia tố tụng (được quy định tại Điều 236 BLTTHS và hướng dẫn cụ thể tại mục 1 Phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP). Việc thông báo này rất cần thiết để những chủ thể có liên quan đến kháng cáo kháng nghị có thể chuẩn bị tốt cho việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ tại phiên tòa. Họ có quyền được gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung kháng cáo, kháng nghị và ý kiến của họ được đưa vào hồ sơ vụ án. HĐXX phải hỏi xem họ đã được thông báo về kháng cáo, kháng nghị đúng thời hạn luật định hay chưa, nếu họ chưa được giao hoặc được giao không đúng thời hạn luật định thì phải hỏi xem họ có yêu cầu hoãn phiên tòa hay không, nếu họ yêu cầu, HĐXX phải hoãn phiên tòa.

Ngoài thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị, chậm nhất là mười lăm ngày trước ngày mở phiên tòa, TACPT phải thông báo bằng văn bản cho Viện kiểm sát cùng cấp và những người tham gia tố tụng về thời gian, địa điểm XXPT vụ án để họ tham gia phiên tòa phúc thẩm. Tại phiên tòa, HĐXXPT cũng phải hỏi xem họ đã được thông báo trong thời hạn luật định hay không; có yêu cầu hoãn phiên tòa nếu chưa được giao hoặc giao không đúng thời hạn hay không. Thủ tục này phải được bổ sung vào Điều 247 BLTTHS về thủ tục phiên tòa phúc thẩm.

Về nội dung của thông báo tham gia phiên tòa XXPT theo chúng tôi cũng chưa đầy đủ. Điều 242 BLTTHS quy định nội dung thông báo chỉ có thông tin về thời gian, địa điểm XXPT vụ án. Để Viện kiểm sát có thể thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình; bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo và người bào chữa có thể thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng tại phiên tòa, theo chúng tôi, cần phải thông báo cho những chủ thể này đầy đủ những nội dung tương tự như nội dung quyết định đưa vụ án ra xét xử ở cấp sơ thẩm. Trên cơ sở nội dung được thông báo đó, các chủ thể tham gia phiên tòa có thể xem xét có cần yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng hay không; có cần yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng hoặc cung cấp thêm tài liệu, đồ vật có liên quan hay không…

Thứ tư, về thủ tục trước khi tiến hành xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm

Theo quy định tại Điều 247 BLTTHS, trước khi tiến hành xét hỏi, một thành viên của HĐXX phải tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung của kháng cáo, kháng nghị. Quy định này có điểm giống so với quy định thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm và tái thẩm. Tuy nhiên, phiên tòa phúc thẩm là phiên tòa xét xử mà không phải là thủ tục xét lại. Cho nên, BLTTHS cần quy định rõ nét hơn về vai trò của các chủ thể tham gia tranh tụng tại phiên tòa. Bởi vì, cơ sở phát sinh thủ tục xét xử sơ thẩm là quyết định truy tố của Viện kiểm sát nên trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát viên đọc bản cáo trạng. Trong khi đó, cơ sở phát sinh thủ tục XXPT là kháng cáo, kháng nghị nên trong phần xét hỏi của phiên tòa phúc thẩm cần quy định trước khi tiến hành xét hỏi, ngoài việc một thành viên của HĐXX phải tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm thì việc trình bày  kháng cáo, kháng nghị phải do các chủ thể đã kháng cáo, kháng nghị tự mình trình bày. Nếu người kháng cáo vắng mặt, một thành viên của HĐXX trình bày nội dung kháng cáo của người đó. Việc quy định các chủ thể kháng cáo, kháng nghị tự mình trình bày kháng cáo, kháng nghị sẽ tạo cho Viện kiểm sát và người kháng cáo chủ động hơn, đồng thời làm cho vai trò của HĐXX trở nên vô tư, khách quan hơn.

Thứ năm, về trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm

Điều 247 BLTTHS không quy định cụ thể về trình tự phát biểu khi tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm mà quy định áp dụng tương tự như thủ tục phiên tòa sơ thẩm theo quy định tại Điều 217 BLTTHS. Tuy nhiên, trình tự, thủ tục tại Điều 217 BLTTHS chỉ phù hợp với phiên tòa sơ thẩm, nếu áp dụng tương tự vào phiên tòa phúc thẩm là không hoàn toàn hợp lý. Bởi vì, cơ sở cho việc tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm là kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm cho nên chủ thể kháng cáo, kháng nghị phải là người trình bày ý kiến của mình bắt đầu quá trình tranh luận tại phiên tòa. Nếu Viện kiểm sát kháng nghị, Kiểm sát viên là người phát biểu đầu tiên nhưng nếu Viện kiểm sát không kháng nghị mà bị cáo kháng cáo thì bị cáo phải được phát biểu đầu tiên. Nếu có nhiều chủ thể cùng kháng cáo, kháng nghị thì trình tự phát biểu do HĐXX xem xét và quyết định. Trong trường hợp đó, cần theo nguyên tắc Viện kiểm sát trình bày trước người tham gia tố tụng và bên có ý kiến buộc tội trình bày trước. Đây cũng là quy định được nhiều nước trên thế giới áp dụng.[16]

2.1.4. Về thẩm quyền của Hội đồng xét xử phúc thẩm:

* Đối với thẩm quyền sửa án bản án sơ thẩm

Nghiên cứu uy định của BLTTHS về thẩm quyền sửa bản án sơ thẩm, chúng tôi thấy có một số điểm chưa phù hợp sau:

Thứ nhất, theo quy định tại khoản 2 Điều 249 BLTTHS, TACPT có quyền sửa án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ kể cả đối với những bị cáo không bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, TACPT chỉ quyền sửa theo các hình thức: giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo. Đối với hình thức miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, sửa lại phần bồi thường thiệt hại thì TACPT lại không có quyền. Quy định về vấn đề này như BLTTHS là quá hẹp, chưa thể hiện tính đất đầy đủ của XXPT. Chúng tôi cho rằng, trong trường hợp, có căn cứ miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt đối với bị cáo không có kháng cáo, kháng nghị nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng mà phải kiến nghị giải quyết bằng thủ tục giám đốc thẩm sẽ tốn thời gian và công sức, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo không được bảo vệ kịp thời, việc cá thể hóa hình phạt và nguyên tắc công bằng trong BLTTHS không được đảm bảo.

Đối với việc sửa mức bồi thường không bị kháng cáo, kháng nghị, xuất phát từ vấn đề dân sự sẽ do đương sự chứng minh và tự yêu cầu. Tòa án chỉ có trách nhiệm xem xét. Tuy nhiên, kháng cáo, kháng nghị chỉ là căn cứ làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, còn việc xét xử, chấp nhận kháng cáo nào, TACPT phải dựa vào quy định của pháp luật liên quan để quyết định. Chỉ nên quy định TACPT chỉ bị giới hạn vào kháng cáo, kháng nghị khi xem xét sửa án theo hướng tăng nặng. Trường hợp, áp dụng pháp luật không đúng, việc tính toán không chính xác là lỗi của cơ quan tiến hành tố tụng nên cần phải khắc phục kịp thời.

Thứ hai, theo quy định tại điểm d khoản 1 và khoản 3 Điều 249 BLTTHS, khi sửa án theo hướng không có lợi cho người bị kết án Toà án cấp phúc thẩm không được buộc bị cáo chịu hình phạt tù nếu Toà án cấp sơ thẩm đã cho hưởng án treo, áp dụng thêm hình phạt bổ sung, áp dụng thêm biện pháp tư pháp so với bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Mặc dù, điểm a mục 3.3 Phần II Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP hướng dẫn những trường hợp này là không có lợi cho bị cáo hoặc đương sự nhưng không phải là hướng dẫn chung, mà chỉ là hướng dẫn trong trường hợp cụ thể bị cáo hoặc đương sự vắng mặt tại phiên toà phúc thẩm. Vì vậy, cần bổ sung vào khoản 3 Điều 249 BLTTHS những trường hợp này để có cơ sở pháp lý sửa bản án sơ thẩm đúng với bản chất của XXPT là một cấp xét xử.

Thứ ba, khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định TACPT có thể sửa án theo hướng không có lợi cho bị cáo, đương sự khi Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu. Tuy nhiên, theo khoản 2 Điều 51 và Điều 231 BLTTHS thì người đại diện hợp pháp của người bị hại cũng có quyền kháng cáo bản án về mức bồi thường cũng như hình phạt đối với bị cáo. Ngoài ra, theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 52 BLTTHS thì nguyên đơn dân sự cũng được kháng cáo về phần bồi thường thiệt hại và tại điểm d khoản 3 Điều 59 BLTTHS thì “đối với đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì người bảo vệ quyền lợi của họ có quyền … kháng cáo phần bản án, quyết định của Toà án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ”.

Do đó, để đảm bảo sự thống nhất giữa các Điều 51, Điều 52, Điều 59, Điều 231 và khoản 3 Điều 249 BLTTHS cần bổ sung vào khoản 3 Điều 249 BLTTHS căn cứ để TACPT có thể sửa án theo hướng không có lợi cho bị cáo khi có kháng cáo của người đại diện hợp pháp của người bị hại. Đối với việc sửa án sơ thẩm về mức bồi thường thì khi có kháng cáo của nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất HĐXXPT cũng có quyền sửa theo hướng tăng mức bồi thường thiệt hại.

Thứ tư, khoản 3 Điều 249 BLTTHS quy định, trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu thì TACPT có thể “áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn”. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào hướng dẫn thế náo là áp dụng điều khoản của BLHS về tội nặng hơn? Giới hạn xét xử quy định tại Điều 196 BLTTHS có được áp dụng ở cấp phúc thẩm? Chính vì vậy, hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho rằng, áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn bao gồm: (1) áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 48 BLHS; (2) Chuyển từ khung hình phạt có mức hình phạt hoặc loại hình phạt nhẹ sang khung hình phạt có mức hình phạt hoặc loại hình phạt nặng hơn; (3) Chuyển từ tội danh nhẹ sang tội danh khác nặng hơn; (4) Chuyển từ “án treo” thành “tù giam”. Quan điểm thứ hai cho rằng, “áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự về tội năng hơn” chỉ bao gồm trường hợp chuyển từ khung hình phạt có mức hình phạt nhẹ sang khung hình phạt có mức hình phạt nặng hơn, chứ không bao gồm các trường hợp khác. Bởi vì, “áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn” là chuyển từ tội ít nghiêm trọng sang tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; từ tội nghiêm trọng sang tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng; từ tội rất nghiêm trọng sang tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng phải là cùng một tội mà Viện kiểm sát đã truy tố và Toà án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo. TACPT chỉ được xét xử về tội nặng hợp nếu tội đó đã được Viện Kiểm sát truy tố và Tòa án đã đưa ra xét xử nhưng TACST đã nhận định sai nên xác định sai tội danh. Khi có kháng cáo hoặc kháng nghị theo hướng tăng hình phạt thì TACPT mới có quyền sửa án[17]. Qua hai quan điểm trên, nghiên cứu quy định của BLTTHS chúng tôi chỉ không thống nhất với ý kiến thứ nhất về áp dụng thêm tình tiết tăng nặng và chuyển án treo thành án tù giam vì hai nội dung này không thuộc phạm vi thuật ngữ “điều khoản Bộ luật Hình sự”. Đối với 02 trường hợp khác, chúng tôi cho rằng, Điều 196 BLTTHS quy định về giới hạn xét xử thuộc Phần thứ ba - Xét xử sơ thẩm; trong khi đó, Điều 249 BLTTHS quy định về thẩm quyền của HĐXXPT lại thuộc Phần thứ tư – XXPT. Trong khi đó, không có một điều luật nào quy định về XXPT của BLTTHS có quy định dẫn chiếu về việc áp dụng giới hạn của xét xử sơ thẩm vào XXPT. Vì vậy, việc cho rằng HĐXXPT quyết định chuyển từ tội danh nhẹ sang tội danh khác nặng hơn là vi phạm giới hạn xét xử là có sự miễn cưỡng[18]. Chúng tôi cho rằng, chỉ không được sửa án từ tội danh nhẹ sang tội danh khác nặng hơn khi việc đó không thuộc thẩm quyền của Tòa án đã xét xử sơ thẩm, việc xét xử tội danh nặng hơn sẽ dẫn đến việc bắt buộc phải có người bào chữa, thành phần HĐXX sơ thẩm phải có 5 thành viên thì HĐXXPT không có quyền sửa án theo hướng này. Ngoài ra, một trong những nguyên tắc trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung, TACPT nói riêng, chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Trong trường hợp này, rõ ràng pháp luật đã cho phép HĐXXPT được chuyển từ tội danh nhẹ sang tội danh khác nặng hơn vì thẩm quyền này thuộc phạm vi “điều khoản Bộ luật Hình sự về tội nặng hơn” nên không thể suy diễn khác hơn được.

Tuy nhiên, dưới góp độ bảo vệ quyền con người (cụ thể là bị cáo) thì cần có sự sửa đổi BLTTHS theo hướng dẫn chiếu áp dụng giới hạn xét xử tại Điều 196 BLTTHS cho cả XXPT và giải thích rõ thẩm quyền của HĐXXPT về việc quyết định “áp dụng điều khoản Bộ luật hình sự về tội nặng hơn” chỉ bao gồm trường hợp như ý kiến thứ hai.

* Về thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại

Một trong những căn cứ mà Điều 250 BLTTHS quy định để hủy bản án sơ thẩm, điều tra lại khi “việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ” và để hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại là “có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng” nhưng BLTTHS lại không quy định rõ về các trường hợp này. Trong khi việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của sự vi phạm thủ tục tố tụng phụ thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan, người tiến hành tố tụng. Hiện nay, chỉ có tiểu mục 4.4 mục 4 Phần I Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn thế nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng mà không liệt kê những vi phạm nào của TACST là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và khoản 2 Điều 4 Thông tư liên tịch số 01/2010 chỉ nêu các trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục của cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát để Tòa án, Viện Kiểm sát trả hồ sơ điều tra bổ sung mà không giải thích trường hợp nào vi phạm thủ tục tố tụng của TACST là vi phạm nghiêm trọng. Vì vậy, cần có quy định thế nào là “việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ” và thế nào là “có vi phạm nghiêm trọng khác về thủ tục tố tụng” vào Điều 250 BLTTHS.

- Đối với quy định hủy bản án để điều tra lại, khoản 1 Điều 250 BLTTHS không quy định huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp việc điều tra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại Công văn số 26/KHXX ngày 28/02/2007, TAND tối cao đã xác định Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp việc điều tra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa theo quy định tại khoản 2 Điều 57 BLTTHS mà các giai đoạn tố tụng trước khi xét xử sơ thẩm chưa có sự tham gia của người bào chữa, trừ trường hợp bị can và người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào chữa. Hay theo tiểu mục 1.4 mục 1 Phần I Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP, trong trường hợp người bị hại chết mà có từ hai người trở lên đều là người đại diện hợp pháp; trong quá trình điều tra, những người này chưa cử ai trong số họ thay mặt làm người đại diện hợp pháp, mà người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ do một hoặc một số người tự nhận; nếu sau khi xét xử sơ thẩm có người trong số những người chưa cử người đại diện có đơn khiếu nại bản án sơ thẩm hoặc yêu cầu XXPT mà nội dung đơn của họ không phù hợp với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng hoặc người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng không kháng cáo nhưng trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác kháng cáo, viện kiểm sát kháng nghị thì toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định sơ thẩm về phần có liên quan mà họ có khiếu nại hoặc yêu cầu XXPT để điều tra lại do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng.

Không những thế, theo tinh thần cải cách tư pháp, phán quyết của Toà án căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà. Tranh tụng thực sự và hiệu quả đòi hỏi sự phân định rõ ràng chức năng của các chủ thể tố tụng. Toà án không thực hiện chức năng công tố nên không có trách nhiệm chứng minh tội phạm. Toà án thực hiện chức năng xét xử nên chỉ có trách nhiệm chứng minh tính có căn cứ của bản án, quyết định của mình. Trường hợp các chứng cứ thu thập được có đảm bảo để làm rõ các vấn đề cần phải chứng minh trong vụ án hay không là trách nhiệm của Viện Kiểm sát. Theo quy định tại khoản 1 Điều 246 BLTTHS, trong giai đoạn XXPT, các bên đã có cơ hội bổ sung chứng cứ mới trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên toà. Việc bổ sung chứng cứ mới của Viện Kiểm sát có thể được thực hiện thông qua các hoạt động hỏi cung bị cáo, lấy lời khai của người có liên quan, đối chất, xem xét lại hiện trường như hướng dẫn tại khoản 2 Điều 38 Quy chế thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các VAHS ban hành kèm theo Quyết định số 960/QĐ-VKSTC ngày 17/9/2007 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cho nên cần bỏ thẩm quyền của HĐXXPT huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ mà chỉ quy định Toà án cấp phúc thẩm chỉ huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp việc điều tra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Bên cạnh đó, việc bỏ thẩm quyền huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại trong trường hợp việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ buộc cơ quan công tố nâng cao trách nhiệm thu thập chứng cứ, rút ngắn thời gian giải quyết vụ án, tiết kiệm thời gian, tiền bạc cho Nhà nước và các bên trong tố tụng.

- Đối với quy định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, theo khoản 2 Điều 250 BLTTHS thì một trong những ăn cứ để HĐXXPT quyết định huỷ bản án sơ thẩm để xét xử lại ở cấp sơ thẩm là “người được Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội”. Tuy nhiên, BLTTHS lại không giới hạn của thuật ngữ “tội”. Trường hợp bị cáo chỉ thực hiện một hành vi và hành vi đó chỉ phạm vào một tội thì TACPT khi xét xử không bị vương mắc trong thực tiễn. Tuy nhiên, các trường hợp sau đây có được xem thuộc phạm vi thuật ngữ tội hay không cũng chưa có hướng dẫn cụ thể bao gồm: (1) Viện Kiểm sát truy tố nhiều tội, TACST chỉ tuyên bị cáo phạm một hoặc một số tội; (2) Viện Kiểm sát truy tố về nhiều hành vi phạm tội về nhiều hành vi khác nhau trong cùng một điều luật (tội ghép), TACST chỉ kết án bị cáo về một hoặc một số hành vi phạm tội về một hoặc một số tội; (3) Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều hành vi phạm tội khác nhau cùng về một tội danh, nhưng Toà án cấp sơ thẩm không kết án bị cáo tất cả các hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, mà chỉ kết án một hoặc một số hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố. Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng, các sai phạm trên của Toà án cấp sơ thẩm không nghiêm trọng và nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm chỉ “áp dụng điều khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn” để sửa bản án sơ thẩm. Ý kiến khác lại xác định các trường trên đều là bỏ lọt tội phạm nên nếu có kháng cáo, kháng nghị thì Toà án cấp phúc thẩm không được sửa bản án sơ thẩm mà phải huỷ bản án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại[19]. Chúng tôi thống nhất với ý kiến thứ hai, các trường hợp trên đều thuộc giới hạn của thuật ngữ “tội” trong khoản 2 Điều 250 BLTTHS. Tuy nhiên, để áp dụng thống nhất pháp luật cần có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về thuật ngữ “tội” trong khoản 2 Điều 250 BLTTHS.

2.1.5. Về xác định tư cách tham gia tố tụng của bị cáo không có kháng cáo

Thứ nhất, hiện nay, BLTTHS không quy định về việc xác định tư cách tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm của bị cáo không có kháng cáo. Tuy nhiên, theo mục 1 Phần III Công văn số 117/2004/KHXX ngày 22/7/2004 của TAND tối cao, đối với bị cáo kháng cáo quá hạn không được Tòa án chấp nhận nếu cần thiết thì triệu tập họ đến phiên tòa với tư cách là người làm chứng. Từ hướng dẫn này, có cơ sở xác định bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị khi được triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm cũng là người làm chứng. Tuy nhiên, nếu họ có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của người làm chứng thì sẽ có một số bất cập. Chẳng hạn, về nghĩa vụ, theo quy định tại Điều 55 BLTTHS thì người làm chứng có nghĩa vụ khai báo trung thực, nếu khai báo gian dối thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội khai báo gian dối. Tuy nhiên, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với họ là không hợp lý vì họ là người cùng với bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội. Với tư cách là bị cáo thì pháp luật tố tụng hình sự không bắt buộc họ phải khai báo trung thực hành vi phạm tội của mình và đồng phạm. Về quyền thì họ không có các quyền như người làm chứng khác (bị dẫn giải nếu đang bị tạm giam, bị công an bảo vệ phiên tòa giám sát tại phiên tòa). Tuy nhiên, họ lại có các quyền khác mà người làm chứng thông thường không có như có thể được giảm hình phạt, áp dụng điều khoản của BLHS về tội nhẹ hơn … Vì vậy, việc xác định bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị là người làm chứng là không chính xác mà cần phải xác định họ là người bị kết án và tại phiên tòa họ có quyền lợi, nghĩa vụ như người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Ngoài ra, khoản 2 Điều 249 BLTTHS quy định, nếu có căn cứ, TACPT có thể giảm hình phạt hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo cho cả những bị cáo không kháng cáo hoặc không bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên, việc dùng thuật ngữ bị cáo cũng không chính xác vì tư cách bị cáo của những bị cáo không kháng cáo đã kết thúc khi phần bản án với họ đã có hiệu lực pháp luật và họ được xem là người bị kết án. Vì vậy, kiến nghị cần sửa thuật ngữ “những bị cáo” tại khoản 2 Điều 249 BLTTHS thành “những người bị kết án”.

Thứ hai, trường hợp TACST xác định sai tư cách người tham gia tố tụng mà những người này có kháng cáo hoặc có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị thì TACPT có quyền sửa lại hay không cũng gây nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tiễn. Có ý kiến cho rằng, cấp phúc thẩm không thể sửa lại vì người này đã không được hưởng đúng quyền lợi của mình ở cấp sơ thẩm nên việc xác định sai không thể khắc phục được. Ý kiến khác lại xác định có thể sửa lại cho đúng vì việc đó thuộc thẩm quyền của TACPT[20]. Tuy nhiên, vấn đề này lại chưa có hướng dẫn cụ thể. Thông tư liên tịch số 01/2010 chỉ hướng dẫn các trường hợp xác định sai tư cách người tham gia tố tụng có thể dẫn đến việc trả hồ sơ điều tra bổ sung (đối với Viện Kiểm sát, Tòa án ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm), yêu cầu điều tra bổ sung (tại phiên tòa sơ thẩm). Do đó, trong thời gian chưa có hướng dẫn có thể áp dụng tương tự và trong trường hợp hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 01/2010. Trong trường hợp việc xác định sai được xác định là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì TACPT có thể áp dụng điểm a khoản 2 Điều 250 BLTTHS để hủy bản án sơ thẩm xét xử sơ thẩm lại. Để khắc phục vướng mắc này, cần quy định chính thức của cơ quan có thẩm quyền về việc xác định tư cách người tham gia tố tụng ở giai đoạn XXPT và xử lý việc xác định sai như thể hiện tại Thông tư liên tịch số 01/2010.

2.2. Một số kiến nghị hoàn thiện

Để khắc phục các vướng mắc trong thực tiễn như phân tích bên trên cũng như làm cho các quy định của BLTTHS tương thích với nhau. Chúng tôi kiến nghị một sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTHS như sau:

Thứ nhất, để khắc phục các vướng mắc về phạm vi XXPT, Điều 241 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung như sau: “Nếu có kháng cáo, kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, TACPT xét xử lại toàn bộ vụ án. Nếu có kháng cáo, kháng nghị một phần bản án sơ thẩm, TACPT chỉ xét xử lại phần vụ án có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. TACPT có thể xét xử lại vụ án tại các phần khác không bị kháng cáo, kháng nghị trong trường hợp ở phần đó có điểm cần xem xét để xét xử theo hướng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo”.

Thứ hai, để đề cao vị trí, vai trò và trách nhiệm của các bên tham gia phiên tòa phúc thẩm và để Tòa án thực hiện đúng chức năng xét xử của mình, Khoản 1 Điều 246 BLTTHS cần được sửa đổi như sau: “Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, Viện kiểm sát có thể bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật”.

Thứ ba, để khắc phục tình trạng rút kháng nghị không đúng, kiến nghị, BLTTHS cần quy định Viện trưởng Viện kiểm sát có quyền rút quyết định hủy bỏ quyết định rút kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp hoặc cấp dưới nếu như xét thấy việc rút kháng nghị đó là không có căn cứ để việc XXPT được tiến hành theo luật định.

Thứ tư, để thủ tục phiên tòa phúc thẩm được tiến hành đúng với tính chất của XXPT, kiến nghị sửa đổi, bổ sung Điều 247 BLTTHS như sau:

“1. Phiên tòa phúc thẩm được tiến hành như sau:

a) Chủ tọa phiên tòa khai mạc phiên tòa và tiến hành các thủ tục bắt đầu phiên tòa. Trong trường hợp người tham gia tố tụng chưa được thông báo về việc kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 236 BLTTHS; thông báo về việc đưa vụ án ra xét xử trong thời hạn quy định tại Điều 242 BLTTHS và nếu họ yêu cầu thì HĐXX phải hoãn phiên tòa.

b) Nếu Viện kiểm sát, người kháng cáo bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa, HĐXX xem xét và quyết định tại phòng nghị án. Trong trường hợp cần thiết, HĐXX quyết định hoãn phiên tòa để triệu tập thêm những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị. Nếu rút một phần kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa thì HĐXX xét xử phần còn lại; nếu rút toàn bộ kháng cáo, kháng nghị thì việc XXPT phải được đình chỉ nếu không có kháng cáo, kháng nghị khác.

c) Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên tòa, chủ thể đã kháng cáo hoặc kháng nghị có quyền phát biểu đầu tiên. Nếu có nhiều chủ thể cùng kháng cáo, kháng nghị thì trình tự phát biểu do HĐXX xem xét và quyết định.

2. Các quy định khác về thủ tục phiên tòa sơ thẩm do Bộ luật này quy định được áp dụng đối với phiên tòa phúc thẩm nếu không trái với các quy định tại khoản 1 Điều này.”

Thứ năm, để giới hạn xét xử của cấp phúc tương thích với giới hạn xét xử của cấp sơ thẩm, kiến nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 248 BLTTHS nội dung sau:

“2. Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định các vấn đề sau đây nhưng không được vi phạm giới hạn xét xử được quy định tại Điều 196 của Bộ luật này:…”.

Thứ sáu, để khắc phục các hạn chế về thẩm quyền sửa án bản án sơ thẩm của HĐXXPT, khoản 3 Điều 249 BLTTHS cần được sửa đổi, bổ sung như sau:

“Trong trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị hoặc người bị hại, người đại diện hợp pháp của họ kháng cáo yêu cầu thì TACPT có thể áp dụng hình phạt đối với người được TACST miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt; chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nặng hơn; tăng hình phạt, giữ nguyên hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên nhưng không cho bị cáo được hưởng án treo; áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn; tăng mức bồi thường thiệt hại; áp dụng thêm hình phạt bổ sung; áp dụng thêm biện pháp tư pháp. Trong trường hợp nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất kháng cáo yêu cầu thì TACPT có thể tăng mức bồi thường thiệt hại. Trường hợp có kháng nghị của Viện kiểm sát hoặc kháng cáo của người bị hại, nguyên đơn dân sự, người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người bị hại, nguyên đơn dân sự theo hướng làm xấu đi tình trạng của bị cáo; nếu có căn cứ, Tòa án vẫn có thể giảm hình phạt, áp dụng điều khoản BLHS về tội nhẹ hơn, chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, giữ nguyên mức hình phạt tù và cho hưởng án treo, giảm mức bồi thường thiệt hại.

Nếu có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu chuyển khung hình phạt khác nặng hơn khung hình phạt mà TACST đã áp dụng trong điều luật, TACPT được áp dụng để sửa bản án sơ thẩm, trừ trường hợp khung hình phạt nặng hơn đó không thuộc thẩm quyền xét xử của TACST hoặc cần đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, đảm bảo quy định về thành phần xét xử ở cấp sơ thẩm.

Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị yêu cầu áp dụng điều khoản Bộ luật Hình sự về tội nặng hơn, nếu tội danh nặng hơn đó đã được Viện kiểm sát viện dẫn để truy tố và kháng cáo, kháng nghị là có căn cứ, TACPT có quyền được áp dụng để xét xử.”

Thứ bảy, đối với quy định về thẩm quyền hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại, kiến nghị sửa đổi khoản 1 Điều 250 BLTTHS như sau: “Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm để điều tra lại khi nhận thấy việc điều tra ở cấp sơ thẩm vi phạm pháp luật nghiêm trọng”.

Thứ tám, đối với quy định hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại, kiến nghị bổ sung vào điểm b khoản 2 Điều 250 BLTTHS việc giải thích trường hợp “Toà án cấp sơ thẩm tuyên bố không có tội nhưng có căn cứ cho rằng người đó đã phạm tội” bao gồm: (1) Viện Kiểm sát truy tố bị cáo một hành vi về một tội nhưng TACST tuyên bố bị cáo không phạm tội; (2) Viện Kiểm sát truy tố nhiều tội, TACST chỉ tuyên bị cáo phạm một hoặc một số tội; (3) Viện Kiểm sát truy tố về nhiều hành vi phạm tội về nhiều hành vi khác nhau trong cùng một điều luật (tội ghép), TACST chỉ kết án bị cáo về một hoặc một số hành vi phạm tội về một hoặc một số tội; (4) Viện kiểm sát truy tố bị cáo về nhiều hành vi phạm tội khác nhau cùng về một tội danh, nhưng Toà án cấp sơ thẩm không kết án bị cáo tất cả các hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố, mà chỉ kết án một hoặc một số hành vi mà Viện kiểm sát đã truy tố.

Thứ chín, bổ sung vào Điều 245 BLTTHS khoản 3 quy định về xác định tư cách người tham gia tố tụng ở giai đoạn XXPT như sau:

“…

3. Tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng ở giai đoạn xét xử phúc được xác định như sau:

a) Những người tham gia tố tụng có kháng cáo thì tư cách tham gia tố tụng của họ được xác định như ở cấp sơ thẩm.

b) Đối với bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị thì xác định họ là người bị kết án, có quyền lợi và nghĩa vụ như người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan liên quan đến vụ án.

c) Những người tham gia tố tụng khác thì tư cách tham gia tố tụng của họ được xác định như ở giai đoạn xét xử sơ thẩm.”

XXPT là một trong hai cấp xét xử, được cụ thể hóa từ quy định Hiến pháp và nguyên tắc cơ bản của BLTTHS. Kết quả của xét xử phúc thẩm là bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật thi hành. Chính vì vai trò quan trọng của giai đoạn tố tụng này mà việc nghiên cứu quy định của BLTTHS và tổng kết vướng mắc trong thực tiễn là nhiệm vụ thường xuyên tiến hành nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về nội dung này. Với các vướng mắc được nêu trong bài viết, mặc dù, chưa phải là toàn diện nhưng là những vướng mắc có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động xét xử của Tòa án nói chung, cấp xét xử phúc thẩm nói riêng. Đồng thời, những kiến nghị về XXPT mà bài viết nêu lên hy vọng sẽ góp phần quan trọng hoàn thiện quy định của BLTTHS về xét xử phúc thẩm đang được Viện kiểm sát nhân dân tối cao xây dựng, lấy ý kiến rộng rãi.

ThS. Thái Chí Bình

Tòa án nhân dân thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang


[1] Xem: Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

[2] Xem: Đinh Văn Quế, “TACPT có xét kháng nghị quá hạn?”, Tạp chí TAND số 23, tháng 12/2006, tr.14-16.

[3] Xem: Đỗ Văn Chỉnh, “Bàn về một số vướng mắc trong XXPT hình sự”, Tạp chí TAND số 23, tháng 12/2006, tr.38-44.

[4] Xem: Học viện Tư pháp, 2011, Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, tr.379.

[5] Xem: khoản 2 Điều 249 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Xem: Dự thảo tài liệu hỏi đáp về một số vướng mắc trong quá trình thực thi Bộ luật tố tụng hình sự, dân sự năm 2010 của TAND tối cao.

[7] Xem: Đinh Văn Quế, 2007, Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự (xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm), TP.HCM, Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr.271.

[8] Xem: Vũ Gia Lâm, “Một số vấn đề về phạm vi xét xử và quyền hạn của  vụ án hình sự”, Tạp chí TAND số 18, tháng 9/2009, tr.9-14, 8.

[9]Xem: Quyết định giám đốc thẩm số 09/2005/HS-GĐT ngày 19/4/2005 của Toà hình sự TAND tối cao.

[10] Xem: Điểm c mục 1 Phần II Thông tư liên tịch số 03/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/12/2000 của TAND tối cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao.

[11] Xem: Quyết định giám đốc thẩm số 07/2007/HS-GĐT ngày 11/4/2007 của Toà hình sự TAND tối cao.

[12] Xem: Nguyễn Văn Trượng, Một số vướng mắc khi áp dụng quy định của BLTTHS năm 2003 về XXPT, Tạp chí TAND số 15, tháng 8/2006, tr.24-26.

[13] Xem: Đỗ Văn Chỉnh, Bàn về một số vướng mắc trong XXPT hình sự, Tạp chí TAND số 23, tháng 12/2006, tr.38-44.

[14] Xem: Đinh Văn Quế, “Một số vấn đề về kháng nghị theo thủ tục Phúc thẩm vụ án hình sự”, nguồn:  http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=13771831&article_details=1

[15] Xem: Đỗ Văn Chỉnh, Bàn về một số vướng mắc trong XXPT hình sự, Tạp chí TAND số 23, tháng 12/2006, tr.38-44.

[16] Xem: Phan Thị Thanh Mai, “Hoàn thiện quy định pháp luật về thủ tục phiên tòa XXPT vụ án hình sự”. Nguồn: http://luathinhsu.wordpress.com/2010/01/05/hoan-thien-quy-dinh-phap-luat-ve-thu-tuc-phien-toa-xet-xu-phuc-tham-vu-an-hinh-su/

[17] Xem: Đinh Văn Quế, 2010, Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn (Bài viết “Toà án cấp phúc thẩm áp dụng Điều khoản của Bộ luật hình sự về tội nặng hơn những vấn đề lý luận và thực tiễn”), Nxb. Phương Đông, Tp. Hồ Chí Minh, tr.340-344.

[18] Xem: Vũ Gia Lâm, “Một số vấn đề về phạm vi xét xử và quyền hạn của  vụ án hình sự”, Tạp chí TAND số 18, tháng 9/2009, tr.9-14, 8.

[19] Xem: Đinh Văn Quế, 2010, Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn (Bài viết “Thẩm quyền và phạm vi quyết định của Toà án cấp phúc thẩm”), Nxb. Phương Đông, Tp. Hồ Chí Minh, tr.331-339.

[20] Xem: Nguyễn Đình Huề, TACPT giải quyết như thế nào khi TACST triệu tập sai tư cách người tham gia tố tụng?, Tạp chí TAND số 10, tháng 5/2010, tr.17-19.