Hòa giải trong tố tụng dân sự - Một vài ý kiến để hoàn thiện

13/02/2015
 

Hòa giải là một chế định quan trọng trong tố tụng dân sự. Là hoạt động do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự (VADS). Việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và công dân, giảm bớt giai đoạn tố tụng kéo dài, vừa giải quyết triệt để các mâu thuẩn giữa các đương sự… Do đó, nếu chế định hòa giải không được quan tâm trong việc giải quyết VADS thì quyền và lợi ích của các bên đương sự sẽ không được bảo đảm.

I. Một số quy định về hòa giải VADS

1. Khái niệm

Sau khi thụ lý vụ án, để giải quyết vụ án tòa án tiến hành giải thích pháp luật, giúp đỡ các đương sự giải quyết mâu thuẫn, thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các vấn đề của VADS có tranh chấp. Hoạt động này của tòa án được gọi là hòa giải VADS. Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án dân sự.

Cơ sở của hòa giải VADS là quyền tự định đoạt của các đương sự. Để giải quyết VADS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tòa án không chỉ xét xử mà còn hòa giải VADS. Điều 10 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) quy định, tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật này.

Hoạt động hòa giải được tiến hành trước khi xét xử sơ thẩm VADS. Tuy vậy, theo các Điều 220, 270 BLTTDS thì tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, tòa án cũng hỏi các đương sự có thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết VADS không? Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết VADS thì toà án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Như vậy, việc hòa giải trước khi xét xử sơ thẩm là thủ tục bắt buộc, trừ những việc không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải. Quy định này xuất phát từ tầm quan trọng của hòa giải. Nếu hòa giải thành cũng có nghĩa là tòa án đã hoàn thành việc giải quyết vụ án mà không cần mở phiên tòa.

2. Phạm vi hòa giải VADS

Tại khoản 1 Điều 180 BLTTDS quy định trách nhiệm hòa giải của tòa án: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hoà giải hoặc không tiến hành hoà giải được quy định tại Điều 181 và Điều 182 của Bộ luật này”. Do vậy, hòa giải tiến hành với việc giải quyết hầu hết VADS, trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải. Theo Điều 181 BLTTDS, tòa án không hòa giải đối với những yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước; những VADS phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.

Đối với yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tòa án không tiến hành hòa giải vì tài sản của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Bất cứ hành vi nào gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước đều là trái pháp luật và phải chịu trách nhiệm bồi thường. Người gây thiệt hại không có quyền thương lượng hay thỏa thuận với Nhà nước về trách nhiệm bồi thường của mình. Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại tiểu mục 2 mục II Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP thì

“a. Trường hợp tài sản của Nhà nước được giao cho cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang quản lý, sử dụng hoặc đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến loại tài sản này, Toà án không được hoà giải để các bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

b. Trường hợp tài sản của Nhà nước được Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước, góp vốn trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư của các chủ sở hữu khác theo quy định của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà doanh nghiệp được quyền tự chủ chiếm hữu, sử dụng hoặc định đoạt tài sản và chịu trách nhiệm trước Nhà nước đối với tài sản đó trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, thì khi có yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản đó, Toà án tiến hành hoà giải để các bên đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo thủ tục chung.”

Tức là những trường hợp tài sản của Nhà nước giao cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng mà những đối tượng này có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt thì tòa án vẫn tiến hành hòa giải; còn trường hợp tài sản của Nhà nước giao cho cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp sử dụng nhưng Nhà nước thực hiện quyền sở hữu thông qua cơ quan có thẩm quyền thì Tòa án không được hòa giải.

Đối với những VADS phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, theo hướng dẫn tại tiểu mục 2 mục II Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP thì tòa án không được hòa giải nếu việc hoà giải nhằm mục đích để các bên tiếp tục thực hiện các giao dịch đó. Trường hợp các bên chỉ có tranh chấp về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu do trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, thì Toà án vẫn phải tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó.

Về nguyên tắc, tòa án phải hòa giải VADS trước khi đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Tuy vậy, theo quy định tại Điều 182 BLTTDS đối với những vụ án không tiến hành hòa giải được thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Những vụ án không tiến hành hòa giải được bao gồm:

- Bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.

- Đương sự không thể tham gia hoà giải được vì có lý do chính đáng.

- Đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.

Trong trường hợp bị đơn đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt, thì theo hướng dẫn tại tiểu mục 3 mục II Nghị quyết 02/2005/NQ-HĐTP Toà án lập biên bản về việc không tiến hành hoà giải được do bị đơn vắng mặt và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung. Trong trường hợp tại phiên toà bị đơn có yêu cầu Toà án hoãn phiên toà để tiến hành hoà giải, thì Toà án không chấp nhận, nhưng cần tạo điều kiện cho các bên thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đối với hai trường hợp còn lại, tòa án phải lập biên bản không hòa giải được , nêu rõ lý do để lưu vào hồ sợ vụ án, sau đó đưa vụ án ra xét xử tại phiên tòa.

Đối với những vụ án do cơ quan cơ quan tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác, nếu phải hòa giải thì tòa án không hòa giải giữa cơ quan, tổ chức khởi kiện với bị đơn mà phải hòa giải giữa bị đơn với nguyên đơn (những chủ thể của tranh chấp) hoặc người đại diện của họ trừ trường hợp pháp luật quy định không được hòa giải hoặc không hòa giải được.

3. Thành phần và thủ tục hòa giải

a. Thành phần phiên hòa giải

Theo quy định tại Điều BLTTDS, thành phần phiên hòa giải bao gồm:

- Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.

- Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải.

- Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.

Trong một vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên tòa hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì thẩm phán hoãn phiên hòa giải.

- Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng Việt.

Việc hòa giải là nhằm giúp cho các đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của họ và làm cho việc giải quyết vụ án được hiệu quả cao mà không phải xét xử. Vì vậy, BLTTDS quy định rất rõ là người tiến hành hòa giải là thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, còn thư ký chỉ là người giúp việc và phải có mặt trong phiên hòa giải để ghi biên bản hòa giả. Việc quy định này là cần thiết vì hòa giải là để cho các đương sự giải quyết với nhau trước, bằng cách thương lượng, thỏa thuận và sự thỏa thuận này phải được tòa án công nhận bằng một quyết định và quyết định này có giá trị bắt buộc đối với các bên đương sự và nó cũng đòi hỏi cả sự tôn trọng của xã hội. Vì lẽ đó, BLTTDS quy định bắt buộc người đứng ra tổ chức hòa giải và chủ trì phiên hòa giải phải là thẩm phán và đương sự phải có mặt đầy đủ.

b. Thủ tục tiến hành hòa giải

Theo quy định của Điều 183 BLTTDS, trước khi tiến hành phiên hòa giải, tòa án phải thông báo cho các đương sự, người đại diện hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành phiên hòa giải, nội dung các vấn đề cần hòa giải.

Theo Điều 185 BLTTDS, khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Khi đã có đầy đủ điều kiện để tiến hành hòa giải thì thẩm phán được phân công giải quyết vụ án có cán bộ thư ký tòa án giúp việc ghi biên bản sẽ tiến hành giải phiên hòa giải. Thẩm phán công bố nội dung vụ án tranh chấp, phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền và nghĩa vụ của mình. Thẩm phán phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành hoặc không thành để các bên đương sự tự nguyện thương lượng thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.

Sau khi được thẩm phán hướng dẫn và nghe giải thích pháp luật có liên quan đến vụ án đang tranh chấp, đến lượt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu quan điểm của họ về vấn đề đang tranh chấp và đưa ra định hướng giải quyết. Đối với những ý kiến của đương sự đưa ra cách giải quyết bất hợp lý như khởi kiện tài sản không có căn cứ, yêu cầu bồi thường quá đáng thì thẩm phán chủ trì phải kịp thời phân tích, thẳng thắn chỉ cho họ biết yêu cầu của họ đưa ra là không hợp lý để họ cân nhắc lại.

Khi đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì toà án lập biên bản hòa giải thành, trong đó nêu rõ nội dung tranh chấp và những nội dung đã được đương sự thỏa thuận. Biên bản này chưa có giái trị pháp lý, nó chỉ là tài liệu văn bản xác nhận một sự kiện và nó là cơ sở để tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. Biên bản hòa giải phải có các nội dung theo quy định tại khoản 1 Điều 186 BLTTDS. Ngoài ra, biên bản phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hòa giải, chữ ký của thư ký toà án ghi biên bản và của thẩm phán chủ trì phiên hòa giải. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia hòa giải.

4. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

Khi phiên hòa giải kết thúc, các đương sự đã tìm ra tiếng nói chung, đã thỏa thuận được với nhau một giải pháp để giải quyết vụ án một cách phù hợp, bảo đàm quyền và lợi ích hợp pháp của cả đôi bên và được ghi lại trong biên bản hòa giải. Tuy nhiên, BLTTDS quy định phải dành cho các bên đương sự một thời gian cần thiết nữa để họ suy nghĩ, cân nhắc lại tất cả những nội dung mà họ đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Hết thời hạn đó mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến tòa án mới ra quyết định công nhận.

Theo quy định tại Điều 187 BLTTDS, hết thời hạn 7 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được chánh án toà án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và viện kiểm sát cùng cấp.

Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 BLTTDS mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thỏa thuận của họ có ảnh hướng đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giái trị và được thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên tòa đồng ý bằng văn bản.

Theo quy định tại Điều 188 BLTTDS, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tòa án ban hành. Đương sự không có quyền kháng cáo, viện kiểm sát không có quyền kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định này.

Như vậy, quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự đã khép lại quá trình tố tụng đối với việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, để đề phòng các sai lầm hay vi phạm pháp luật có thể xảy ra trong quá trình tiến hành hòa giải, Điều 188 BLTTDS quy định quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc vi phạm điều cấm của pháp luât, trái đạo đức xã hội.

II - Thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp luật về hòa giải vụ án dân sự trong BLTTDS

1. Ưu điểm của những quy định pháp luật về hòa giải trong BLTTDS

Trong BLTTDS 2004, chế định hòa giải đã được hoàn thiện trên cơ sở kế thừa các quy định về hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự trước đây, pháp điển hóa thành chuẩn mực chung điều chỉnh các quan hệ pháp luật tố tụng phát sinh trong quá trình hòa giải các vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Việc hoàn thiện chế định về hòa giải trong BLTTDS tiếp tục khẳng định ý nghĩa quan trọng của hòa giải trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, đánh dấu bước phát triển mới của chế định này trong giai đoạn hiện nay, thể hiện:

a. Những vụ án dân sự không được hòa giải, những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được

Điều 5 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết Vụ án dân sự quy định trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải giữa các đương sự, trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải. Tuy về nguyên tắc quy định như vậy, nhưng trong phần quy định cụ thể về hòa giả, những điều luật giải thích cụ thể hai thuật ngữ này chưa được thể hiện.

Trong BLTTDS, Điều 81 quy định những VADS không hòa giải được, nghĩa là về bản chất không thể tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự. Nói cách khác, đó là những loại việc pháp luật cấm các bên thỏa thuận về việc giải quyết tranh chấp. Cụ thể, việc gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước chỉ có thể được giải quyết bằng việc bồi thường vì tính chất của loại tài sản này thuộc sở hữu toàn dân, không thể tiến hành hòa giải để giải quyết về số lượng hay nội dung giá trị bồi thường; những quy định vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội không được công nhận từ thời điểm xác lập, do đó không thể bằng thỏa thuận giải quyết nội dung của các giao dịch này.

Khác với vụ án không được hòa giải, những vụ án không tiến hành hòa giải được về bản chất lại là những loại việc pháp luật quy định cần phải tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự khi giải quyết vụ án. Yếu tố dẫn đến việc hòa giải không thực hiện được là những lý do thực tế pháp luật chấp nhận là cơ sở cho việc không cần tiến hành hòa giải giữa các đương sự và tiến hành tiếp tục giải quyết vụ án ở những bước tiếp theo. Theo đó, trong trường hợp cụ thể các bên đương sự không cần tiến hành hòa giải: là trường hợp liên quan đến việc vắng mặt của đương sự và liên quan đến năng lực hành vi đương sự trong trường hợp được xác định. Quy định này góp phần rất tích cực giúp giải quyết vụ án được nhanh chóng, thuận tiện và chính xác. Vì trong thực tế, có nhiều trường hợp, tuy loại việc pháp luật quy định cần hòa giải nhưng các bên đương sự không thể tham gia được phần hòa giải vì cố tình trốn tránh hay có lý do chính đáng, cũng không có khả năng tham gia hòa giải, nếu pháp luật không quy định về những trường hợp này, việc giải quyết vụ án sẽ vướng mắc, kéo dài và khó giải quyết.

b. Thành phần phiên hòa giải

Theo Điều 184 BLTTDS, thành phần phiên hòa giải bao gồm:

“1. Thẩm phán chủ trì phiên hoà giải.

2. Thư ký Toà án ghi biên bản hoà giải.

3. Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự.

Trong một vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hoà giải, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hoà giải và việc hoà giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hoà giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hoà giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hoà giải.

4. Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng Việt.”

So sánh với quy định tại Điều 44 của Pháp lệnh, thì phiên hòa giải quy định trong Bộ luật đầy đủ hơn, hợp lý hơn. Ngoài các bên đương sự như quy định tại Pháp lệnh, Bộ luật đã quy định cụ thể về việc tham gia của người đại diện hợp pháp trong hòa giải. Người đại diện của đương sự có đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự theo quy định của pháp luật, do đó, họ có quyền tham gia hòa giải. Quy định này của bộ luật xác định chính xác địa vị pháp lý của người đại diện, mang tính thống nhất với các quy định về người đại diện của những phần khác của Bộ luật. Ngoài ra, Bộ luật đã quy định cụ thể về sự tham gia của những người tiến hành tố tụng cần có mặt cũng như vai trò cụ thể của họ tại phiên hòa giải. Điều này vừa góp phần thúc đẩy tiến trình giải quyết vụ án được nhanh chóng, vừa xác định rõ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án. Bên cạnh đó, sự tham gia của người phiên dịch khi cần thiết là một quy định mới, hợp lý, thể hiện kết quả hóa từ thực tế thi hành quy định trong Luật.

c. Thủ tục Hòa giải

Việc tiến hành một phiên hòa giải được BLTTDS quy định khá chi tiết và mang tính khả thi. Điểm mới trong thủ tục hòa giải là việc quy định lần đầu tiên về nguyên tắc tiến hành hòa giải. Nguyên tắc là những tư tưởng mang tính chỉ đạo thực hiện. Việc hòa giải phải được tiến hành tuân thủ theo những nguyên tắc do pháp luật quy định, đảm bảo phát huy hết giá trị đích thực và của hoạt động hòa giải trong tố tụng dân sự. Đó là những nguyên tắc: Tôn trọng sự tự thỏa thuận của đương sự, nội dung thỏa thuận không được vi phạm điều cấm của pháp luật; trái đạo đức xã hội.

Thủ tục hòa giải được bộ luật quy định chi tiết từ công việc thông báo của thẩm phán về phiên hòa giải, nội dung cụ thể của biên bản hòa giải, đến việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự cũng như hiệu lực của quyết định này.

2. Một số ý kiến hoàn thiện quy định về hòa giải trong tố tụng dân sự

a. Về nguyên tắc tiến hành hòa giải

- Khoản 2 Điều 180 quy định hòa giải được tiến hành theo nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các đương sự, nội dung thỏa thuận không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Quy định này cần bổ sung thêm nguyên tắc bình đẳng và trung thực. Vì:

Trong đời sống xã hội, thỏa thuận về giải quyết tranh chấp trong hòa giải không phải lúc nào cũng được phân định một cách rõ ràng như luật định mà còn có sự nhường nhịn, bao dung, có lý, có tình. Sự khác nhau về địa vị kinh tế, chính trị, xã hội của các đương sự cóthể dẫn đến trường hợp tự nguyện thỏa thuận nhưng ở tình thế “kẻ hèn phải nhường nhịn kẻ sang”. Do đó cần có sự bình đẳng.

Mặt khác, sự trung thực trong quá trình hòa giải cũng hết sức cần thiết để bảo đảm mọi thỏa thuận đúng bản chất của tranh chấp, chống sự thông đồng, lừa dối của các đương sự khi thỏa thuận.

b. Về hình thức tiến hành hòa giải

Mặc dù quy định về hòa giải trong BLTTDS 2004 đã khắc phục được sự tản mạn, phân tán của các quy định về hòa giải trong nhiều văn bản trước đây như Thủ tục giải quyết vụ án dân sự, kinh tế, tranh chấp lao động… Nhưng thực tiễn cho thấy, khi giải quyết các vụ việc dân sự, ngoài biện pháp hòa giải do tòa án tiến hành thì các đương sự có thể tự thỏa thuận hoặc hòa giải với nhau thông qua vai trò trung gian của bên thứ ba như Luật sư, trọng tài… Tòa án có thể công nhận sự thỏa thuận đó bằng quyết định của tòa án nếu các thỏa thuận là phù hợp với nguyên tắc hòa giải quy định trong BLTTDS 2004 và để việc thi hành án được dễ dàng thì tòa án có thể công nhận bằng một thủ tục do một thẩm phán duy nhất thực hiện, không cần mở phiên tòa.

Mặt khác, trong điều kiện tồn tại nhiều thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay, bên cạnh việc mở rộng phát huy vai trò của các hình thức hòa giải tranh chấp: hòa giải của trọng tài, hòa giải ở các tổ chức hòa giải cơ sở, hòa giải của các tổ chức đoàn thể xã hội… nên chăng đa dạng hóa các hình thức hòa giải, từng bước hoàn thành chế định “thẩm phán hòa giải” tại các tòa án nhân dân cấp huyện với các thủ tục giải quyết đơn giản cho những vụ việc dân sự không phức tạp, tranh chấp về tài sản giá trị không lớn và sau khi hòa giải có thể thi hành ngay. Việc xác lập chế định “thẩm phán hòa giải” sẽ góp phần giải quyết nhanh chóng các tranh chấp mà không cần qua thủ tục tố tụng phức tạp, thậm chí tòa án có thể chỉ là người làm chứng cho việc thỏa thuận của các bên tranh chấp khi được các đương sự yêu cầu và công nhận các thỏa thuận đó nếu không trái pháp luật.

c. Về thành phần phiên tòa

Như đã nêu, thành phần phiên tòa theo quy định tại Điều 184 bao gồm: thẩm phán, thư ký phiên tòa, các đương sự và người đại diện hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, khoản 3 Điều 64 BLTTDS quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền “tham gia việc hòa giải”. Việc quy định như vậy đã dẫn tới nhiều ý kiến chưa thống nhất liên quan đến phiên hòa giải.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người được đương sự nhờ và được tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Tuy cùng tham gia với tư cách đương sự trong tố tụng nhưng địa vị pháp lý của người này khác về chất so với người đại diện của đương sự. Nếu người đại diện thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bản thân đương sự thì người bảo vệ lại thực hiện các quyền và nghãi vụ của chính họ. Vai trò chủ yếu của họ trong tố tụng thể hiện ở sự hỗ trợ trong nhận thức pháp luật và góp phần giúp đỡ tòa án trong quá tình giải quyết vụ án dân sự. Chính vì vậy Điều 184 chỉ quy định sự có mặt của Tòa án mà không quy định về sự có mặt của người bảo vệ.

Tuy vậy, với sự quy định như hiện nay tại Điều 64, thì thành phần phiên hòa giải chưa được xác định rõ ràng. Điều 25 Pháp lệnh đã từng quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, được tham dự hoà giải. Khi một chủ thể tham gia vào một phiên hòa giải nghĩa là họ sẽ thể hiện vai trò chủ động trong hòa giải, thuộc thành phần của phiên hòa giải, còn vai trò vị trí nói chung của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, có thể thấy, vai trò của họ chỉ là tham dự mới chính xác. Do đó, để đảm bảo thống nhất giữa các quy định liên quan đến vấn đề tham gia phiên hòa giải, nên quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự chỉ có quyền tham dự hòa giải.

d. Về tiến hành hòa giải ở cấp phúc thẩm

Theo Điều 180 BLTTDS, hòa giải tại cấp sơ thẩm là một thủ tục bắt buộc. Nghĩa là trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, Tòa án phải tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự trừ trường hợp không hòa giải được và không được hòa giải được. Trong những trường hợp cần hòa giải, chỉ khi các đương sự không thể thống nhất với nhau về các vấn đề cần giải quyết , vụ án mới được đưa ra xét xử. Quy định này xuất phát từ những ý nghĩa và giá trị của việc hòa giải với quá trình giải quyết vụ án.

Tuy nhiên, việc hoài giải trong thời hạn chuẩn bị xét xử tại cấp phúc thẩm có phải là một thủ tục bắt buộc hay không? Vấn đề này không được quy định rõ ràng trong bộ luật. Nhưng theo quy định như vậy được hiểu thủ tục hòa giải là không bắt buộc đối với cấp phúc thẩm. Bởi vì theo quy định tại chương XVI về chuẩn bị xét xử phúc thẩm tại Phần thứ 3 quy định về thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp phúc thẩm, trách nhiệm tiến hành hòa giải của tòa án cũng như vấn đề ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự không được đề cập đến. Như vậy cho dù Tòa án có tiến hành hòa giải giữa các đương sự thì cũng không có thủ tục tiến hành trong hoạt động sau đó, vụ án vẫn phải đưa ra xét xử, trừ trường hợp đương sự tự nguyện rút đơn của mình.

Phúc thẩm là thủ tục xét lại vụ án dân sự mà bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật khi có yêu cầu của đương sự hoặc viện kiểm sát theo quy định của pháp luật, đảm bảo cho vụ án được giải quyết chính xác và hợp lý. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, nếu Tòa án tiến hành hòa giải giữa các bên đương sự, ý nghĩa về giảm bớt chi phí tố tụng và đảm bảo là giải quyết mâu thuẫn triệt để giữa các bên càng phát huy tác dụng. Do đó, nên quy định việc hòa giải cũng là bắt buộc trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm và quy định thêm về thủ tục kèm theo để việc tiến hành thủ tục này được đảm bảo. Ví dụ như nếu qua hòa giải mà người kháng cáo rút đơn thì tòa án đình chỉ việc xét xử phúc thẩm. Nếu các đương sự chỉ thỏa thuận với nhau về việc giải quyết một phần các yêu cầu trong đơn kháng cáo thì tòa án ghi nhận sự thỏa thuận đó trong bản án phúc thẩm khi mở phiên tòa xét xử các tranh chấp còn lại. Như vậy, về trình tự, thủ tục tố tụng dân sự, nguyên tắc hòa giải phải được thực hiện trong các trường hợp sau đây:

- Trường hợp thứ nhất: Hòa giải và chuẩn bị xét xử (hòa giải lần 1)

- Trường hợp thứ hai: Hòa giải tại phiên tòa sơ thẩm (hòa giải lần 2)

- Trường hợp thứ ba: Hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm (hòa giải lần 3)./.

Minh Nhất