Phần thứ nhất: Vai trò của Ngành Tư pháp trong chính thể nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960)1. Bộ Tư pháp trong những ngày đầu của Nhà nước Dân chủ nhân dân
Với khát vọng cháy bỏng về một chính thể dân chủ mà quyền lực thống nhất thuộc về nhân dân, trong Tuyên ngôn Độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã khẳng định rõ các quyền cơ bản của con người. Và để bảo vệ cũng như hiện thực hóa các quyền đó, cần phải nhanh chóng xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt, thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xây dựng một nền tư pháp nhân dân. Minh chứng cho điều này, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra lời Tuyên cáo thành lập Nội các Thống nhất Quốc gia gồm 12 Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp do ông Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng.
Ngày 01/12/1945, để đặt cơ sở đầu tiên cho việc tổ chức Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã ký ban hành Nghị định số 37 về tổ chức Bộ Tư pháp. Nghị định này cùng với nhiều Sắc lệnh của Chủ tịch nước đã định hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp trong giai đoạn này. Theo Nghị định số 37, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo và tổ chức thi hành các đạo luật về quyền tự do, dân chủ của cá nhân, về dân sự, thương sự, hình sự và thủ tục tố tụng, tổ chức và quản trị các Tòa án, việc truy tố tội phạm, tư pháp công an, thi hành các án phạt, quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân, quản lý các viên chức Tòa án, viên chức ngạch tư pháp, luật sư, đại tụng viên, thừa phát lại, hỗ giá viên, phụ trách công việc quốc tịch, thực hiện các hiệp định tương trợ tư pháp và ủy thác tư pháp với nước ngoài...
Về cơ cấu tổ chức, Bộ Tư pháp gồm có một văn phòng và các phòng sự vụ. Văn phòng đặt dưới quyền điều khiển của Đổng lý Văn phòng và Chánh Văn phòng, có các tham chính văn phòng giúp việc và trong trường hợp cần thiết sẽ đặt những đặc vụ ủy viên. Văn phòng có nhiệm vụ là giúp ông Bộ trưởng trong các công việc tổ chức tư pháp, để thực hiện những phương châm của Chính phủ và trông nom tất cả việc trong nội bộ thuộc về sự giao thiệp với các cơ quan quốc gia và với người nước ngoài. Các phòng sự vụ đặt dưới quyền điều khiển của ông Đổng lý văn phòng, tạm thời kiêm chức Đổng lý sự vụ. Các phòng sự vụ gồm có: Phòng sự vụ nội bộ; phòng viên chức và kế toán; phòng giám đốc hộ vụ; phòng giám đốc hình vụ; phòng giám đốc việc quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân [1].
Có thể khẳng định, Nghị định số 37 đã đặt nền móng cho một nền tư pháp dân chủ nhân dân ra đời và phát triển, là cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp, xác định vai trò của Bộ Tư pháp và Ngành Tư pháp là cơ quan trọng yếu của chính quyền, bước đầu xây dựng và phát triển chế độ “Tư pháp nhân dân” của Nhà nước dân chủ cộng hòa.
Đất nước không thể một ngày không có luật pháp, vì vậy, công việc được chú trọng của Ngành Tư pháp ngay từ những ngày đầu của chính quyền non trẻ là soạn thảo một Sắc lệnh trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 10/10/1945 để giữ lại các quy định pháp luật của chế độ cũ (trừ những luật lệ có phương hại đến nền độc lập quốc gia). Đồng thời, triển khai tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp với các chức năng cơ bản là bảo đảm quyền dân chủ của con người, thông qua những quy định pháp luật về thẩm quyền trong việc bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử, giam, tha phạm nhân; thẩm quyền tổ chức các Tòa án dân sự, thương sự, hình sự, công việc thực hiện các hiệp định tương trợ và ủy thác tư pháp với nước ngoài; thẩm quyền tổ chức và quản lý các chức danh tư pháp khác nhau; lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ của Ngành Tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán để chuẩn bị thiết lập hệ thống Tòa án trên cả nước.
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL quy định về tổ chức các đoàn thể luật sư. Sắc lệnh gồm 7 điều, theo đó quy định tổ chức các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ và tổ chức hoạt động theo Sắc lệnh ngày 25/5/1930. Tuy nhiên, có một số quy định sửa đổi như: Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án Quân sự… Những luật sư đã tập sự được 18 tháng thì Hội đồng luật sư có thể cho phép tạm quản lý một Văn phòng [2].
Ngày 03/12/1945, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Nghị định về việc thành lập một Hội đồng để nghiên cứu cách tổ chức các Tòa án và ngạch thẩm phán. Hội đồng gồm có nhiều luật gia, thân sĩ và nhân viên cao cấp trong Bộ.
Cũng trên cơ sở đề xuất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán. Sắc lệnh gồm 2 chương với 114 điều quy định về tổ chức của Ban Tư pháp xã, Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm và các ngạch thẩm phán, việc tuyển bổ các thẩm phán, đặc quyền và nghĩa vụ của các thẩm phán, kỷ luật, tạm quyền, đổi chức vị, y phục các thẩm phán và tổng lệ.
Cũng theo Sắc lệnh này, nền tư pháp mới của nước ta được tổ chức trên hai nguyên tắc: (i) Tư pháp độc lập với hành chính. Điều 47 Sắc lệnh số 13/SL quy định: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào công việc tư pháp”; (ii) Nhân dân tham gia việc xét xử. Nguyên tắc này được thể hiện ở cấp xã, nhân viên phụ trách công việc tư pháp đều do Hội đồng nhân dân xã trực tiếp bầu ra. Ở cấp tỉnh và kỳ, dưới danh nghĩa phụ thẩm nhân dân, nhân dân được tham dự vào việc xử án kể cả tiểu hình và đại hình. Đối với các vụ đại hình, phụ thẩm nhân dân không những quyết đoán về tội trạng mà còn quyết đoán cả về hình phạt.
Có thể nói, ngay từ những ngày đầu, hệ thống các cơ quan Tòa án của nước Việt Nam mới đã được thành lập, tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc rất cơ bản của nền tư pháp dân chủ, hiện đại, đó là:
- Độc lập xét xử và thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật.
- Có các phụ thẩm (hội thẩm) tham gia xét xử.
- Xét xử công khai (trừ những vụ việc đặc biệt).
- Bảo đảm quyền bào chữa của các bị cáo.
Sắc lệnh số 13/SL cũng là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ về việc tổ chức giải quyết các tranh chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Tòa án và quy định một cách cụ thể về tiêu chuẩn của thẩm phán, cách tuyển chọn và đối tượng được tuyển chọn, quyền và nghĩa vụ của thẩm phán [3]. Theo Sắc lệnh số 13/SL, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 và Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946, hệ thống các viên chức và cơ quan công tố được thiết lập nằm trong hệ thống Tòa án các cấp. Hệ thống Tòa án, cơ quan công tố đều do Bộ Tư pháp trực tiếp quản lý về tổ chức và hoạt động. Ngày 20/7/1946, thay mặt Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Sắc lệnh số 131/SL về việc tổ chức Tư pháp công an phục vụ hoạt động tố tụng xét xử. Phụ trách Tư pháp công an là Dự thẩm, Biện lý và Phó Biện lý là các viên chức thuộc hệ thống Tòa án do Bộ Tư pháp quản lý.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, với những nỗ lực vượt bậc của Bộ Tư pháp, về cơ bản, hệ thống các cơ quan tư pháp đã được thành lập. Các công tác như xây dựng, pháp điển hệ thống pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng, công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, Tòa án, nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này đã được Bộ Tư pháp phát triển bước đầu đạt hiệu quả, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân trong những ngày đầu thành lập.
Sau khi hệ thống cơ quan tư pháp được thành lập ở Trung ương, hệ thống cơ quan tư pháp địa phương cũng được khẩn trương xúc tiến thành lập. Dựa theo thiết kế chính quyền địa phương của Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 về tổ chức chính quyền địa phương, hệ thống cơ quan tư pháp địa phương được xây dựng thành 3 Sở Tư pháp ở 3 miền gồm:
- Sở Tư pháp Bắc Bộ;
- Sở Tư pháp Trung Bộ;
- Sở Tư pháp Nam Bộ.
Ngày 02/3/1946, tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, toàn thể đại biểu toàn quốc (được trúng cử trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 23/12/1945 và ngày 06/01/1946) đã họp kỳ họp đầu tiên của Quốc hội Khóa I. Tại kỳ họp này, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu với 10 Bộ trong Hội đồng Chính phủ thay cho Chính phủ Liên hiệp lâm thời. Nội các của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến bao gồm các thành phần thể hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân. Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe được điều động sang giữ chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến.
2. Bộ Tư pháp trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân pháp
Ngày 19/12/1946 - Toàn quốc kháng chiến. “Cách mạng bùng lên và kháng chiến trường kỳ”, chấp hành Chỉ thị của Chính phủ, Bộ Tư pháp gấp rút chuẩn bị bộ máy thích ứng với cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Theo Thông lệnh số 12/NV-CT ngày 29/12/1946 về tổ chức tư pháp trong tình thế đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đặt ở mỗi khu hoặc liên khu một Sở Tư pháp để trông coi việc tư pháp và giúp ý kiến cho Ủy ban bảo vệ Khu, Liên khu (Ủy ban hành chính kháng chiến Khu, Liên khu). Ở cơ sở, Ban Tư pháp xã gồm Ban Thường vụ của Ủy ban hành chính cấp xã kiêm cả việc tư pháp (có thẩm quyền hòa giải các vụ dân sự, thương sự, phạt vi cảnh...).
Trong thời kỳ này, tổ chức cơ quan Bộ Tư pháp gọn nhẹ gồm 12 người, các cán bộ khác có năng lực được đưa xuống giúp các Ủy ban hành chính kháng chiến Liên khu hoặc Khu về công tác tư pháp; hoặc làm Giám đốc các Sở Tư pháp Liên khu hoặc Khu vừa được thành lập. Công tác tư pháp chủ yếu là tiếp tục đào tạo, huấn luyện đội ngũ thẩm phán, củng cố, kiện toàn các Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp trong cả nước; tổ chức, kiện toàn hệ thống các Tòa án quân sự, các cơ quan thi hành án, hỗ giá viên, tư pháp, công an, luật sư, tư pháp bổ trợ, củng cố các trại giam. Công tác xây dựng pháp luật, giữ gìn trật tự các khu giải phóng, xây dựng hệ thống các cơ quan Tư pháp Liên khu, Khu và Tư pháp xã cũng được chú trọng… Tất cả những hoạt động này cũng nhằm phục vụ và góp phần đắc lực vào đường lối chiến tranh nhân dân, toàn diện kháng chiến theo đường lối của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong năm 1947, các Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần I, II và III đã được tổ chức nhằm giúp cho Bộ Tư pháp nắm sát hơn về tình hình tư pháp trong cả nước, trao đổi kinh nghiệm, giải quyết nhiều vấn đề chuyên môn pháp lý và kinh nghiệm thực hành. Đặc biệt, Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ III tổ chức vào cuối tháng 9 năm 1947 dưới sự chủ trì trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe đã thảo luận và quyết nghị về một số vấn đề quan trọng như: Việc bảo đảm tự do cá nhân và chế độ lao tù; việc tổ chức tư pháp trong các vùng bị quân địch chiếm đóng; nới rộng thẩm quyền cho các Tòa án; chế độ cho các luật sư trong thời kỳ chiến tranh; vấn đề tư pháp công an...
Tháng 02 năm 1948, tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IV, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư thăm hỏi các đại biểu tham dự Hội nghị. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong cuộc kháng chiến này, các bạn đã góp một phần lực lượng lớn. Từ Bộ trưởng, Thứ trưởng đến toàn thể nhân viên, ai cũng chịu khổ, chịu khó, tận tụy hy sinh, để làm tròn nhiệm vụ. Đó là một sự vẻ vang cho giới tư pháp ta”. Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở: “Các bạn là viên chức của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa mà các bạn đã giúp xây dựng nên. Chính thể dân chủ của ta tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã chiến thắng nhiều cuộc thử thách, nó đã chứng tỏ rằng quả thật là đầy tương lai. Do đó, nhiệm vụ các bạn phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ. Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của Chính quyền, cho nên càng phải tinh thành đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan khác để tránh những mối xích mích lẫn nhau, nó có thể vì lợi quyền nhỏ và riêng mà hại đến quyền lợi to và chung, cho cả tư pháp và hành chính. Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên, các bạn cần phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo” [4].
Tháng 9 năm 1948, Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ V được nhóm họp, các đại biểu tham dự Hội nghị đã thảo diễn văn gửi lên Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, nguyện trung thành với Chính phủ kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nền tư pháp dân chủ nhân dân và theo đúng đường lối của Chính phủ để giành độc lập và thống nhất cho dân tộc.
Tháng 10 năm 1948, Hội nghị Tư pháp liên khu miền Nam Trung bộ cũng được tổ chức và cùng thời gian này, Trường Đại học Pháp lý được thành lập và khai giảng khóa đầu tiên tại huyện Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Yên cũ). Chương trình học dựa trên chương trình của Đại học Luật Paris (Cộng hòa Pháp) và có bổ sung thêm một số môn chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan của lịch sử, Trường Đại học Pháp lý chỉ tồn tại đến năm 1950 [5].
Cũng vào cuối năm 1948, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe đã có bài viết về “Tư pháp kháng chiến” nhằm thống nhất nhận thức, động viên, thúc giục cán bộ tư pháp hòa mình vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Mở đầu, Bộ trưởng giải thích yêu cầu của cuộc kháng chiến là chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn diện, vì vậy, phải mở một mặt trận tư pháp, đánh giặc bằng khí giới tư pháp, trong việc xử án, bằng việc xử án. Ông thúc giục mỗi cán bộ tư pháp phải xông pha nguy hiểm, chịu đựng gian khổ, có khi phải hy sinh tính mệnh để tranh giành với giặc công việc xử án cho dân, bởi đó là tượng trưng chính quyền của ta một cách rõ rệt và nó làm cho nhân dân tin tưởng vào chính quyền cách mạng “có khi lại công nhiên mở phiên tòa ngay sát vị trí địch làm cho dân chúng hết sức khoái trá và tin tưởng ở Chính phủ”.
Tư pháp kháng chiến cũng đòi hỏi phải “sửa sang những bộ luật hiện hành để luật pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thực sự bảo vệ quyền lợi của đại đa số nhân dân, quét sạch những di tích bóc lột của chủ nghĩa thực dân, bảo đảm cho người thợ Việt Nam một địa vị xứng đáng…”. Ông cũng phê bình mạnh mẽ những cán bộ tư pháp chỉ vì lý do “vô tư” trong xét xử mà đứng ngoài tư tưởng kháng chiến, đứng ngoài cuộc kháng chiến của dân tộc [6].
Tháng 01 năm 1949, nhân dịp năm mới Kỷ Sửu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe gửi Bản hiệu triệu tới các thẩm phán và nhân viên tư pháp. Trong Bản hiệu triệu của mình, sau khi nhắc lại nhiệm vụ đã đề ra trong Hội nghị Tư pháp toàn quốc: “Thực hiện nền tư pháp kháng chiến” và “Quyết tâm chiến đấu với quân thù bằng khí giới tư pháp”, “Phá tổ chức tư pháp của địch, giành lấy dân trong vùng giao chiến, trừ việt gian và phản động”, ông nhấn mạnh, ở tất cả các nơi, cùng với mọi ngành, Ngành Tư pháp phải động viên dân chúng, lãnh đạo dân chúng trực tiếp tham gia chiến đấu về mọi mặt: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Phải đoàn kết, chặt chẽ phối hợp công tác cho thêm hiệu quả, nhằm mục đích chung: “Giết giặc, cứu nước”; “Độc lập trên hết! Dân tộc trên hết!” và ông kêu gọi: “Mỗi bạn phải là một chiến sĩ tư pháp” để trong cuộc toàn thắng này của dân tộc sẽ có những “Anh hùng tư pháp” được tuyên dương công trạng” [7].
Tháng 5 năm 1950, Hội nghị Học tập Tư pháp Trung ương được triệu tập nhằm mục đích để các thẩm phán hiểu biết sâu sắc hơn về chế độ dân chủ nhân dân, tăng thêm nhiệt thành xây dựng nền tư pháp nhân dân, cải tạo tư tưởng và bổ túc thêm về nghiệp vụ chuyên môn. Hội nghị đã vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện. Trong bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nêu nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Luật pháp là vũ khí của một giai cấp thống trị, dùng để trừng trị giai cấp chống lại mình…”. Tuy nhiên sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh: “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp... Chúng ta cũng thấy luật pháp của ta hiện nay chưa đầy đủ. Chính các chú có trách nhiệm phải góp phần làm cho luật pháp của ta tốt hơn, càng ngày càng phong phú hơn. Phải cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn”.
Đề cập đến trách nhiệm của cán bộ tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ. Như vậy, thì phải đấu tranh cách mạng, trước mắt phải đánh đuổi bọn thực dân xâm lược, đánh đổ bọn Việt gian phản quốc, bọn bù nhìn tay sai của đế quốc thực dân. Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính sách của Chính phủ. Tóm lại, các chú phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.
Hội nghị đã vận dụng những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh để thảo luận về cuốn “Nhà nước và cách mạng” của V.I. Lênin cũng như đề xuất các vấn đề cần cải cách [8].
Sự kiện nổi bật của Ngành Tư pháp thời kỳ này là cuộc “Cải cách tư pháp năm 1950”. Trước tiên, cần khẳng định, điểm căn cốt nhất của cải cách tư pháp năm 1950 là việc đưa lý luận Mác - Lênin về xây dựng chính quyền nhân dân vào thực tiễn công tác tư pháp. Nhận định này dựa trên Báo cáo kiểm thảo việc thực hiện Chương trình cải cách tư pháp năm 1950 (ngày 13/12/1950) như sau: “Để cải tổ nền tư pháp và hướng sự hoạt động của nó vào việc phục vụ kháng chiến, công việc đầu tiên phải làm để thực hiện việc chuyển hướng là xây dựng lý luận tư pháp nhân dân và tư pháp trong giai đoạn chuyển mạnh sang tổng phản công. Muốn đạt được mục đích đó trước hết phải đả phá lập trường, quan niệm phương pháp của pháp lý cũ, rồi sau đó phải đưa lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn kháng chiến Việt Nam, theo hướng tiến của Chính quyền dân chủ nhân dân Việt Nam mà xây dựng pháp lý mới. Trong nền tư pháp đó, cán bộ tư pháp của chính quyền nhân dân phải tuyệt đối phục tùng nhân dân” [9].
Cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất này được tiến hành trên cả 3 phương diện: Lập pháp - Tố tụng - Tổ chức Ngành Tư pháp. Mục đích của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật tương đối toàn diện, thể hiện rõ bản chất của chế độ “Tư pháp nhân dân”, dân chủ hoá thêm một bước tổ chức và hoạt động tư pháp, đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của mọi công dân, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
(a) Cải cách lập pháp: Xây dựng những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động lập pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, tiến bộ [10].
Với tư duy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chính quyền nhân dân, cải cách tư pháp năm 1950 tiếp tục tập trung cải cách quyền dân sự thông qua Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Theo đó, “những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân”. Quy định này đã đặt ra nguyên tắc hướng dẫn các thẩm phán trong việc áp dụng luật lệ bảo vệ những quyền của tư nhân phải đảm bảo những quyền đó phù hợp với quyền lợi của nhân dân nói chung. Quyền lợi của nhân dân phải đặt lên trên tất cả. Những nhà cải cách lập luận rằng, những thuyết duy cá nhân đã đưa đến quan niệm cho rằng quyền dân sự như quyền sở hữu, quyền của chủ nợ đối với con nợ… có tính cách tuyệt đối là sai lạc. Để xây dựng chính quyền nhân dân, phải loại bỏ không khoan nhượng mọi hình thức bóc lột giữa người với người, vì vậy, không thể duy trì tính tuyệt đối của các quyền dân sự mà phải quan niệm rằng, quyền của tư nhân chỉ có tính cách tương đối và phải được hành sự đúng với quyền lợi của nhân dân. Bảo vệ công lý là bảo vệ quyền lợi của nhân dân thông qua việc loại bỏ mọi hình thức bóc lột, thông qua thẩm quyền của Tòa án tiêu hủy khế ước khi một bên lập ước lợi dụng sự chênh lệch về địa vị kinh tế giữa hai bên, sự túng quẫn của người lập ước bên kia mà bóc lột người đó. Tháng 9 năm 1950, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Nghị định số 114 thành lập Ban Nghiên cứu pháp luật thuộc Bộ Tư pháp để nghiên cứu, xây dựng những đề án luật mới trình Quốc hội.
(b) Cải cách tố tụng: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chính quyền nhân dân, về vị trí, vai trò mới của Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân đã được xác định lại là công cụ của chính quyền nhân dân, là một đơn vị chiến đấu cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện các mục tiêu về cải cách chế độ xét xử và cải cách các luật lệ cũ, làm gọn nhẹ bộ máy tư pháp, giúp cho việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn, thủ tục tố tụng được hợp lý hơn, theo Tờ trình của Bộ Tư pháp ngày 10/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng.
Các vấn đề cải cách được thể hiện như đảm bảo tính dân chủ, tiến bộ, khách quan trong hoạt động tố tụng, giải quyết mối quan hệ giữa tư pháp và hành chính, bảo đảm quyền khởi kiện của công dân, quyền của phụ nữ trong các vụ ly hôn (Sắc lệnh số 85/SL). Nâng chế độ phụ thẩm nhân dân thành hội thẩm nhân dân. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán chuyên môn. Thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm thống nhất cho các loại việc hình sự, dân sự và vi cảnh là 3 người: Chánh án và hai hội thẩm nhân dân. Mở rộng công tác bào chữa cho bị cáo trước Tòa… Bãi bỏ quy định mặc áo chùng đen khi xét xử hoặc bào chữa của thẩm phán và luật sư (Điều 5 Sắc lệnh số 85/SL). Đây chính là sự phủ nhận thuyết tư sản duy tâm siêu hình phụng sự một thứ công lý trên nhân loại trong giai đoạn trước đó.
Sự ra đời của chế định hội thẩm nhân dân thay thế chế định phụ thẩm nhân dân trước đây cũng chính là một cơ chế khẳng định tính chất nhân dân của nền tư pháp. Hội thẩm nhân dân đại diện cho thành phần nhân dân nên có tính cách nhân dân hơn vì họ do Hội đồng nhân dân trực tiếp hay gián tiếp bầu ra. Hội thẩm nhân dân chiếm đa số trong xét xử, nên các bản án, quyết định của Tòa án do hội thẩm nhân dân mà ra. Trước đó, tinh thần Sắc lệnh số 13/SL đặt ra những Tòa án chỉ gồm có thành phần chuyên môn là thẩm phán mà chưa chú trọng thành phần nhân dân. Bên cạnh đó, chế độ phụ thẩm nhân dân không có tính cách nhân dân rõ ràng. Điểm thay đổi căn bản tiếp theo trong hoạt động xét xử là việc cho phép lựa chọn thẩm phán chuyên trách từ trong hàng ngũ cán bộ công nông bởi thành phần công nông là giai cấp đông đảo và ưu tú nhất của hàng ngũ nhân dân.
Cùng với đó, trước yêu cầu xây dựng khối đoàn kết tạo sức mạnh thống nhất cho cuộc kháng chiến, chế định hòa giải ở cơ sở được nhận thức lại theo hướng coi việc xích mích giữa hai tư nhân có liên quan mật thiết đến trật tự dân chủ nhân dân và sự tiến triển của chế độ dân chủ nhân dân. Trong chính quyền dân chủ nhân dân, quyền lợi của mọi người hòa hợp với quyền lợi của tập thể. Cơ quan hòa giải không thể giữ thái độ vô tư, chỉ theo ý muốn của hai bên dàn xếp thế nào mặc ý, hoặc chỉ kiểm soát xem hai bên cam kết có trái với luật lệ của chính phủ không. Thái độ “vô tư” ấy vô tình hay hữu ý chỉ có lợi cho người chiếm ưu thế về kinh tế và do đó có ưu thế về địa vị xã hội.
Các lập luận cải cách trong lĩnh vực hòa giải cũng cho rằng, dưới thời Pháp thuộc, biết bao nhiêu người dân nghèo, vì sợ không dám theo kiện với một đối phương nhiều tiền của và có quyền thế hơn đã cam chịu nhận một cuộc hòa giải thiệt thòi và tủi nhục. Trong chế độ dân chủ nhân dân, cơ quan hòa giải có nhiệm vụ giải thích, thuyết phục để một bên tự giác bỏ quyền lợi bất chính của mình, thừa nhận quyền lợi chính đáng của đối phương, quyền lợi đó là quyền lợi của nhân dân trước hết là quyền lợi của quảng đại quần chúng cần lao. Lý lẽ nêu trên dẫn đến kết luận hòa giải không còn là một công việc chuyên môn của những cơ quan chính quyền nói chung hay đặc biệt là của những cơ quan tư pháp, mà là một hình thức đấu tranh của nhân dân để bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân tiến tới xã hội chủ nghĩa, do đó nhân dân và các đoàn thể giữ một vai trò quan trọng trong việc hòa giải. Trên cơ sở lập luận này, hòa giải ở cơ sở đã được quy định thành chế độ bắt buộc, biên bản hòa giải thành có giá trị là một công chính chứng thư, có thể đem chấp hành ngay. Do đó, quan niệm về Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý như một cơ chế duy nhất đã có phần nhường bước trước cơ chế hòa giải này [11].
(c) Cải cách về tổ chức: Một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp năm 1950 là đổi tên hệ thống Tòa án trước đây thành Tòa án nhân dân. Nội dung này có ý nghĩa biểu đạt Tòa án đã thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của nhân dân, của chính quyền nhân dân. Tên gọi Tòa án nhân dân bởi Tòa án đã mang một bản chất khác, nhân dân hơn, cách mạng hơn. Tên gọi này đồng thời cũng biểu đạt một quan niệm mới về xét xử, theo đó pháp luật do nhân dân đặt ra thì việc thi hành pháp luật phải do nhân dân thực hiện, việc xét xử phải là trách nhiệm chính trị của nhân dân.
Đổi tên gọi Tòa án sơ cấp thành Tòa án nhân dân huyện; Tòa án đệ nhị cấp thành Tòa án nhân dân tỉnh. Hợp nhất Tòa án quân sự khu hoặc Liên khu với Hội đồng phúc án để thành lập Tòa án nhân dân Liên khu… Giám đốc Tư pháp Liên khu chuyển sang làm nhiệm vụ công tố, bên cạnh Tòa án nhân dân Liên khu và gọi là Công tố viên… Đào tạo cán bộ công nông để bầu hay chỉ định làm Hội thẩm nhân dân thường trực… Thành lập Tòa án nhân dân ở các vùng tạm bị chiếm (Sắc lệnh số 157/SL ngày 17/11/1950).
Cuối năm 1950, nhằm mục đích hướng dẫn thống nhất và đúng đường lối của Chính phủ trong công tác truy tố và xét xử của các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 160/SL thành lập Vụ Hình Hộ thuộc Bộ Tư pháp. Theo đó, Vụ này có nhiệm vụ nghiên cứu và đề nghị đường lối truy tố và xét xử để hướng dẫn hoạt động cho các Tòa án thuộc phạm vi Bộ Tư pháp.
Tháng 5 năm 1951, Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ VII được triệu tập để bồi dưỡng các vấn đề cơ bản của công tác tư pháp bao gồm: Vai trò và nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân trong xét xử; vai trò và ý nghĩa của công tác hòa giải; vai trò và nhiệm vụ của người bào chữa trong nền tư pháp nhân dân; chỉnh đốn công tác tư pháp ở cấp xã; vận động nhân dân tham gia các công việc tư pháp; giải thích Sắc lệnh số 97/SL về cải cách dân luật... Cũng trong thời gian này, Bộ Tư pháp phát động phong trào chỉnh huấn, chỉnh quân, “rèn luyện tư tưởng, chỉnh đốn lề lối làm việc” với ba điểm chính: Lập trường nhân dân; lý luận công tác tư pháp nhân dân; quan điểm nhân dân...
Cuối năm 1951, Bộ Tư pháp cử một số cán bộ phụ trách đi thực tập ở các tỉnh và huyện trong các vùng tự do và cả trong các vùng bị địch tạm chiếm thuộc các Liên khu Việt Bắc và Liên khu IV. Việc đưa cán bộ đi thực tập nhằm mục đích giúp cho họ rèn luyện bản thân, cọ sát và đưa lý luận áp dụng vào thực tế, học tập quan điểm quần chúng, đồng thời, giúp cho Bộ nắm vững tình hình công tác tư pháp ở địa phương để có hướng chỉ đạo sát thực hơn.
Có thể nói, ngay từ khi đặt nền móng của nền tư pháp dân chủ nhân dân, các cán bộ tư pháp đã hăng hái tham gia vào việc đấu tranh với những quan niệm sai lầm của chế độ thực dân phong kiến về mặt tư tưởng pháp lý và công tác tư pháp. Cuộc đấu tranh diễn ra trên báo chí và trong những hội nghị học tập từ năm 1947 đến năm 1951 ngày càng thu được thắng lợi rõ rệt, xây dựng được tư tưởng pháp lý và tư pháp dân chủ nhân dân ngày càng cụ thể. Tiếp sau đó, các cán bộ tư pháp được học tập chỉnh huấn, được rèn luyện trong thực tế đấu tranh trấn áp phản cách mạng, được bồi dưỡng trong phong trào phát động quần chúng nên ngày càng trưởng thành hơn. Mặt khác, bên cạnh đội ngũ cán bộ tư pháp cũ, còn có những cán bộ mới xuất thân từ thành phần nhân dân lao động hoặc đã được rèn luyện nhiều trong đấu tranh cách mạng, tham gia ngày càng nhiều vào công tác tư pháp, do đó, đã tăng cường không những số lượng mà cả chất lượng các mặt hoạt động của Ngành Tư pháp.
Tháng 4 năm 1952, Hội nghị Tư pháp Việt Bắc được triệu tập để thảo luận sâu hơn về một số công việc chính của Ngành Tư pháp, sát với nhu cầu của cuộc kháng chiến và thực tế đấu tranh của nhân dân ta. Ngày 10/5/1952, nhằm củng cố tổ chức và hoạt động, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 48-NĐ/P2 về tổ chức cơ quan trung ương Bộ Tư pháp, gồm có: Văn phòng, Vụ Hành chính tư pháp, Vụ Hình hộ và Ban Nghiên cứu pháp luật.
- Văn phòng phụ trách công việc văn thư chung, kế toán, cán bộ, quản lý, cấp dưỡng, tiếp tân, khánh tiết và các công việc không phụ thuộc các bộ phận khác.
- Vụ Hành chính Tư pháp phụ trách công việc tổ chức và xây dựng bộ máy tư pháp (Tòa án các cấp, Tư pháp xã, Tư pháp vùng địch, chế định hội thẩm nhân dân, người bào chữa,…), trại giam, giáo hóa phạm nhân.
- Vụ Hình Hộ phụ trách nghiên cứu và đề nghị đường lối truy tố, xét xử và hòa giải, rút kinh nghiệm, xây dựng án lệ, giải thích pháp luật áp dụng trước Tòa án.
- Ban Nghiên cứu pháp luật nghiên cứu và dự thảo các luật lệ, tham gia ý kiến vào các dự án luật lệ của các Bộ khác, phổ biến các tài liệu pháp lý dân chủ mới.
Trong các năm tiếp theo, công tác tư pháp tiếp tục được củng cố và phát triển để hỗ trợ đắc lực cho việc nâng cao nhận thức cách mạng, tư tưởng tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến và tính chất đấu tranh giai cấp...
3. Bộ Tư pháp trong những năm đầu thiết lập hòa bình ở miền Bắc
Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, phát huy truyền thống của Tư pháp kháng chiến, trong những năm đầu kiến thiết đất nước ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà, Ngành Tư pháp tiếp tục nỗ lực giúp Chính phủ trong công tác xây dựng pháp luật, chỉ đạo nghiệp vụ công tác tư pháp về xét xử, công tố và các vấn đề liên quan đến tư pháp công an; tiếp tục củng cố bộ máy nhà nước, phát huy quyền tự do, dân chủ của công dân trong xã hội mới, khẳng định được vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị và đời sống xã hội.
Các Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ VIII (tháng 4 năm 1954); Hội nghị Tư pháp Liên khu III (tháng 4 năm 1955); Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IX (tháng 9 năm 1955) tiếp tục tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đề ra nhiệm vụ, đường lối cho công tác tư pháp trong các giai đoạn kế tiếp, thúc giục cán bộ tư pháp toàn ngành nâng cao ý chí phấn đấu, tinh thần đấu tranh cách mạng, ý thức về trách nhiệm của Ngành Tư pháp trong công cuộc đấu tranh chính trị nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập dân chủ ở nước ta.
Ngày 15/5/1956, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 772-TTg về kiện toàn công tác tư pháp. Ngày 23/01/1957, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa I đã bầu ra Ban sửa đổi Hiến pháp năm 1946, Ngành Tư pháp vinh dự với hai thành viên được tham gia Ban sửa đổi Hiến pháp là Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe và Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Công Tường. Trong đó, Thứ trưởng Trần Công Tường được tín nhiệm giao viết Lời nói đầu của bản Hiến pháp sửa đổi dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh [12].
Tháng 3 năm 1957, Ngành Tư pháp tổ chức Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ X và vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự và nói chuyện. Trong bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
“Khó khăn của Ngành Tư pháp là công tác chưa ổn định thiếu thốn mặt này mặt khác. Công việc nhiều và mới, cán bộ ít. Nhiệm vụ và quyền hạn Hiến pháp cũ đã quy định nhưng tình hình hiện nay đã khác, cho nên có chỗ không thích hợp.
Cán bộ tư pháp còn gặp khó khăn nữa là ít được học tập, do đó, đường lối, phương pháp công tác và tư tưởng còn bị ảnh hưởng.
Tuy vậy, trong thời gian kháng chiến và hơn 2 năm hòa bình, cán bộ tư pháp có cố gắng nhiều và có thành tích.
Trung ương Đảng và Chính phủ rất cảm thông những khó khăn của cán bộ tư pháp, nhưng phải giải quyết dần dần.
Một mặt cán bộ tư pháp phải cố gắng, một mặt Đảng và Chính phủ cần chú ý hơn. Bây giờ cả nước ta có nhiệm vụ chung cho các ngành là đấu tranh thống nhất nước nhà, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Trong nhiệm vụ chung đó, Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đó là nhiệm vụ tích cực. Đồng thời có một nhiệm vụ nữa là ngăn ngừa trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ ta, phá hoại lợi ích của nhân dân.
Muốn thực hiện nhiệm vụ ấy, cần chú ý mấy điểm:
Nội bộ đoàn kết từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, làm gương cho nhân dân. Đoàn kết tức là lực lượng của chúng ta. Lúc mới kháng chiến lực lượng ta yếu hơn địch, nhưng ta thắng lợi vì ta đoàn kết. Cho nên, Ngành Tư pháp muốn khắc phục khó khăn phải đoàn kết nhất trí thật sự, muốn đoàn kết thật sự phải dựa trên cơ sở lập trường vững vàng, tư tưởng sáng suốt, nội bộ dân chủ, phải giúp đỡ nhau học tập tiến bộ, thật thà phê bình tự phê bình.
Luật pháp của ta có cái mới và cái cũ. Có cái cũ không thích dụng nữa. Cái mới thì chưa đầy đủ. Hiến pháp cũ có chỗ không thích hợp với tình hình và hoàn cảnh hiện nay. Vì vậy, khóa họp Quốc hội thứ 6 đã quyết định sửa đổi lại Hiến pháp. Trong việc sửa đổi Hiến pháp, cán bộ tư pháp cũng cần góp phần của mình”[13].
Để thực hiện những nhiệm vụ chính trị của Ngành, góp phần tích cực vào việc tăng cường chế độ pháp trị, Bộ Tư pháp thành lập Trường Bổ túc cán bộ tư pháp cấp huyện và khai giảng khóa đầu tiên vào ngày 28/4/1957. Mục đích yêu cầu của khóa học là nhằm xây dựng cho học viên về tư tưởng, chuyên môn và tác phong để quán xuyến được công tác tư pháp cấp huyện.
Ngày 19/7/1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 314-TTg về việc kiện toàn cơ quan tư pháp và khẳng định: “Cơ quan tư pháp là một bộ phận quan trọng của bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân… cần tăng cường lãnh đạo tư tưởng và lãnh đạo chính sách, giúp cán bộ tư pháp nắm được tình hình và đường lối… cần tôn trọng quyền hạn và nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định cho cơ quan tư pháp [14]. Theo đó, ngày 24/7/1957, Bộ Tư pháp cũng ban hành Thông tư số 2800-HCTP về tổ chức bộ máy tư pháp để giải quyết những công việc tư pháp của các thị xã.
Về công tác pháp chế ở các Bộ, ngành và địa phương, ngày 26/10/1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 506-TTg về việc tổ chức các cơ quan pháp chế. Bộ phận pháp chế của các Bộ có 5 nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu về mặt pháp lý các dự thảo luật lệ do các bộ phận chuyên môn hay cơ quan thuộc Bộ thảo ra để Bộ ban hành hoặc gửi lên cấp trên xét duyệt;
- Nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến công tác của Bộ; nghiên cứu góp ý về mặt pháp lý vào các dự thảo luật lệ chung của các cơ quan khác gửi đến;
- Làm các thủ tục về việc ban hành các nghị định, thông tư của Bộ;
- Góp ý kiến với các cơ quan thuộc Bộ và các cơ quan chính quyền và đoàn thể, sở quan để phổ biến cho cán bộ và nhân dân các luật lệ của Chính phủ và của Bộ ban hành;
- Sưu tầm các luật lệ, soát lại các văn bản của Bộ và cơ quan trực thuộc về mặt pháp lý. Đề nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ những văn bản ban hành không hợp lệ hoặc trái với các luật lệ hiện hành và các nguyên tắc pháp lý chung [15].
Tháng 4 năm 1958, theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá I, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Công tố Trung ương được thành lập và có quyền hạn, trách nhiệm ngang một Bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ, cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp. Sau đó, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã hình thành hệ thống Tòa án nhân dân và hệ thống Viện kiểm sát nhân dân độc lập với Chính phủ. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp vẫn phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Công tố Trung ương và Bộ Công an thực hiện liên tịch trong đánh giá, chỉ đạo công tác tư pháp, bảo vệ thành quả cách mạng, tăng cường chuyên chính đối với các thế lực thù địch, mở rộng dân chủ đối với nhân dân, động viên nhân dân tôn trọng pháp luật của Nhà nước.
Triển khai thi hành Hiến pháp mới năm 1959, ngày 11/2/1960, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/CP quy định nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo Nghị định này, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ nghiên cứu những quy định về hệ thống tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân địa phương các cấp, của Tư pháp cấp xã; hướng dẫn việc thực hiện các quy định ấy; nghiên cứu và dự thảo các bộ luật và các đạo luật tổng hợp về dân sự, hình sự và thủ tục tố tụng; chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm mục đích giáo dục cho nhân dân ý thức tuân theo pháp luật; nghiên cứu những quy định về hội thẩm nhân dân, về tổ chức luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên và quản lý các tổ chức ấy; đào tạo và giáo dục cán bộ tòa án và cán bộ tư pháp; quản lý cán bộ và biên chế của Ngành Tư pháp theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế; hướng dẫn, kiểm tra và tổng kết công tác của Ngành Tư pháp [16].
Ngày 15/3/1960, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 06 về tổ chức Bộ Tư pháp, theo đó, tổ chức Bộ Tư pháp gồm có:
- Vụ Tổ chức - Cán bộ có nhiệm vụ nghiên cứu những quy định, giúp Bộ hướng dẫn việc thực hiện ở các địa phương và tổng kết kinh nghiệm về những vấn đề sau đây:
+ Hệ thống tổ chức, thẩm quyền, tổ chức nội bộ của các Tòa án nhân dân địa phương; thiết lập các Tòa án nhân dân địa phương; những thể lệ về bầu cử, bãi miễn các thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của hội thẩm nhân dân, luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên; quản lý các tổ chức ấy; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của tổ chức tư pháp ở xã, ở khu phố.
+ Nghiên cứu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp địa phương, giúp Bộ quản lý cán bộ và biên chế của Ngành Tư pháp theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế chung;
+ Dự thảo các đạo luật tổng hợp và các bộ luật về thủ tục tố tụng hình sự và dân sự; giúp Bộ hướng dẫn việc thực hiện các nguyên tắc về thủ tục tố tụng ở các Tòa án nhân dân địa phương; tổng kết kinh nghiệm về việc thực hiện thủ tục tố tụng ở các Tòa án nhân dân địa phương.
Vụ Tổ chức - Cán bộ gồm có: Phòng Tổ chức cán bộ và Phòng Chế định.
- Vụ Nghiên cứu pháp luật có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm về thi hành pháp luật hình sự và dân sự để dự thảo các đạo luật tổng hợp về hình sự, dân sự và bộ hình luật, bộ dân luật; sưu tầm những pháp luật về hình sự và dân sự đã được ban hành để làm tài liệu nghiên cứu cho các Tòa án và cơ quan tư pháp.
Vụ Nghiên cứu pháp luật gồm có: Phòng Hình luật và Phòng Dân luật.
- Vụ Tuyên giáo có nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu chương trình và kế hoạch đào tạo, giáo dục cán bộ tòa án và cán bộ tư pháp, giúp Bộ chỉ đạo công tác đào tạo, giáo dục cán bộ tòa án và cán bộ tư pháp địa phương;
+ Chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở các địa phương.
Vụ Tuyên giáo gồm có: Phòng Giáo dục và Phòng Tuyên truyền phổ biến pháp luật.
- Trường Cán bộ Tư pháp có nhiệm vụ huấn luyện về chính trị và nghiệp vụ cho các cán bộ tòa án và cán bộ tư pháp từ thẩm phán huyện hoặc tương đương thẩm phán huyện trở lên.
Trường Cán bộ Tư pháp gồm có: Phòng Giáo dục và Phòng Tổ chức - Hành chính.
- Văn phòng có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng và Thứ trưởng trong việc tổng hợp tình hình công tác mọi mặt của Bộ, điều hòa, phối hợp công tác giữa các bộ phận của Bộ, theo dõi, nhắc nhở thực hiện chương trình công tác của Bộ, thực hiện chế độ và chương trình sinh hoạt của Bộ, theo dõi, nhắc nhở và phối hợp công tác giữa các bộ phận về công tác miền núi; nghiên cứu những công tác mà không có bộ phận nào phụ trách; phụ trách công tác thi đua; phụ trách các công tác tài chính, kế toán, quản trị và bảo vệ cơ quan.
Văn phòng gồm có: Phòng Hành chính - Tổng hợp và Phòng Kế toán - Quản trị [17].
Có thể nói, trong suốt 15 năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp đã đoàn kết, tập trung nỗ lực thực hiện tốt các nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó trong việc xây dựng nền móng cho hệ thống pháp luật mới, tổ chức nền tư pháp nhân dân theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, thiết lập tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, Tòa án, các cơ quan bổ trợ tư pháp, đóng góp phần quan trọng vào thành công của cuộc kháng chiến gian khổ, trường kỳ của dân tộc và đường lối xây dựng kinh tế trong những năm đầu lập lại hòa bình ở miền Bắc.
Chú thích:
[1]. Nguồn: Việt Nam Dân quốc Công báo, số 14, 1945, tr. 172.
[2]. Nguồn: Việt Nam Dân quốc Công báo, số 4, 1945, tr. 36.
[3]. Nguồn: Việt Nam Dân quốc Công báo, số 7, 1946, tr. 64 - 71.
[4]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 54.
[5]. Biên niên lịch sử Bộ Tư pháp Việt Nam, tập 1, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr. 73.
[6]. Trích Hồi ký Vũ Đình Hòe, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1994, tr. 98.
[7]. Hồ sơ số 777, Phông PTT, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
[8]. Hồ Chí Minh - Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr. 67.
[9]. Xem: ThS. Nguyễn Xuân Tùng, Quan niệm về công lý ở Việt Nam từ năm 1945 đến cuộc cải cách tư pháp năm 1950, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11 (272), 2014, tr. 58 - 64.
[10]. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 97/SL quy định các nguyên tắc cơ bản về dân sự…
[11]. Xem: ThS. Nguyễn Xuân Tùng, Quan niệm về công lý ở Việt Nam từ năm 1945 đến cuộc cải cách tư pháp năm 1950, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11 (272), 2014, tr. 58 - 64.
[12]. Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960, tr.174.
[13]. Hồ Chí Minh - Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr. 119.
[14]. Biên niên lịch sử Bộ Tư pháp Việt Nam, tập 1, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr. 130 - 131.
[15]. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 45, 1957, tr. 774 – 775.
[16]. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 7, 1960, tr. 97.
[17]. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 17, 1960, tr. 301.
Phần thứ nhất: Vai trò của Ngành Tư pháp trong chính thể nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1960)
30/03/2016
1. Bộ Tư pháp trong những ngày đầu của Nhà nước Dân chủ nhân dân
Với khát vọng cháy bỏng về một chính thể dân chủ mà quyền lực thống nhất thuộc về nhân dân, trong Tuyên ngôn Độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình, Bác Hồ đã khẳng định rõ các quyền cơ bản của con người. Và để bảo vệ cũng như hiện thực hóa các quyền đó, cần phải nhanh chóng xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt, thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, xây dựng một nền tư pháp nhân dân. Minh chứng cho điều này, ngày 28/8/1945, Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra lời Tuyên cáo thành lập Nội các Thống nhất Quốc gia gồm 12 Bộ, trong đó có Bộ Tư pháp do ông Vũ Trọng Khánh làm Bộ trưởng.
Ngày 01/12/1945, để đặt cơ sở đầu tiên cho việc tổ chức Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh đã ký ban hành Nghị định số 37 về tổ chức Bộ Tư pháp. Nghị định này cùng với nhiều Sắc lệnh của Chủ tịch nước đã định hình cơ cấu tổ chức và hoạt động của Bộ, Ngành Tư pháp trong giai đoạn này. Theo Nghị định số 37, Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm soạn thảo và tổ chức thi hành các đạo luật về quyền tự do, dân chủ của cá nhân, về dân sự, thương sự, hình sự và thủ tục tố tụng, tổ chức và quản trị các Tòa án, việc truy tố tội phạm, tư pháp công an, thi hành các án phạt, quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân, quản lý các viên chức Tòa án, viên chức ngạch tư pháp, luật sư, đại tụng viên, thừa phát lại, hỗ giá viên, phụ trách công việc quốc tịch, thực hiện các hiệp định tương trợ tư pháp và ủy thác tư pháp với nước ngoài...
Về cơ cấu tổ chức, Bộ Tư pháp gồm có một văn phòng và các phòng sự vụ. Văn phòng đặt dưới quyền điều khiển của Đổng lý Văn phòng và Chánh Văn phòng, có các tham chính văn phòng giúp việc và trong trường hợp cần thiết sẽ đặt những đặc vụ ủy viên. Văn phòng có nhiệm vụ là giúp ông Bộ trưởng trong các công việc tổ chức tư pháp, để thực hiện những phương châm của Chính phủ và trông nom tất cả việc trong nội bộ thuộc về sự giao thiệp với các cơ quan quốc gia và với người nước ngoài. Các phòng sự vụ đặt dưới quyền điều khiển của ông Đổng lý văn phòng, tạm thời kiêm chức Đổng lý sự vụ. Các phòng sự vụ gồm có: Phòng sự vụ nội bộ; phòng viên chức và kế toán; phòng giám đốc hộ vụ; phòng giám đốc hình vụ; phòng giám đốc việc quản trị các nhà lao và giáo dục tù nhân [1].
Có thể khẳng định, Nghị định số 37 đã đặt nền móng cho một nền tư pháp dân chủ nhân dân ra đời và phát triển, là cơ sở pháp lý về tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp, xác định vai trò của Bộ Tư pháp và Ngành Tư pháp là cơ quan trọng yếu của chính quyền, bước đầu xây dựng và phát triển chế độ “Tư pháp nhân dân” của Nhà nước dân chủ cộng hòa.
Đất nước không thể một ngày không có luật pháp, vì vậy, công việc được chú trọng của Ngành Tư pháp ngay từ những ngày đầu của chính quyền non trẻ là soạn thảo một Sắc lệnh trình Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ngày 10/10/1945 để giữ lại các quy định pháp luật của chế độ cũ (trừ những luật lệ có phương hại đến nền độc lập quốc gia). Đồng thời, triển khai tổ chức và hoạt động của Bộ Tư pháp với các chức năng cơ bản là bảo đảm quyền dân chủ của con người, thông qua những quy định pháp luật về thẩm quyền trong việc bắt giữ, điều tra, truy tố, xét xử, giam, tha phạm nhân; thẩm quyền tổ chức các Tòa án dân sự, thương sự, hình sự, công việc thực hiện các hiệp định tương trợ và ủy thác tư pháp với nước ngoài; thẩm quyền tổ chức và quản lý các chức danh tư pháp khác nhau; lập kế hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ của Ngành Tư pháp, nhất là đội ngũ thẩm phán để chuẩn bị thiết lập hệ thống Tòa án trên cả nước.
Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 46/SL quy định về tổ chức các đoàn thể luật sư. Sắc lệnh gồm 7 điều, theo đó quy định tổ chức các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ và tổ chức hoạt động theo Sắc lệnh ngày 25/5/1930. Tuy nhiên, có một số quy định sửa đổi như: Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các Tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án Quân sự… Những luật sư đã tập sự được 18 tháng thì Hội đồng luật sư có thể cho phép tạm quản lý một Văn phòng [2].
Ngày 03/12/1945, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Nghị định về việc thành lập một Hội đồng để nghiên cứu cách tổ chức các Tòa án và ngạch thẩm phán. Hội đồng gồm có nhiều luật gia, thân sĩ và nhân viên cao cấp trong Bộ.
Cũng trên cơ sở đề xuất của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, ngày 24/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 13/SL về tổ chức các Tòa án và các ngạch thẩm phán. Sắc lệnh gồm 2 chương với 114 điều quy định về tổ chức của Ban Tư pháp xã, Tòa án sơ cấp, Tòa án đệ nhị cấp, Tòa thượng thẩm và các ngạch thẩm phán, việc tuyển bổ các thẩm phán, đặc quyền và nghĩa vụ của các thẩm phán, kỷ luật, tạm quyền, đổi chức vị, y phục các thẩm phán và tổng lệ.
Cũng theo Sắc lệnh này, nền tư pháp mới của nước ta được tổ chức trên hai nguyên tắc: (i) Tư pháp độc lập với hành chính. Điều 47 Sắc lệnh số 13/SL quy định: “Tòa án tư pháp sẽ độc lập với các cơ quan hành chính. Các vị thẩm phán sẽ chỉ trọng pháp luật và công lý. Các cơ quan khác không được can thiệp vào công việc tư pháp”; (ii) Nhân dân tham gia việc xét xử. Nguyên tắc này được thể hiện ở cấp xã, nhân viên phụ trách công việc tư pháp đều do Hội đồng nhân dân xã trực tiếp bầu ra. Ở cấp tỉnh và kỳ, dưới danh nghĩa phụ thẩm nhân dân, nhân dân được tham dự vào việc xử án kể cả tiểu hình và đại hình. Đối với các vụ đại hình, phụ thẩm nhân dân không những quyết đoán về tội trạng mà còn quyết đoán cả về hình phạt.
Có thể nói, ngay từ những ngày đầu, hệ thống các cơ quan Tòa án của nước Việt Nam mới đã được thành lập, tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc rất cơ bản của nền tư pháp dân chủ, hiện đại, đó là:
- Độc lập xét xử và thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật.
- Có các phụ thẩm (hội thẩm) tham gia xét xử.
- Xét xử công khai (trừ những vụ việc đặc biệt).
- Bảo đảm quyền bào chữa của các bị cáo.
Sắc lệnh số 13/SL cũng là Sắc lệnh đầu tiên quy định một cách đầy đủ về việc tổ chức giải quyết các tranh chấp, xử phạt các việc vi cảnh ở cơ sở cũng như tổ chức các Tòa án và quy định một cách cụ thể về tiêu chuẩn của thẩm phán, cách tuyển chọn và đối tượng được tuyển chọn, quyền và nghĩa vụ của thẩm phán [3]. Theo Sắc lệnh số 13/SL, Sắc lệnh số 51/SL ngày 17/4/1946 và Sắc lệnh số 131/SL ngày 20/7/1946, hệ thống các viên chức và cơ quan công tố được thiết lập nằm trong hệ thống Tòa án các cấp. Hệ thống Tòa án, cơ quan công tố đều do Bộ Tư pháp trực tiếp quản lý về tổ chức và hoạt động. Ngày 20/7/1946, thay mặt Chủ tịch Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Huỳnh Thúc Kháng đã ký Sắc lệnh số 131/SL về việc tổ chức Tư pháp công an phục vụ hoạt động tố tụng xét xử. Phụ trách Tư pháp công an là Dự thẩm, Biện lý và Phó Biện lý là các viên chức thuộc hệ thống Tòa án do Bộ Tư pháp quản lý.
Như vậy, chỉ trong một thời gian ngắn, với những nỗ lực vượt bậc của Bộ Tư pháp, về cơ bản, hệ thống các cơ quan tư pháp đã được thành lập. Các công tác như xây dựng, pháp điển hệ thống pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng, công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp, Tòa án, nâng cao trình độ chính trị và nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ này đã được Bộ Tư pháp phát triển bước đầu đạt hiệu quả, phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân trong những ngày đầu thành lập.
Sau khi hệ thống cơ quan tư pháp được thành lập ở Trung ương, hệ thống cơ quan tư pháp địa phương cũng được khẩn trương xúc tiến thành lập. Dựa theo thiết kế chính quyền địa phương của Sắc lệnh số 63/SL ngày 22/11/1945 về tổ chức chính quyền địa phương, hệ thống cơ quan tư pháp địa phương được xây dựng thành 3 Sở Tư pháp ở 3 miền gồm:
- Sở Tư pháp Bắc Bộ;
- Sở Tư pháp Trung Bộ;
- Sở Tư pháp Nam Bộ.
Ngày 02/3/1946, tại Nhà hát Lớn thành phố Hà Nội, toàn thể đại biểu toàn quốc (được trúng cử trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 23/12/1945 và ngày 06/01/1946) đã họp kỳ họp đầu tiên của Quốc hội Khóa I. Tại kỳ họp này, Quốc hội đã bầu ra Chính phủ Liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu với 10 Bộ trong Hội đồng Chính phủ thay cho Chính phủ Liên hiệp lâm thời. Nội các của Chính phủ Liên hiệp kháng chiến bao gồm các thành phần thể hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng một chính quyền mạnh mẽ, sáng suốt của nhân dân. Bộ trưởng Quốc gia Giáo dục Vũ Đình Hòe được điều động sang giữ chức Bộ trưởng Bộ Tư pháp trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến.
2. Bộ Tư pháp trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân pháp
Ngày 19/12/1946 - Toàn quốc kháng chiến. “Cách mạng bùng lên và kháng chiến trường kỳ”, chấp hành Chỉ thị của Chính phủ, Bộ Tư pháp gấp rút chuẩn bị bộ máy thích ứng với cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Theo Thông lệnh số 12/NV-CT ngày 29/12/1946 về tổ chức tư pháp trong tình thế đặc biệt, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đặt ở mỗi khu hoặc liên khu một Sở Tư pháp để trông coi việc tư pháp và giúp ý kiến cho Ủy ban bảo vệ Khu, Liên khu (Ủy ban hành chính kháng chiến Khu, Liên khu). Ở cơ sở, Ban Tư pháp xã gồm Ban Thường vụ của Ủy ban hành chính cấp xã kiêm cả việc tư pháp (có thẩm quyền hòa giải các vụ dân sự, thương sự, phạt vi cảnh...).
Trong thời kỳ này, tổ chức cơ quan Bộ Tư pháp gọn nhẹ gồm 12 người, các cán bộ khác có năng lực được đưa xuống giúp các Ủy ban hành chính kháng chiến Liên khu hoặc Khu về công tác tư pháp; hoặc làm Giám đốc các Sở Tư pháp Liên khu hoặc Khu vừa được thành lập. Công tác tư pháp chủ yếu là tiếp tục đào tạo, huấn luyện đội ngũ thẩm phán, củng cố, kiện toàn các Tòa án sơ cấp và Tòa án đệ nhị cấp trong cả nước; tổ chức, kiện toàn hệ thống các Tòa án quân sự, các cơ quan thi hành án, hỗ giá viên, tư pháp, công an, luật sư, tư pháp bổ trợ, củng cố các trại giam. Công tác xây dựng pháp luật, giữ gìn trật tự các khu giải phóng, xây dựng hệ thống các cơ quan Tư pháp Liên khu, Khu và Tư pháp xã cũng được chú trọng… Tất cả những hoạt động này cũng nhằm phục vụ và góp phần đắc lực vào đường lối chiến tranh nhân dân, toàn diện kháng chiến theo đường lối của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Trong năm 1947, các Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần I, II và III đã được tổ chức nhằm giúp cho Bộ Tư pháp nắm sát hơn về tình hình tư pháp trong cả nước, trao đổi kinh nghiệm, giải quyết nhiều vấn đề chuyên môn pháp lý và kinh nghiệm thực hành. Đặc biệt, Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ III tổ chức vào cuối tháng 9 năm 1947 dưới sự chủ trì trực tiếp của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe đã thảo luận và quyết nghị về một số vấn đề quan trọng như: Việc bảo đảm tự do cá nhân và chế độ lao tù; việc tổ chức tư pháp trong các vùng bị quân địch chiếm đóng; nới rộng thẩm quyền cho các Tòa án; chế độ cho các luật sư trong thời kỳ chiến tranh; vấn đề tư pháp công an...
Tháng 02 năm 1948, tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IV, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư thăm hỏi các đại biểu tham dự Hội nghị. Trong thư, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Trong cuộc kháng chiến này, các bạn đã góp một phần lực lượng lớn. Từ Bộ trưởng, Thứ trưởng đến toàn thể nhân viên, ai cũng chịu khổ, chịu khó, tận tụy hy sinh, để làm tròn nhiệm vụ. Đó là một sự vẻ vang cho giới tư pháp ta”. Đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở: “Các bạn là viên chức của Chính phủ Dân chủ Cộng hòa mà các bạn đã giúp xây dựng nên. Chính thể dân chủ của ta tuy còn trẻ tuổi, nhưng đã chiến thắng nhiều cuộc thử thách, nó đã chứng tỏ rằng quả thật là đầy tương lai. Do đó, nhiệm vụ các bạn phải tuyệt đối trung thành với chính quyền dân chủ. Tư pháp là một cơ quan trọng yếu của Chính quyền, cho nên càng phải tinh thành đoàn kết, hợp tác chặt chẽ với các cơ quan khác để tránh những mối xích mích lẫn nhau, nó có thể vì lợi quyền nhỏ và riêng mà hại đến quyền lợi to và chung, cho cả tư pháp và hành chính. Các bạn là những người phụ trách thi hành pháp luật. Lẽ tất nhiên, các bạn cần phải nêu cao cái gương “Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo” [4].
Tháng 9 năm 1948, Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ V được nhóm họp, các đại biểu tham dự Hội nghị đã thảo diễn văn gửi lên Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, nguyện trung thành với Chính phủ kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, xây dựng nền tư pháp dân chủ nhân dân và theo đúng đường lối của Chính phủ để giành độc lập và thống nhất cho dân tộc.
Tháng 10 năm 1948, Hội nghị Tư pháp liên khu miền Nam Trung bộ cũng được tổ chức và cùng thời gian này, Trường Đại học Pháp lý được thành lập và khai giảng khóa đầu tiên tại huyện Lập Thạch (tỉnh Vĩnh Yên cũ). Chương trình học dựa trên chương trình của Đại học Luật Paris (Cộng hòa Pháp) và có bổ sung thêm một số môn chính trị theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tuy nhiên, do điều kiện khách quan của lịch sử, Trường Đại học Pháp lý chỉ tồn tại đến năm 1950 [5].
Cũng vào cuối năm 1948, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe đã có bài viết về “Tư pháp kháng chiến” nhằm thống nhất nhận thức, động viên, thúc giục cán bộ tư pháp hòa mình vào cuộc kháng chiến của toàn dân tộc. Mở đầu, Bộ trưởng giải thích yêu cầu của cuộc kháng chiến là chiến tranh nhân dân, chiến tranh toàn diện, vì vậy, phải mở một mặt trận tư pháp, đánh giặc bằng khí giới tư pháp, trong việc xử án, bằng việc xử án. Ông thúc giục mỗi cán bộ tư pháp phải xông pha nguy hiểm, chịu đựng gian khổ, có khi phải hy sinh tính mệnh để tranh giành với giặc công việc xử án cho dân, bởi đó là tượng trưng chính quyền của ta một cách rõ rệt và nó làm cho nhân dân tin tưởng vào chính quyền cách mạng “có khi lại công nhiên mở phiên tòa ngay sát vị trí địch làm cho dân chúng hết sức khoái trá và tin tưởng ở Chính phủ”.
Tư pháp kháng chiến cũng đòi hỏi phải “sửa sang những bộ luật hiện hành để luật pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thực sự bảo vệ quyền lợi của đại đa số nhân dân, quét sạch những di tích bóc lột của chủ nghĩa thực dân, bảo đảm cho người thợ Việt Nam một địa vị xứng đáng…”. Ông cũng phê bình mạnh mẽ những cán bộ tư pháp chỉ vì lý do “vô tư” trong xét xử mà đứng ngoài tư tưởng kháng chiến, đứng ngoài cuộc kháng chiến của dân tộc [6].
Tháng 01 năm 1949, nhân dịp năm mới Kỷ Sửu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe gửi Bản hiệu triệu tới các thẩm phán và nhân viên tư pháp. Trong Bản hiệu triệu của mình, sau khi nhắc lại nhiệm vụ đã đề ra trong Hội nghị Tư pháp toàn quốc: “Thực hiện nền tư pháp kháng chiến” và “Quyết tâm chiến đấu với quân thù bằng khí giới tư pháp”, “Phá tổ chức tư pháp của địch, giành lấy dân trong vùng giao chiến, trừ việt gian và phản động”, ông nhấn mạnh, ở tất cả các nơi, cùng với mọi ngành, Ngành Tư pháp phải động viên dân chúng, lãnh đạo dân chúng trực tiếp tham gia chiến đấu về mọi mặt: Quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa. Phải đoàn kết, chặt chẽ phối hợp công tác cho thêm hiệu quả, nhằm mục đích chung: “Giết giặc, cứu nước”; “Độc lập trên hết! Dân tộc trên hết!” và ông kêu gọi: “Mỗi bạn phải là một chiến sĩ tư pháp” để trong cuộc toàn thắng này của dân tộc sẽ có những “Anh hùng tư pháp” được tuyên dương công trạng” [7].
Tháng 5 năm 1950, Hội nghị Học tập Tư pháp Trung ương được triệu tập nhằm mục đích để các thẩm phán hiểu biết sâu sắc hơn về chế độ dân chủ nhân dân, tăng thêm nhiệt thành xây dựng nền tư pháp nhân dân, cải tạo tư tưởng và bổ túc thêm về nghiệp vụ chuyên môn. Hội nghị đã vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện. Trong bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nêu nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin: “Luật pháp là vũ khí của một giai cấp thống trị, dùng để trừng trị giai cấp chống lại mình…”. Tuy nhiên sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại nhấn mạnh: “Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Nhân dân ta hiện nay có tự do, tự do trong kỷ luật. Mỗi người có tự do của mình, nhưng phải tôn trọng tự do của người khác. Người nào sử dụng quyền tự do của mình quá mức mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp... Chúng ta cũng thấy luật pháp của ta hiện nay chưa đầy đủ. Chính các chú có trách nhiệm phải góp phần làm cho luật pháp của ta tốt hơn, càng ngày càng phong phú hơn. Phải cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn”.
Đề cập đến trách nhiệm của cán bộ tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao đóng góp vào việc làm cho nước độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ. Như vậy, thì phải đấu tranh cách mạng, trước mắt phải đánh đuổi bọn thực dân xâm lược, đánh đổ bọn Việt gian phản quốc, bọn bù nhìn tay sai của đế quốc thực dân. Trong công tác xử án phải công bằng, liêm khiết, trong sạch. Như thế cũng chưa đủ. Không thể chỉ hạn chế hoạt động của mình trong khung Tòa án. Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính sách của Chính phủ. Tóm lại, các chú phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân”.
Hội nghị đã vận dụng những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh để thảo luận về cuốn “Nhà nước và cách mạng” của V.I. Lênin cũng như đề xuất các vấn đề cần cải cách [8].
Sự kiện nổi bật của Ngành Tư pháp thời kỳ này là cuộc “Cải cách tư pháp năm 1950”. Trước tiên, cần khẳng định, điểm căn cốt nhất của cải cách tư pháp năm 1950 là việc đưa lý luận Mác - Lênin về xây dựng chính quyền nhân dân vào thực tiễn công tác tư pháp. Nhận định này dựa trên Báo cáo kiểm thảo việc thực hiện Chương trình cải cách tư pháp năm 1950 (ngày 13/12/1950) như sau: “Để cải tổ nền tư pháp và hướng sự hoạt động của nó vào việc phục vụ kháng chiến, công việc đầu tiên phải làm để thực hiện việc chuyển hướng là xây dựng lý luận tư pháp nhân dân và tư pháp trong giai đoạn chuyển mạnh sang tổng phản công. Muốn đạt được mục đích đó trước hết phải đả phá lập trường, quan niệm phương pháp của pháp lý cũ, rồi sau đó phải đưa lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn kháng chiến Việt Nam, theo hướng tiến của Chính quyền dân chủ nhân dân Việt Nam mà xây dựng pháp lý mới. Trong nền tư pháp đó, cán bộ tư pháp của chính quyền nhân dân phải tuyệt đối phục tùng nhân dân” [9].
Cuộc cải cách tư pháp lần thứ nhất này được tiến hành trên cả 3 phương diện: Lập pháp - Tố tụng - Tổ chức Ngành Tư pháp. Mục đích của cải cách tư pháp là nhằm xây dựng một hệ thống pháp luật tương đối toàn diện, thể hiện rõ bản chất của chế độ “Tư pháp nhân dân”, dân chủ hoá thêm một bước tổ chức và hoạt động tư pháp, đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của mọi công dân, thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
(a) Cải cách lập pháp: Xây dựng những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động lập pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, tiến bộ [10].
Với tư duy lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chính quyền nhân dân, cải cách tư pháp năm 1950 tiếp tục tập trung cải cách quyền dân sự thông qua Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật. Theo đó, “những quyền dân sự đều được luật bảo vệ khi người ta hành sự nó đúng với quyền lợi của nhân dân”. Quy định này đã đặt ra nguyên tắc hướng dẫn các thẩm phán trong việc áp dụng luật lệ bảo vệ những quyền của tư nhân phải đảm bảo những quyền đó phù hợp với quyền lợi của nhân dân nói chung. Quyền lợi của nhân dân phải đặt lên trên tất cả. Những nhà cải cách lập luận rằng, những thuyết duy cá nhân đã đưa đến quan niệm cho rằng quyền dân sự như quyền sở hữu, quyền của chủ nợ đối với con nợ… có tính cách tuyệt đối là sai lạc. Để xây dựng chính quyền nhân dân, phải loại bỏ không khoan nhượng mọi hình thức bóc lột giữa người với người, vì vậy, không thể duy trì tính tuyệt đối của các quyền dân sự mà phải quan niệm rằng, quyền của tư nhân chỉ có tính cách tương đối và phải được hành sự đúng với quyền lợi của nhân dân. Bảo vệ công lý là bảo vệ quyền lợi của nhân dân thông qua việc loại bỏ mọi hình thức bóc lột, thông qua thẩm quyền của Tòa án tiêu hủy khế ước khi một bên lập ước lợi dụng sự chênh lệch về địa vị kinh tế giữa hai bên, sự túng quẫn của người lập ước bên kia mà bóc lột người đó. Tháng 9 năm 1950, Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Nghị định số 114 thành lập Ban Nghiên cứu pháp luật thuộc Bộ Tư pháp để nghiên cứu, xây dựng những đề án luật mới trình Quốc hội.
(b) Cải cách tố tụng: Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chính quyền nhân dân, về vị trí, vai trò mới của Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân đã được xác định lại là công cụ của chính quyền nhân dân, là một đơn vị chiến đấu cách mạng và xây dựng xã hội chủ nghĩa. Thực hiện các mục tiêu về cải cách chế độ xét xử và cải cách các luật lệ cũ, làm gọn nhẹ bộ máy tư pháp, giúp cho việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn, thủ tục tố tụng được hợp lý hơn, theo Tờ trình của Bộ Tư pháp ngày 10/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng.
Các vấn đề cải cách được thể hiện như đảm bảo tính dân chủ, tiến bộ, khách quan trong hoạt động tố tụng, giải quyết mối quan hệ giữa tư pháp và hành chính, bảo đảm quyền khởi kiện của công dân, quyền của phụ nữ trong các vụ ly hôn (Sắc lệnh số 85/SL). Nâng chế độ phụ thẩm nhân dân thành hội thẩm nhân dân. Khi xét xử, hội thẩm nhân dân ngang quyền với thẩm phán chuyên môn. Thành viên Hội đồng xét xử sơ thẩm thống nhất cho các loại việc hình sự, dân sự và vi cảnh là 3 người: Chánh án và hai hội thẩm nhân dân. Mở rộng công tác bào chữa cho bị cáo trước Tòa… Bãi bỏ quy định mặc áo chùng đen khi xét xử hoặc bào chữa của thẩm phán và luật sư (Điều 5 Sắc lệnh số 85/SL). Đây chính là sự phủ nhận thuyết tư sản duy tâm siêu hình phụng sự một thứ công lý trên nhân loại trong giai đoạn trước đó.
Sự ra đời của chế định hội thẩm nhân dân thay thế chế định phụ thẩm nhân dân trước đây cũng chính là một cơ chế khẳng định tính chất nhân dân của nền tư pháp. Hội thẩm nhân dân đại diện cho thành phần nhân dân nên có tính cách nhân dân hơn vì họ do Hội đồng nhân dân trực tiếp hay gián tiếp bầu ra. Hội thẩm nhân dân chiếm đa số trong xét xử, nên các bản án, quyết định của Tòa án do hội thẩm nhân dân mà ra. Trước đó, tinh thần Sắc lệnh số 13/SL đặt ra những Tòa án chỉ gồm có thành phần chuyên môn là thẩm phán mà chưa chú trọng thành phần nhân dân. Bên cạnh đó, chế độ phụ thẩm nhân dân không có tính cách nhân dân rõ ràng. Điểm thay đổi căn bản tiếp theo trong hoạt động xét xử là việc cho phép lựa chọn thẩm phán chuyên trách từ trong hàng ngũ cán bộ công nông bởi thành phần công nông là giai cấp đông đảo và ưu tú nhất của hàng ngũ nhân dân.
Cùng với đó, trước yêu cầu xây dựng khối đoàn kết tạo sức mạnh thống nhất cho cuộc kháng chiến, chế định hòa giải ở cơ sở được nhận thức lại theo hướng coi việc xích mích giữa hai tư nhân có liên quan mật thiết đến trật tự dân chủ nhân dân và sự tiến triển của chế độ dân chủ nhân dân. Trong chính quyền dân chủ nhân dân, quyền lợi của mọi người hòa hợp với quyền lợi của tập thể. Cơ quan hòa giải không thể giữ thái độ vô tư, chỉ theo ý muốn của hai bên dàn xếp thế nào mặc ý, hoặc chỉ kiểm soát xem hai bên cam kết có trái với luật lệ của chính phủ không. Thái độ “vô tư” ấy vô tình hay hữu ý chỉ có lợi cho người chiếm ưu thế về kinh tế và do đó có ưu thế về địa vị xã hội.
Các lập luận cải cách trong lĩnh vực hòa giải cũng cho rằng, dưới thời Pháp thuộc, biết bao nhiêu người dân nghèo, vì sợ không dám theo kiện với một đối phương nhiều tiền của và có quyền thế hơn đã cam chịu nhận một cuộc hòa giải thiệt thòi và tủi nhục. Trong chế độ dân chủ nhân dân, cơ quan hòa giải có nhiệm vụ giải thích, thuyết phục để một bên tự giác bỏ quyền lợi bất chính của mình, thừa nhận quyền lợi chính đáng của đối phương, quyền lợi đó là quyền lợi của nhân dân trước hết là quyền lợi của quảng đại quần chúng cần lao. Lý lẽ nêu trên dẫn đến kết luận hòa giải không còn là một công việc chuyên môn của những cơ quan chính quyền nói chung hay đặc biệt là của những cơ quan tư pháp, mà là một hình thức đấu tranh của nhân dân để bảo vệ và củng cố chế độ dân chủ nhân dân tiến tới xã hội chủ nghĩa, do đó nhân dân và các đoàn thể giữ một vai trò quan trọng trong việc hòa giải. Trên cơ sở lập luận này, hòa giải ở cơ sở đã được quy định thành chế độ bắt buộc, biên bản hòa giải thành có giá trị là một công chính chứng thư, có thể đem chấp hành ngay. Do đó, quan niệm về Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý như một cơ chế duy nhất đã có phần nhường bước trước cơ chế hòa giải này [11].
(c) Cải cách về tổ chức: Một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp năm 1950 là đổi tên hệ thống Tòa án trước đây thành Tòa án nhân dân. Nội dung này có ý nghĩa biểu đạt Tòa án đã thực sự trở thành một bộ phận khăng khít của nhân dân, của chính quyền nhân dân. Tên gọi Tòa án nhân dân bởi Tòa án đã mang một bản chất khác, nhân dân hơn, cách mạng hơn. Tên gọi này đồng thời cũng biểu đạt một quan niệm mới về xét xử, theo đó pháp luật do nhân dân đặt ra thì việc thi hành pháp luật phải do nhân dân thực hiện, việc xét xử phải là trách nhiệm chính trị của nhân dân.
Đổi tên gọi Tòa án sơ cấp thành Tòa án nhân dân huyện; Tòa án đệ nhị cấp thành Tòa án nhân dân tỉnh. Hợp nhất Tòa án quân sự khu hoặc Liên khu với Hội đồng phúc án để thành lập Tòa án nhân dân Liên khu… Giám đốc Tư pháp Liên khu chuyển sang làm nhiệm vụ công tố, bên cạnh Tòa án nhân dân Liên khu và gọi là Công tố viên… Đào tạo cán bộ công nông để bầu hay chỉ định làm Hội thẩm nhân dân thường trực… Thành lập Tòa án nhân dân ở các vùng tạm bị chiếm (Sắc lệnh số 157/SL ngày 17/11/1950).
Cuối năm 1950, nhằm mục đích hướng dẫn thống nhất và đúng đường lối của Chính phủ trong công tác truy tố và xét xử của các Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 160/SL thành lập Vụ Hình Hộ thuộc Bộ Tư pháp. Theo đó, Vụ này có nhiệm vụ nghiên cứu và đề nghị đường lối truy tố và xét xử để hướng dẫn hoạt động cho các Tòa án thuộc phạm vi Bộ Tư pháp.
Tháng 5 năm 1951, Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ VII được triệu tập để bồi dưỡng các vấn đề cơ bản của công tác tư pháp bao gồm: Vai trò và nhiệm vụ của hội thẩm nhân dân trong xét xử; vai trò và ý nghĩa của công tác hòa giải; vai trò và nhiệm vụ của người bào chữa trong nền tư pháp nhân dân; chỉnh đốn công tác tư pháp ở cấp xã; vận động nhân dân tham gia các công việc tư pháp; giải thích Sắc lệnh số 97/SL về cải cách dân luật... Cũng trong thời gian này, Bộ Tư pháp phát động phong trào chỉnh huấn, chỉnh quân, “rèn luyện tư tưởng, chỉnh đốn lề lối làm việc” với ba điểm chính: Lập trường nhân dân; lý luận công tác tư pháp nhân dân; quan điểm nhân dân...
Cuối năm 1951, Bộ Tư pháp cử một số cán bộ phụ trách đi thực tập ở các tỉnh và huyện trong các vùng tự do và cả trong các vùng bị địch tạm chiếm thuộc các Liên khu Việt Bắc và Liên khu IV. Việc đưa cán bộ đi thực tập nhằm mục đích giúp cho họ rèn luyện bản thân, cọ sát và đưa lý luận áp dụng vào thực tế, học tập quan điểm quần chúng, đồng thời, giúp cho Bộ nắm vững tình hình công tác tư pháp ở địa phương để có hướng chỉ đạo sát thực hơn.
Có thể nói, ngay từ khi đặt nền móng của nền tư pháp dân chủ nhân dân, các cán bộ tư pháp đã hăng hái tham gia vào việc đấu tranh với những quan niệm sai lầm của chế độ thực dân phong kiến về mặt tư tưởng pháp lý và công tác tư pháp. Cuộc đấu tranh diễn ra trên báo chí và trong những hội nghị học tập từ năm 1947 đến năm 1951 ngày càng thu được thắng lợi rõ rệt, xây dựng được tư tưởng pháp lý và tư pháp dân chủ nhân dân ngày càng cụ thể. Tiếp sau đó, các cán bộ tư pháp được học tập chỉnh huấn, được rèn luyện trong thực tế đấu tranh trấn áp phản cách mạng, được bồi dưỡng trong phong trào phát động quần chúng nên ngày càng trưởng thành hơn. Mặt khác, bên cạnh đội ngũ cán bộ tư pháp cũ, còn có những cán bộ mới xuất thân từ thành phần nhân dân lao động hoặc đã được rèn luyện nhiều trong đấu tranh cách mạng, tham gia ngày càng nhiều vào công tác tư pháp, do đó, đã tăng cường không những số lượng mà cả chất lượng các mặt hoạt động của Ngành Tư pháp.
Tháng 4 năm 1952, Hội nghị Tư pháp Việt Bắc được triệu tập để thảo luận sâu hơn về một số công việc chính của Ngành Tư pháp, sát với nhu cầu của cuộc kháng chiến và thực tế đấu tranh của nhân dân ta. Ngày 10/5/1952, nhằm củng cố tổ chức và hoạt động, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Nghị định số 48-NĐ/P2 về tổ chức cơ quan trung ương Bộ Tư pháp, gồm có: Văn phòng, Vụ Hành chính tư pháp, Vụ Hình hộ và Ban Nghiên cứu pháp luật.
- Văn phòng phụ trách công việc văn thư chung, kế toán, cán bộ, quản lý, cấp dưỡng, tiếp tân, khánh tiết và các công việc không phụ thuộc các bộ phận khác.
- Vụ Hành chính Tư pháp phụ trách công việc tổ chức và xây dựng bộ máy tư pháp (Tòa án các cấp, Tư pháp xã, Tư pháp vùng địch, chế định hội thẩm nhân dân, người bào chữa,…), trại giam, giáo hóa phạm nhân.
- Vụ Hình Hộ phụ trách nghiên cứu và đề nghị đường lối truy tố, xét xử và hòa giải, rút kinh nghiệm, xây dựng án lệ, giải thích pháp luật áp dụng trước Tòa án.
- Ban Nghiên cứu pháp luật nghiên cứu và dự thảo các luật lệ, tham gia ý kiến vào các dự án luật lệ của các Bộ khác, phổ biến các tài liệu pháp lý dân chủ mới.
Trong các năm tiếp theo, công tác tư pháp tiếp tục được củng cố và phát triển để hỗ trợ đắc lực cho việc nâng cao nhận thức cách mạng, tư tưởng tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng chiến và tính chất đấu tranh giai cấp...
3. Bộ Tư pháp trong những năm đầu thiết lập hòa bình ở miền Bắc
Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, phát huy truyền thống của Tư pháp kháng chiến, trong những năm đầu kiến thiết đất nước ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh thống nhất nước nhà, Ngành Tư pháp tiếp tục nỗ lực giúp Chính phủ trong công tác xây dựng pháp luật, chỉ đạo nghiệp vụ công tác tư pháp về xét xử, công tố và các vấn đề liên quan đến tư pháp công an; tiếp tục củng cố bộ máy nhà nước, phát huy quyền tự do, dân chủ của công dân trong xã hội mới, khẳng định được vai trò của công tác tư pháp trong đời sống chính trị và đời sống xã hội.
Các Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ VIII (tháng 4 năm 1954); Hội nghị Tư pháp Liên khu III (tháng 4 năm 1955); Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ IX (tháng 9 năm 1955) tiếp tục tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đề ra nhiệm vụ, đường lối cho công tác tư pháp trong các giai đoạn kế tiếp, thúc giục cán bộ tư pháp toàn ngành nâng cao ý chí phấn đấu, tinh thần đấu tranh cách mạng, ý thức về trách nhiệm của Ngành Tư pháp trong công cuộc đấu tranh chính trị nhằm củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập dân chủ ở nước ta.
Ngày 15/5/1956, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Thông tư số 772-TTg về kiện toàn công tác tư pháp. Ngày 23/01/1957, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội Khóa I đã bầu ra Ban sửa đổi Hiến pháp năm 1946, Ngành Tư pháp vinh dự với hai thành viên được tham gia Ban sửa đổi Hiến pháp là Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Đình Hòe và Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Công Tường. Trong đó, Thứ trưởng Trần Công Tường được tín nhiệm giao viết Lời nói đầu của bản Hiến pháp sửa đổi dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh [12].
Tháng 3 năm 1957, Ngành Tư pháp tổ chức Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ X và vinh dự được đón Chủ tịch Hồ Chí Minh tới dự và nói chuyện. Trong bài nói của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh:
“Khó khăn của Ngành Tư pháp là công tác chưa ổn định thiếu thốn mặt này mặt khác. Công việc nhiều và mới, cán bộ ít. Nhiệm vụ và quyền hạn Hiến pháp cũ đã quy định nhưng tình hình hiện nay đã khác, cho nên có chỗ không thích hợp.
Cán bộ tư pháp còn gặp khó khăn nữa là ít được học tập, do đó, đường lối, phương pháp công tác và tư tưởng còn bị ảnh hưởng.
Tuy vậy, trong thời gian kháng chiến và hơn 2 năm hòa bình, cán bộ tư pháp có cố gắng nhiều và có thành tích.
Trung ương Đảng và Chính phủ rất cảm thông những khó khăn của cán bộ tư pháp, nhưng phải giải quyết dần dần.
Một mặt cán bộ tư pháp phải cố gắng, một mặt Đảng và Chính phủ cần chú ý hơn. Bây giờ cả nước ta có nhiệm vụ chung cho các ngành là đấu tranh thống nhất nước nhà, khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm.
Trong nhiệm vụ chung đó, Tư pháp cần góp phần của mình là thực hiện chế độ pháp trị, giữ vững và bảo vệ quyền lợi nhân dân, bảo vệ chế độ dân chủ của ta. Đó là nhiệm vụ tích cực. Đồng thời có một nhiệm vụ nữa là ngăn ngừa trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ ta, phá hoại lợi ích của nhân dân.
Muốn thực hiện nhiệm vụ ấy, cần chú ý mấy điểm:
Nội bộ đoàn kết từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, làm gương cho nhân dân. Đoàn kết tức là lực lượng của chúng ta. Lúc mới kháng chiến lực lượng ta yếu hơn địch, nhưng ta thắng lợi vì ta đoàn kết. Cho nên, Ngành Tư pháp muốn khắc phục khó khăn phải đoàn kết nhất trí thật sự, muốn đoàn kết thật sự phải dựa trên cơ sở lập trường vững vàng, tư tưởng sáng suốt, nội bộ dân chủ, phải giúp đỡ nhau học tập tiến bộ, thật thà phê bình tự phê bình.
Luật pháp của ta có cái mới và cái cũ. Có cái cũ không thích dụng nữa. Cái mới thì chưa đầy đủ. Hiến pháp cũ có chỗ không thích hợp với tình hình và hoàn cảnh hiện nay. Vì vậy, khóa họp Quốc hội thứ 6 đã quyết định sửa đổi lại Hiến pháp. Trong việc sửa đổi Hiến pháp, cán bộ tư pháp cũng cần góp phần của mình”[13].
Để thực hiện những nhiệm vụ chính trị của Ngành, góp phần tích cực vào việc tăng cường chế độ pháp trị, Bộ Tư pháp thành lập Trường Bổ túc cán bộ tư pháp cấp huyện và khai giảng khóa đầu tiên vào ngày 28/4/1957. Mục đích yêu cầu của khóa học là nhằm xây dựng cho học viên về tư tưởng, chuyên môn và tác phong để quán xuyến được công tác tư pháp cấp huyện.
Ngày 19/7/1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 314-TTg về việc kiện toàn cơ quan tư pháp và khẳng định: “Cơ quan tư pháp là một bộ phận quan trọng của bộ máy chính quyền dân chủ nhân dân… cần tăng cường lãnh đạo tư tưởng và lãnh đạo chính sách, giúp cán bộ tư pháp nắm được tình hình và đường lối… cần tôn trọng quyền hạn và nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định cho cơ quan tư pháp [14]. Theo đó, ngày 24/7/1957, Bộ Tư pháp cũng ban hành Thông tư số 2800-HCTP về tổ chức bộ máy tư pháp để giải quyết những công việc tư pháp của các thị xã.
Về công tác pháp chế ở các Bộ, ngành và địa phương, ngày 26/10/1957, Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư số 506-TTg về việc tổ chức các cơ quan pháp chế. Bộ phận pháp chế của các Bộ có 5 nhiệm vụ cụ thể như sau:
- Nghiên cứu về mặt pháp lý các dự thảo luật lệ do các bộ phận chuyên môn hay cơ quan thuộc Bộ thảo ra để Bộ ban hành hoặc gửi lên cấp trên xét duyệt;
- Nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến công tác của Bộ; nghiên cứu góp ý về mặt pháp lý vào các dự thảo luật lệ chung của các cơ quan khác gửi đến;
- Làm các thủ tục về việc ban hành các nghị định, thông tư của Bộ;
- Góp ý kiến với các cơ quan thuộc Bộ và các cơ quan chính quyền và đoàn thể, sở quan để phổ biến cho cán bộ và nhân dân các luật lệ của Chính phủ và của Bộ ban hành;
- Sưu tầm các luật lệ, soát lại các văn bản của Bộ và cơ quan trực thuộc về mặt pháp lý. Đề nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ những văn bản ban hành không hợp lệ hoặc trái với các luật lệ hiện hành và các nguyên tắc pháp lý chung [15].
Tháng 4 năm 1958, theo Nghị quyết của kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá I, Tòa án nhân dân tối cao và Viện Công tố Trung ương được thành lập và có quyền hạn, trách nhiệm ngang một Bộ trực thuộc Hội đồng Chính phủ, cả hai tách khỏi Bộ Tư pháp. Sau đó, trên cơ sở Hiến pháp năm 1959, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960 đã hình thành hệ thống Tòa án nhân dân và hệ thống Viện kiểm sát nhân dân độc lập với Chính phủ. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp vẫn phối hợp chặt chẽ với Tòa án nhân dân tối cao, Viện Công tố Trung ương và Bộ Công an thực hiện liên tịch trong đánh giá, chỉ đạo công tác tư pháp, bảo vệ thành quả cách mạng, tăng cường chuyên chính đối với các thế lực thù địch, mở rộng dân chủ đối với nhân dân, động viên nhân dân tôn trọng pháp luật của Nhà nước.
Triển khai thi hành Hiến pháp mới năm 1959, ngày 11/2/1960, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 01/CP quy định nhiệm vụ và tổ chức của Bộ Tư pháp. Theo Nghị định này, Bộ Tư pháp có nhiệm vụ nghiên cứu những quy định về hệ thống tổ chức và thẩm quyền của Tòa án nhân dân địa phương các cấp, của Tư pháp cấp xã; hướng dẫn việc thực hiện các quy định ấy; nghiên cứu và dự thảo các bộ luật và các đạo luật tổng hợp về dân sự, hình sự và thủ tục tố tụng; chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật nhằm mục đích giáo dục cho nhân dân ý thức tuân theo pháp luật; nghiên cứu những quy định về hội thẩm nhân dân, về tổ chức luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên và quản lý các tổ chức ấy; đào tạo và giáo dục cán bộ tòa án và cán bộ tư pháp; quản lý cán bộ và biên chế của Ngành Tư pháp theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế; hướng dẫn, kiểm tra và tổng kết công tác của Ngành Tư pháp [16].
Ngày 15/3/1960, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 06 về tổ chức Bộ Tư pháp, theo đó, tổ chức Bộ Tư pháp gồm có:
- Vụ Tổ chức - Cán bộ có nhiệm vụ nghiên cứu những quy định, giúp Bộ hướng dẫn việc thực hiện ở các địa phương và tổng kết kinh nghiệm về những vấn đề sau đây:
+ Hệ thống tổ chức, thẩm quyền, tổ chức nội bộ của các Tòa án nhân dân địa phương; thiết lập các Tòa án nhân dân địa phương; những thể lệ về bầu cử, bãi miễn các thẩm phán Tòa án nhân dân địa phương; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của hội thẩm nhân dân, luật sư, bào chữa viên, công chứng viên, giám định viên; quản lý các tổ chức ấy; tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của tổ chức tư pháp ở xã, ở khu phố.
+ Nghiên cứu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tư pháp địa phương, giúp Bộ quản lý cán bộ và biên chế của Ngành Tư pháp theo chế độ phân cấp quản lý cán bộ và biên chế chung;
+ Dự thảo các đạo luật tổng hợp và các bộ luật về thủ tục tố tụng hình sự và dân sự; giúp Bộ hướng dẫn việc thực hiện các nguyên tắc về thủ tục tố tụng ở các Tòa án nhân dân địa phương; tổng kết kinh nghiệm về việc thực hiện thủ tục tố tụng ở các Tòa án nhân dân địa phương.
Vụ Tổ chức - Cán bộ gồm có: Phòng Tổ chức cán bộ và Phòng Chế định.
- Vụ Nghiên cứu pháp luật có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm về thi hành pháp luật hình sự và dân sự để dự thảo các đạo luật tổng hợp về hình sự, dân sự và bộ hình luật, bộ dân luật; sưu tầm những pháp luật về hình sự và dân sự đã được ban hành để làm tài liệu nghiên cứu cho các Tòa án và cơ quan tư pháp.
Vụ Nghiên cứu pháp luật gồm có: Phòng Hình luật và Phòng Dân luật.
- Vụ Tuyên giáo có nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu chương trình và kế hoạch đào tạo, giáo dục cán bộ tòa án và cán bộ tư pháp, giúp Bộ chỉ đạo công tác đào tạo, giáo dục cán bộ tòa án và cán bộ tư pháp địa phương;
+ Chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật ở các địa phương.
Vụ Tuyên giáo gồm có: Phòng Giáo dục và Phòng Tuyên truyền phổ biến pháp luật.
- Trường Cán bộ Tư pháp có nhiệm vụ huấn luyện về chính trị và nghiệp vụ cho các cán bộ tòa án và cán bộ tư pháp từ thẩm phán huyện hoặc tương đương thẩm phán huyện trở lên.
Trường Cán bộ Tư pháp gồm có: Phòng Giáo dục và Phòng Tổ chức - Hành chính.
- Văn phòng có nhiệm vụ giúp Bộ trưởng và Thứ trưởng trong việc tổng hợp tình hình công tác mọi mặt của Bộ, điều hòa, phối hợp công tác giữa các bộ phận của Bộ, theo dõi, nhắc nhở thực hiện chương trình công tác của Bộ, thực hiện chế độ và chương trình sinh hoạt của Bộ, theo dõi, nhắc nhở và phối hợp công tác giữa các bộ phận về công tác miền núi; nghiên cứu những công tác mà không có bộ phận nào phụ trách; phụ trách công tác thi đua; phụ trách các công tác tài chính, kế toán, quản trị và bảo vệ cơ quan.
Văn phòng gồm có: Phòng Hành chính - Tổng hợp và Phòng Kế toán - Quản trị [17].
Có thể nói, trong suốt 15 năm đầu của Nhà nước dân chủ nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ, đặc biệt là sự quan tâm chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ngành Tư pháp, Bộ Tư pháp đã đoàn kết, tập trung nỗ lực thực hiện tốt các nhiệm vụ do Đảng và Nhà nước giao phó trong việc xây dựng nền móng cho hệ thống pháp luật mới, tổ chức nền tư pháp nhân dân theo những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ, thiết lập tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, Tòa án, các cơ quan bổ trợ tư pháp, đóng góp phần quan trọng vào thành công của cuộc kháng chiến gian khổ, trường kỳ của dân tộc và đường lối xây dựng kinh tế trong những năm đầu lập lại hòa bình ở miền Bắc.
Chú thích:
[1]. Nguồn: Việt Nam Dân quốc Công báo, số 14, 1945, tr. 172.
[2]. Nguồn: Việt Nam Dân quốc Công báo, số 4, 1945, tr. 36.
[3]. Nguồn: Việt Nam Dân quốc Công báo, số 7, 1946, tr. 64 - 71.
[4]. Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 5, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 54.
[5]. Biên niên lịch sử Bộ Tư pháp Việt Nam, tập 1, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr. 73.
[6]. Trích Hồi ký Vũ Đình Hòe, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1994, tr. 98.
[7]. Hồ sơ số 777, Phông PTT, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia III.
[8]. Hồ Chí Minh - Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr. 67.
[9]. Xem: ThS. Nguyễn Xuân Tùng, Quan niệm về công lý ở Việt Nam từ năm 1945 đến cuộc cải cách tư pháp năm 1950, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11 (272), 2014, tr. 58 - 64.
[10]. Ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 97/SL quy định các nguyên tắc cơ bản về dân sự…
[11]. Xem: ThS. Nguyễn Xuân Tùng, Quan niệm về công lý ở Việt Nam từ năm 1945 đến cuộc cải cách tư pháp năm 1950, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 11 (272), 2014, tr. 58 - 64.
[12]. Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960, tr.174.
[13]. Hồ Chí Minh - Nhà nước và pháp luật, Nxb. Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr. 119.
[14]. Biên niên lịch sử Bộ Tư pháp Việt Nam, tập 1, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr. 130 - 131.
[15]. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 45, 1957, tr. 774 – 775.
[16]. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 7, 1960, tr. 97.
[17]. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 17, 1960, tr. 301.