Vai trò của phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật

18/07/2012
Phản biện xã hội trong hoạt động xây dựng pháp luật được xem là sự đánh giá về tính hợp lý, sự chính đáng, đúng đắn của một chính sách hay quy định pháp luật của nhà nước dưới góc độ lợi ích của toàn xã hội hay một nhóm xã hội nào đó. Nhận thức được vai trò to lớn đó của phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) hiện hành đã quy định rõ quyền của các cá nhân, tổ chức trong việc tham gia góp ý kiến đối với các dự thảo văn bản QPPL. Bên cạnh đó, Luật cũng quy định trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo Dự thảo văn bản QPPL phải đăng tải trên trang điện tử của cơ quan mình [1. Đây là một trong những “kênh” để phản biện đối với các dự thảo văn bản. Nếu làm tốt các hoạt động này thì chất lượng xây dựng văn bản QPPL sẽ ngày một tốt hơn.

1. Phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật

Càng ngày chúng ta càng thấy rõ hơn những ý nghĩa tích cực của phản biện xã hội, của phương châm “dân biết, dân bàn”. Bởi phản biện là tạo ra sự tương tác, sự hợp tác giữa các lực lượng xã hội để tìm ra phương án tối ưu nhất, làm tăng thêm chất lượng, tính thuyết phục, sự sáng suốt trong các quyết định của những người thay mặt nhân dân lãnh đạo, quản lý đất nước.

Phản biện là đưa ra những nhận xét, đánh giá khách quan, vô tư về sự cần thiết, về chất lượng nội dung, hình thức thể hiện của công trình, dự án, đề tài nào đó theo yêu cầu của chủ thể đề nghị phản biện. Phản biện được sử dụng nhiều trong việc đánh giá về các công trình khoa học như luận văn, luận án, đề tài nghiên cứu khoa học… Nội dung các vấn đề được yêu cầu phản biện tuỳ thuộc vào đối tượng phản biện. Chẳng hạn, nếu đối tượng phản biện là một công trình kiến trúc, xây dựng thì nội dung phản biện thường liên quan đến tính thẩm mỹ, sự vững chắc, giá trị sử dụng, sự hài hoà với cảnh quan… của công trình, còn đối tượng phản biện là dự án, đề tài nghiên cứu khoa học… thì nội dung phản biện lại tập trung vào những vấn đề như tính cấp thiết của đề tài, nội dung và hình thức của công trình, những đóng góp khoa học về mặt lý luận và ý nghĩa thực tiễn của công trình… Trong quá trình phản biện chủ thể phản biện sẽ trình bày các quan điểm, các luận cứ khoa học để thể hiện sự đồng tình, ủng hộ hoặc phản bác, không đồng tình đối với các quan điểm, nội dung, hình thức… các vấn đề mà tác giả đã thể hiện trong công trình và được yêu cầu phản biện. Chủ thể phản biện cũng có thể bằng những lập luận và luận cứ khoa học thuyết phục chỉ ra những khiếm khuyết, hạn chế của các vấn đề thuộc đối tượng phản biện, có thể đề xuất những ý kiến, những nội dung đề nghị tác giả của đối tượng phản biện cần phải bổ sung, sửa chữa, hoàn thiện cho đối tượng phản biện hoàn thiện hơn, có giá trị khoa học và thực tiễn cao hơn, tốt hơn.

Như vậy, xét về nội dung, hình thức và mục đích thì hoạt động phản biện có nhiều điểm tương đồng với “đóng góp ý kiến, kiến nghị”. Bởi đóng góp ý kiến và kiến nghị cũng thể hiện ở việc chủ thể đóng góp ý kiến, kiến nghị có thể nêu ra các quan điểm, ý kiến, đề nghị của mình (có thể bằng văn bản và cũng có thể bằng lời nói) về các vấn đề mà họ quan tâm hoặc có ảnh hưởng đến lợi ích của họ và/hoặc lợi ích chung của xã hội. Phản biện và đóng góp ý kiến, kiến nghị đều trên tinh thần xây dựng với mục đích làm cho cho công trình, dự án hay hoạt động nào đó được tốt hơn, hoàn thiện, phù hợp hơn... trong tương lai.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh: “Xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận tổ quốc, các tổ chức chính trị- xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức cán bộ”  [2] trong đó đặc biệt “Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước”  [3] Nghị quyết của Đảng cũng yêu cầu: “Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các Đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”   [4].

Chủ trương trên của Đảng đã thu hút được sự quan tâm sâu sắc của các cơ quan, tổ chức của Đảng, các cơ quan của Nhà nước, tổ chức Mặt trận, các tổ chức chính trị- xã hội khác và các tầng lớp nhân dân trong nước cũng như sự chú ý từ các tổ chức quốc tế và các lực lượng ở ngoài nước. Điều này cũng minh chứng cho quá trình dân chủ hoá đời sống nhà nước và xã hội đã và đang diễn ra trên đất nước ta hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân theo tinh thần “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, thời gian qua nhiều cuộc thảo luận, tranh luận sôi nổi về các vấn đề liên quan đến phản biện xã hội như đối tượng phản biện, giá trị, tác dụng của phản biện xã hội…

Phản biện xã hội, đương nhiên là phản biện từ phía xã hội, các chủ thể phản biện ở đây được xem là các tổ chức phi nhà nước (tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, tổ chức thuộc xã hội dân sự…), các cộng đồng dân cư (làng xã, khu dân cư, vùng dân cư, các dân tộc…), các nhóm lợi ích xã hội (nhóm xã hội có chung lợi ích như thanh niên, phụ nữ, trẻ em, người già…), các cá nhân.

Đối tượng phản biện xã hội là các hoạt động của Đảng và Nhà nước, mà cụ thể là: Việc hoạch định và tổ chức thực hiện những đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng, kể cả đối với công tác tổ chức cán bộ; các kế hoạch hoạt động và công tác tổ chức thực hiện những chính sách, các dự án pháp luật, các quyết định lớn của Nhà nước có ảnh hưởng lớn tới môi trường sống, tới lợi ích của nhiều người, cần phải cân nhắc, tính toán thật kỹ lưỡng trước khi tiến hành. Chủ thể yêu cầu phản biện là những tổ chức, cơ quan, cá nhân quản lý, sử dụng hoặc sáng tạo những đối tượng cần phản biện.

2. Vai trò của phản biện xã hội đối với xây dựng pháp luật

Phản biện trong hoạt động xây dựng pháp luật được xem là sự đánh giá về tính hợp lý, sự chính đáng, đúng đắn của một chính sách hay quy định pháp luật của nhà nước dưới góc độ lợi ích của toàn xã hội hay một nhóm xã hội nào đó. Thông thường chính sách hay quy định pháp luật của nhà nước trên phạm vi quốc gia hay địa phương nào đó đều có ảnh hưởng, nhiều khi khá lớn đến lợi ích của các lực lượng xã hội nhất định nên mỗi lực lượng có phản ứng khác nhau. Bởi trong xã hội do sự đa dạng về lợi ích của các lực lượng xã hội nên cũng dẫn đến sự đa dạng về quan điểm đối với các chính sách hay quy định pháp luật.

Hoạt động phản biện xã hội đối với chính sách hay quy định pháp luật còn có tác dụng mở rộng và thực hành dân chủ, để các tổ chức, cá nhân có điều kiện thể hiện được quan điểm, chính kiến của mình đối với các vấn đề thuộc đối tượng phản biện có ảnh hưởng lớn hoặc lâu dài đến lợi ích của cộng đồng, nhà nước, xã hội hoặc các cá nhân nhằm hướng tới các giá trị của “chân - thiện - mỹ”, vì mức sống và chất lượng cuộc sống tốt hơn. Tránh được những ý kiến đóng góp chỉ mang tính chất ủng hộ, khen một chiều, thậm chí là xu nịnh các tác giả của chính sách hay quy định pháp luật được đưa ra để mọi người đóng góp ý kiến.

Bên cạnh những tác dụng tốt như đã nêu trên thì phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật cũng có những vấn đề nhất định của nó mà không phải tổ chức, cá nhân nào cũng muốn tiến hành. Bởi hoạt động phản biện xã hội đối với một số tổ chức và cá nhân là một sự tiêu tốn mất một khoảng thời gian, công sức, chi phí tiền của nhất định. Đôi khi còn làm chậm tiến độ của dự án, gây phức tạp vấn đề. Ngoài ý kiến đồng tình, ủng hộ, trong hoạt động phản biện có thể có cả những ý kiến không ủng hộ gây khó khăn cho ý định, mong muốn của cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền ban hành pháp luật. Và ở một mức độ nào đó các ý kiến không đồng tình, không ủng hộ cũng phản ánh năng lực, trình độ hoặc có thể là động cơ không trong sáng của cơ quan hay cá nhân có thẩm quyền ban hành pháp luật trong trường hợp đó. Do vậy, chỉ những cơ quan, cá nhân nào với động cơ trong sáng, cầu thị, thực sự vì lợi ích chung, vì tiến bộ xã hội thì mới mong muốn và ủng hộ phản biện xã hội đối với chính sách hay quy định pháp luật mà mình có thẩm quyền ban hành.

Chính vì vậy, phản biện xã hội đối với các hoạt động của Nhà nước trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách, xây dựng các văn bản pháp luật, các quyết định lớn liên quan đến lợi ích, sự phát triển của đất nước ở nước ta chỉ có thể được tiến hành và tiến hành thuận lợi khi có sự lãnh đạo kịp thời của các tổ chức đảng, sự kiên quyết của các cơ quan nhà nước và sự phối hợp hoạt động có hiệu quả của các tổ chức, cá nhân được yêu cầu phản biện.

Do nhiều lý do khác nhau nên thời gian qua ở Việt Nam hoạt động phản biện các chính sách, các dự án văn bản pháp luật là chưa nhiều, nội dung của nhiều hoạt động phản biện chỉ được thực hiện dưới hình thức các tổ chức và cá nhân tham gia đóng góp ý kiến, kiến nghị với các cơ quan Nhà nước về các vấn đề bức xúc trong xã hội. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã chỉ rõ [5]: “Ðảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể. Ðảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”. Tuy nhiên, trên thực tế cũng chưa có những quy định chi tiết, cụ thể về quy trình phản biện, giá trị của những ý kiến phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân nên việc triển khai các hoạt động phản biện dưới hình thức phản biện chưa thể thực hiện được.

Có thể nói, vấn đề phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam đang trong quá trình định hình và hoàn thiện, nhưng những gì mà xã hội Việt Nam làm được trong thời gian qua thông qua hình thức góp ý, kiến nghị với Đảng, Nhà nước Việt Nam là vô cùng to lớn và hiệu quả. Mặc dù chỉ là những ý kiến đóng góp và kiến nghị của các tổ chức và cá nhân mà Đảng, Chính phủ và các cấp chính quyền đã kiên quyết điều chỉnh, thay đổi một số dự án văn bản quy phạm pháp luật cho phù hợp và hiệu quả hơn, cho dù những thay đổi đó đã gây tốn kém không ít về thời gian, tiền bạc, của cải cho nhiều tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, nhưng cái được rất lớn là lợi ích lâu dài của đất nước, lòng tin của nhân dân vào sự sáng suốt, đúng đắn của Đảng, Nhà nước trong việc nhận ra và quyết tâm điều chỉnh hoặc sửa chữa những sai lầm, hạn chế trong những quyết sách, những dự án pháp luật của mình sao cho hiệu quả, phù hợp với nguyện vọng, mong muốn của nhân dân. Những kết quả đó có tác dụng cổ vũ, khuyến khích các tổ chức, cộng đồng, cá nhân chủ động tham gia và tham gia tích cực, có hiệu quả vào việc đóng góp ý kiến, kiến nghị với Đảng và Nhà nước về các chủ trương, quyết sách, những văn bản, quy định pháp luật quan trọng của có ảnh hưởng lớn tới lợi ích của đất nước và nhân dân.

3. Giải pháp nâng cao vai trò của phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật

Để có thể phát huy vai trò và tạo điều kiện thuận lợi để mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của đảng và Nhà nước, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội cần:

- Đẩy nhanh tiến độ xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, phương thức hoạt động. Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên phải thực sự là công bộc của nhân dân. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước thống nhất, trên cơ sở có sự phân công, phối hợp và kiểm soát hợp lý giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Xây dựng và hoàn thiện thể chế liên quan đến hoạt động phản biện đối với  hoạt động xây dựng pháp luật của Nhà nước theo hướng tăng tính bắt buộc của các nhận xét, đánh giá phản biện. Trước hết là đối với Mặt trận và các đoàn thể nhân dân cần phải có những quy định cụ thể về đối tượng, phạm vi, hình thức và trình tự phản biện của từng chủ thể cụ thể. Bởi muốn phản biện xã hội đạt được hiệu quả thì phản biện phải có định hướng, có nơi, có chỗ nên phạm vi, quy mô, nội dung các vấn đề cần phản biện phải được tính toán, cân nhắc sao cho phù hợp với mục đích phản biện.

Đổi mới, nâng cao chất lượng tổ chức, hoạt động và năng lực phản biện của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân để khi được yêu cầu phản biện xã hội đối với hoạt động xây dựng pháp luật và các hoạt động khác của Đảng và Nhà nước họ có thể đưa ra những đánh giá, ý kiến phản biện có chất lượng, đảm bảo tính khoa học, độ tin cậy của việc phản biện.

- Hoàn thiện quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước. Đối với những quyết định lớn của Đảng và Nhà nước phải bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể và phải có cơ chế để nhân dân bày tỏ ý kiến.

- Xây dựng Luật trưng cầu dân ý (để tranh thủ ý kiến nhân dân, hạn chế những biểu hiện phản đối, bất bình của nhân dân đối với các chính sách, các văn bản của các cơ quan nhà nước). Đối với những chính sách, dự thảo văn bản pháp luật có ảnh hưởng lớn tới quốc kế, dân sinh thì ngoài việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của nhân dân, thì trong những điều kiện cho phép các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tổ chức yêu cầu phản biện xã hội của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.

- Thực hiện đầy đủ việc công khai, minh bạch những chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của nhà nước (trừ những gì cần phải bí mật). Các cơ quan nhà nước không nên dựa vào các lý không chính đáng để bưng bít thông tin, đặt cơ quan nhà nước cấp trên hoặc nhân dân trước những quyết định đã rồi. Việc bưng bít thông tin, không thực hiện đúng quy chế dân chủ, không thực hiện đánh giá phản biện xã hội trước khi đưa ra những quyết định, những văn bản pháp luật nhiều khi phải trả bằng những giá quá đắt là tiền của, công sức của nhà nước, của nhà đầu tư mà xét đến cùng là của nhân dân, là sự sói mòn, sự tổn thương lòng tin của nhân dân vào năng lực và sự công tâm của những người đại diện cho họ. Những người đó đại diện cho nhân dân những lại không nói lên tiếng nói của nhân dân, làm ngược lại với lợi ích của nhân dân đối lập với nhân dân.

KN

 

[1] Luật Ban hành văn bản QPPL năm 2008

Điều 4.

1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên, tổ chức khác, cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân và cá nhân có quyền tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

2. Trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo và cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm tạo điều kiện để các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân tham gia góp ý kiến về dự thảo văn bản; tổ chức lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản.

Điều 35.

 Trong quá trình soạn thảo dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết, cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo phải lấy ý kiến cơ quan, tổ chức hữu quan và đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của văn bản; nêu những vấn đề cần xin ý kiến phù hợp với từng đối tượng lấy ý kiến và xác định cụ thể địa chỉ tiếp nhận ý kiến; đăng tải toàn văn dự thảo trên Trang thông tin điện tử của Chính phủ hoặc của cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo trong thời gian ít nhất là sáu mươi ngày để các cơ quan, tổ chức, cá nhân góp ý kiến.

[2]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr. 135.

[3] . Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr. 305.

[4]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr. 124.

[5]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Báo Nhân dân điện tử ra ngày 19/3/2011.