1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ được mở rộng, khẳng định vị thế của Ngành Tư pháp trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước
1.1. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tư pháp được kiện toàn theo phạm vi quản lý nhà nước ngày càng mở rộng
1.1.1. Giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011
Ngày 02/8/2007, Quốc hội khóa XII, kỳ họp thứ nhất đã bỏ phiếu thông qua việc bổ nhiệm: (i) Chủ tịch và các Phó Chủ tịch Quốc hội, trong đó, ông Uông Chu Lưu, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch Quốc hội (với tỷ lệ gần 94% đại biểu Quốc hội bỏ phiếu tán thành); (ii) Các Phó Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ (với tỷ lệ 97,36% đại biểu Quốc hội bỏ phiếu tán thành), trong đó, ông Hà Hùng Cường, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Quảng Bình được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Tư pháp.
Lễ bàn giao chính thức công tác tư pháp giữa nguyên Bộ trưởng Uông Chu Lưu và Bộ trưởng Hà Hùng Cường đã được tổ chức vào ngày 04/9/2007. Ngành Tư pháp bước vào giai đoạn tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị về hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế [1].
Tính đến thời điểm đầu năm 2008, Ngành Tư pháp đã được kiện toàn theo Nghị định số 62/2003/NĐ-CP ngày 06/6/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp. Song để tiếp tục tăng cường, mở rộng và giao thêm cho Bộ, Ngành Tư pháp một số chức năng, nhiệm vụ mới, trên cơ sở dự thảo do Bộ Tư pháp trình, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp.
a. Về chức năng
Nghị định số 93/2008/NĐ-CP kế thừa Nghị định số 62/2003/NĐ-CP và chỉ bổ sung 01 chức năng mới là quản lý nhà nước về thi hành pháp luật nhằm thực hiện chủ trương đổi mới công tác xây dựng và ban hành pháp luật, bảo đảm quản lý, đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện về công tác xây dựng pháp luật, bao gồm từ xây dựng, thẩm định, kiểm tra đến theo dõi thi hành pháp luật, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của pháp luật, cũng như phát hiện, phản hồi những bất cập để góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật. Theo đó, “Bộ Tư pháp là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ” (Điều 1 Nghị định số 93/2008/NĐ-CP).
b. Về cơ cấu tổ chức
Theo Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và các văn bản có liên quan, Bộ Tư pháp gồm 27 đơn vị trực thuộc, trong đó có 20 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực: Xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật [2] và 07 đơn vị sự nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực: Nghiên cứu khoa học, xuất bản, báo chí, đào tạo cán bộ pháp luật và các chức danh tư pháp.
So với Nghị định số 62/2003/NĐ-CP, Bộ được thành lập mới và thay đổi tên gọi, kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của một số đơn vị, cụ thể:
- Thành lập mới Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật [3] với chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thực hiện quản lý nhà nước về công tác xây dựng, thi hành pháp luật và pháp chế theo quy định của pháp luật.
- Thành lập Tổng cục Thi hành án dân sự trên cơ sở nâng cấp Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008, Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự - Tổng cục đầu tiên trực thuộc Bộ Tư pháp, thống nhất quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự trong toàn quốc.
- Đổi tên Cục Con nuôi quốc tế thành Cục Con nuôi [4] sau khi được bổ sung thêm nhiệm vụ quản lý lĩnh vực nuôi con nuôi trong nước thuộc chức năng của Vụ Quản lý công chứng, hộ tịch, quốc tịch, lý lịch tư pháp, gọi chung là Vụ Hành chính tư pháp (theo quy định tại Nghị định số 62/2003/NĐ-CP).
- Thành lập Cục Công nghệ thông tin [5] trên cơ sở Trung tâm Tin học của Bộ Tư pháp, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng thống nhất quản lý hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn Ngành; tổ chức thực hiện việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ và cung cấp dịch vụ công nghệ thông tin theo quy định của pháp luật.
- Thành lập Cơ quan đại diện của Bộ Tư pháp tại thành phố Hồ Chí Minh [6] trên cơ sở nâng cấp Văn phòng 2 của Văn phòng Bộ Tư pháp tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Thành lập Học viện Tư pháp [7] trên cơ sở nâng cấp Trường Đào tạo các chức danh tư pháp (nhằm thực hiện nhiệm vụ thống nhất đào tạo các chức danh tư pháp theo Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020).
- Đổi tên Báo Pháp luật thành Báo Pháp luật Việt Nam.
Trong giai đoạn 2008 - 2010, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của 27 đơn vị thuộc Bộ lần đầu tiên được ban hành đầy đủ theo nguyên tắc phân công rành mạch, khoa học, hạn chế sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các đơn vị, đặc biệt “cấp phòng” được hình thành tại hầu hết các đơn vị [8] (khác với trước đây chỉ có tại Văn phòng Bộ, các Cục). Quy chế, phương thức làm việc có nhiều đổi mới, tiến bộ hơn, mở rộng dân chủ; phân cấp quản lý được đẩy mạnh đi đôi với việc tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, giám sát trong thực hiện [9].
Từ năm 2010 - 2011, theo quy định của các luật mới được Quốc hội thông qua [10], Bộ Tư pháp tiếp tục được giao thống nhất quản lý về công tác bồi thường trong hoạt động quản lý hành chính, thi hành án và cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Trên cơ sở đó, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Cục Bồi thường nhà nước trực thuộc Bộ Tư pháp được Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập [11].
Để bảo đảm hiệu quả công tác chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực công tác tư pháp của Bộ, Ngành theo chức năng mới, bắt kịp với xu thế phát triển của đất nước, Bộ Tư pháp đã tập trung kiện toàn và phát triển cơ cấu tổ chức, đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp. Năm 2008, cùng với việc Chính phủ ban hành Nghị định số 93/2008/NĐ-CP, Bộ Tư pháp cũng được Thủ tướng Chính phủ quyết định bổ nhiệm thêm 02 thứ trưởng là ông Nguyễn Đức Chính [12] và bà Nguyễn Thúy Hiền [13], khẳng định sự phát triển lớn mạnh của Ngành Tư pháp, phục vụ đắc lực hơn cho công tác chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ.
c. Về nhiệm vụ, quyền hạn
Nghị định số 93/2008/NĐ-CP về cơ bản kế thừa các quy định tại Nghị định số 62/2003/NĐ-CP, nhưng đã tổng hợp, khái quát các nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp được quy định tại các văn bản pháp luật liên quan, đồng thời bổ sung một số nhiệm vụ mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra và phù hợp với quy định tại Nghị định số 178/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Các nhiệm vụ mới được sửa đổi, bổ sung tại Điều 2 Nghị định này như sau:
- Về xây dựng pháp luật: Công tác xây dựng pháp luật được kế thừa trên cơ sở Nghị định số 62/2003/NĐ-CP, đồng thời bổ sung theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và phù hợp với yêu cầu thực tiễn xây dựng, hoàn thiện pháp luật hiện hành, bao gồm: (i) Trình Chính phủ dự thảo chiến lược xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật [14]; (ii) Lập dự kiến của Chính phủ về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về những vấn đề thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ; dự kiến phân công cơ quan chủ trì, phối hợp soạn thảo để trình Chính phủ quyết định; kiểm tra, đôn đốc việc soạn thảo các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội do Chính phủ trình [15]; (iii) Hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ trong việc dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; hướng dẫn các bộ, cơ quan ngang bộ, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về công tác soạn thảo, thẩm định văn bản quy phạm pháp luật [16].
- Về thi hành pháp luật: Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ giúp Chính phủ trong việc tổ chức thi hành pháp luật trong ngành, lĩnh vực phụ trách theo quy định tại Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001 và có trách nhiệm theo dõi việc thi hành pháp luật trong ngành, lĩnh vực đó. Điểm mới lần này là, Chính phủ đã tín nhiệm giao Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thi hành pháp luật trên phạm vi cả nước [17]. Nhiệm vụ này được quy định tại khoản 6 với 02 điểm: (i) Theo dõi chung tình hình thi hành pháp luật trong phạm vi cả nước; (ii) Hướng dẫn, đôn đốc các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong công tác theo dõi, đánh giá, báo cáo về tình hình thi hành pháp luật thuộc phạm vi quản lý của bộ, ngành, địa phương.
- Bổ sung nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ công tác pháp chế bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước và hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (khoản 17).
- Về hợp tác quốc tế: Bổ sung nhiệm vụ được quy định trong Điều 62 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là: Quản lý thống nhất công tác tương trợ tư pháp về dân sự, hình sự, dẫn độ và chuyển giao người đang chấp hành hình phạt tù giữa Việt Nam và nước ngoài; làm đầu mối thực hiện các hoạt động ủy thác tư pháp về dân sự theo quy định của pháp luật (điểm c khoản 18).
- Về bổ trợ tư pháp: Bổ sung nhiệm vụ quản lý nhà nước thống nhất về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi cả nước (điểm a khoản 12) theo Thông báo số 198/TB-VPCP ngày 08/8/2008 của Văn phòng Chính phủ, trong đó, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước thống nhất về tổ chức và hoạt động bán đấu giá tài sản trong phạm vi cả nước.
- Về nuôi con nuôi: Nghị định quy định cụ thể nhiệm vụ thống nhất quản lý nhà nước về nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là: Hướng dẫn, kiểm tra việc đăng ký nuôi con nuôi và thực hiện quyền, lợi ích của con nuôi trong nước và nước ngoài theo quy định của pháp luật; ban hành thống nhất biểu mẫu, giấy tờ trong lĩnh vực nuôi con nuôi; giải quyết các việc về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật (điểm a khoản 13).
1.1.2. Giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015
Trong giai đoạn này, Bộ Tư pháp tập trung đẩy mạnh các nhiệm vụ nhằm tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tái cơ cấu nền kinh tế, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của Ngành Tư pháp. Trong đó, Bộ đặt mục tiêu “phấn đấu đến năm 2015 tất cả các lĩnh vực hoạt động do Ngành Tư pháp quản lý đều có luật điều chỉnh trên cơ sở xây dựng mới một số luật còn thiếu và sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các luật hiện có” [18]. Theo đó, trong gần 5 năm (từ năm 2011 đến tháng 6/2015), Bộ đã soạn thảo, trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua mới hoặc sửa đổi, bổ sung hầu hết các luật, pháp lệnh liên quan đến cơ cấu, tổ chức mới hoặc tổ chức lại bộ máy, cán bộ của Bộ, Ngành Tư pháp [19].
Sự phát triển lớn mạnh của Bộ Tư pháp được thể hiện rõ nét qua việc đẩy mạnh công tác quy hoạch và bổ nhiệm theo quy hoạch cán bộ lãnh đạo với tầm nhìn dài hạn và mở rộng. Lãnh đạo Bộ đã có sự chỉ đạo sát sao hơn trong công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo từ cấp phòng đến cấp Lãnh đạo Bộ với những tiêu chí khách quan cả về trình độ, năng lực và đạo đức cách mạng, theo giai đoạn, nhiệm kỳ và có điều chỉnh hàng năm, từ đó tập trung thực hiện việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo theo quy hoạch, cơ bản hoàn thành sự nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo có đủ tâm, đủ tầm để phát triển sự nghiệp tư pháp trong thời kỳ sau.
Đối với Lãnh đạo Bộ: Ngày 12/8/2011, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1385/QĐ-TTg về việc điều động, bổ nhiệm ông Phạm Quý Tỵ [20] giữ chức Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Ngày 11/10/2011, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục quyết định bổ nhiệm 02 thứ trưởng của Bộ Tư pháp là Thứ trưởng Lê Thành Long [21] - theo Quyết định số 1776/QĐ-TTg và Thứ trưởng Lê Hồng Sơn [22] - theo Quyết định số 1777/QĐ-TTg với mục tiêu đào tạo, rèn luyện và phát triển cán bộ chiến lược cho Đảng, Nhà nước nói chung và cho Ngành Tư pháp nói riêng (theo quy hoạch, các đồng chí đã được luân chuyển công tác về địa phương trong năm 2014 [23] giữ các vị trí lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
Bên cạnh đó, đội ngũ Lãnh đạo Bộ tiếp tục có sự thay đổi đáng kể với việc 03 đồng chí thứ trưởng nghỉ hưu theo chế độ [24]. Để kiện toàn Lãnh đạo Bộ, ngày 16/8/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định bổ nhiệm 02 thứ trưởng của Bộ Tư pháp là Thứ trưởng Nguyễn Khánh Ngọc [25] - theo Quyết định số 1415/QĐ-TTg và Thứ trưởng Phan Chí Hiếu [26] - theo Quyết định số 1416/QĐ-TTg. Tính đến tháng 7/2015, Bộ Tư pháp có 04 đồng chí thứ trưởng giúp Bộ trưởng quản lý, chỉ đạo, điều hành 33 lĩnh vực công tác của Bộ, Ngành.
Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết phê chuẩn đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao về việc bổ nhiệm Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (vào ngày 26/6/2015) với tỷ lệ nhất trí cao, trong đó có Thứ trưởng Nguyễn Thúy Hiền.
Đối với lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng: Quy hoạch đội ngũ lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng đã được Bộ Tư pháp chú trọng thực hiện bài bản theo từng giai đoạn, có bổ sung hàng năm. Trên cơ sở quy hoạch, Bộ đã cơ bản kiện toàn xong đội ngũ lãnh đạo cấp vụ, cấp phòng, bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị thuộc Bộ trong thời gian qua; tiếp tục tìm phương thức mới trong công tác bổ nhiệm lãnh đạo quản lý theo chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Với sự phát triển nhanh về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ, Ngành Tư pháp mà trong 5 năm (từ năm 2008 đến năm 2013) kể từ khi Nghị định số 93/2008/NĐ-CP được ban hành đã không thể bao hàm hết được. Do vậy, cùng với việc sửa đổi thể chế về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, các bộ, ngành, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp [27], trong đó tiếp tục bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ mới của Bộ Tư pháp theo các luật, pháp lệnh đã quy định trong giai đoạn này.
a. Về chức năng
Điều 1 Nghị định số 22/2013/NĐ-CP kế thừa Điều 1 Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và có sửa đổi, bổ sung thêm 04 lĩnh vực quản lý nhà nước, cụ thể như sau: “Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án và các công tác tư pháp khác trong phạm vi cả nước; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong các lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước của Bộ” [28].
b. Về cơ cấu tổ chức
Bộ Tư pháp tiếp tục được mở rộng với 35 đơn vị thuộc Bộ (tăng 08 đơn vị so với giai đoạn 2007 - 2010), trong đó có 23 đơn vị giúp Bộ trưởng thực hiện chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực: Công tác xây dựng và thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự và thi hành án hành chính; hành chính tư pháp; bổ trợ tư pháp; bồi thường nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính và thi hành án; trợ giúp pháp lý; đăng ký giao dịch bảo đảm; hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật; thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính [29] và 12 đơn vị sự nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực: Lý lịch tư pháp, nghiên cứu khoa học, xuất bản, báo chí, đào tạo cán bộ pháp luật và các chức danh tư pháp [30].
Các đơn vị được tiếp nhận, thành lập mới và nâng cấp là:
- Tiếp nhận
Cục Kiểm soát thủ tục hành chính từ Văn phòng Chính phủ theo Quyết định số 1668/QĐ-TTg ngày 08/11/2012 của Thủ tướng Chính phủ về việc chuyển nhiệm vụ và bộ máy tổ chức của Cục Kiểm soát thủ tục hành chính từ Văn phòng Chính phủ sang Bộ Tư pháp [31], bảo đảm thống nhất quản lý nhà nước của Bộ trên các lĩnh vực xây dựng, thẩm định và kiểm soát thủ tục hành chính.
- Thành lập
Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực [32] trên cơ sở nâng cấp Vụ Hành chính tư pháp trong việc thực hiện 03 chức năng quản lý nhà nước về hộ tịch, quốc tịch, chứng thực (không còn chức năng quản lý lý lịch tư pháp).
- Thành lập
Cục Bổ trợ tư pháp [33] trên cơ sở nâng cấp Vụ Bổ trợ tư pháp trong việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, bán đấu giá tài sản, trọng tài thương mại.
- Thành lập
Cục Công tác phía Nam [34] trên cơ sở nâng cấp Cơ quan đại diện của Bộ Tư pháp tại thành phố Hồ Chí Minh, có chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng quản lý và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trong lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của Bộ tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương từ Phú Yên trở vào đến Cà Mau theo ủy quyền của Bộ trưởng; thực hiện công tác quản trị nội bộ phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành của Bộ Tư pháp tại khu vực.
- Bổ sung việc thành lập
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia (đã được thành lập năm 2011) để thực hiện Luật Lý lịch tư pháp năm 2009.
- Bổ sung việc thành lập Cục Bồi thường nhà nước (đã được thành lập năm 2011) để thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009.
Ngày 15/5/2014,
Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật được thành lập theo Quyết định số 717/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ để thực hiện 02 chức năng chính là quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính (theo Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012) và theo dõi thi hành pháp luật (được chuyển giao cả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Phòng Theo dõi thi hành pháp luật từ Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật).
Thực hiện Đề án quy hoạch thành lập một số trường trung cấp luật của Bộ Tư pháp (Quyết định số 2381/QĐ-BTP ngày 13/9/2010), trong vòng hai năm (từ năm 2010 đến năm 2012), 05 trường trung cấp luật đã được thành lập tại 05 khu vực từ Bắc vào Nam của đất nước [35] (theo thứ tự thành lập là: Trường Trung cấp Luật Buôn Ma Thuột tại tỉnh Đắk Lắk, Trường Trung cấp Luật Vị Thanh tại tỉnh Hậu Giang, Trường Trung cấp Luật Thái Nguyên tại tỉnh Thái Nguyên, Trường Trung cấp Luật Đồng Hới tại tỉnh Quảng Bình, Trường Trung cấp Luật Tây Bắc tại tỉnh Sơn La) - đánh dấu bước tiến quan trọng về đào tạo nguồn nhân lực theo Chiến lược phát triển nguồn nhân lực Ngành Tư pháp giai đoạn 2011 - 2020, tăng cường đào tạo nguồn cán bộ pháp luật cho các địa phương, nhất là cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã.
Đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Bộ Tư pháp tiếp tục được tăng cường, nâng cao trình độ để đảm nhiệm các nhiệm vụ chính trị được giao. Tính đến tháng 5/2015, tổng số cán bộ, công chức, viên chức, người lao động của Bộ Tư pháp là 1.708 [36], trong đó, có 05 Giáo sư, 25 Phó Giáo sư, 185 tiến sỹ, 475 thạc sỹ, 1.919 cử nhân, 173 người trình độ cao đẳng và trung cấp hoặc tương đương.
c. Về nhiệm vụ, quyền hạn
Nghị định số 22/2013/NĐ-CP tiếp tục kế thừa các nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tư pháp theo Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và bổ sung các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại các luật, pháp lệnh mới được ban hành, đồng thời mở rộng một số nhiệm vụ, quyền hạn đã có, bao gồm: (i) Quản lý nhà nước về kiểm soát thủ tục hành chính; (ii) Theo dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh [37]; theo dõi thi hành pháp luật trong các lĩnh vực phức tạp, đòi hỏi sự phối hợp liên ngành; (iii) Quản lý nhà nước về công tác bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước; (iv) Thi hành án hành chính theo Luật Tố tụng hành chính; (v) Lý lịch tư pháp, đặc biệt là việc xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia theo Luật Lý lịch tư pháp; (vi) Quản lý nhà nước về công tác theo dõi thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; (vii) Xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về phổ biến, giáo dục pháp luật theo Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật; (viii) Tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về giám định tư pháp theo Luật Giám định tư pháp; (ix) Là cơ quan đầu mối quốc gia thực thi Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị; (x) Là đại diện pháp lý của Chính phủ trong việc giải quyết các tranh chấp quốc tế; (xi) Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật và pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật...
Với “diện mạo” mới, Bộ Tư pháp chú trọng hơn đến việc chuyển hướng chiến lược từ xây dựng pháp luật sang tổ chức thi hành pháp luật, bắt đầu gắn kết giữa công tác xây dựng pháp luật với công tác thi hành pháp luật, góp phần đưa công tác tư pháp ngày càng khởi sắc, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao và nâng cao vị thế, vai trò của Bộ, Ngành Tư pháp trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Đối với khối đào tạo nguồn nhân lực pháp lý và các chức danh tư pháp, giai đoạn này đánh dấu một bước ngoặt lớn về quy mô, chất lượng đào tạo. Trên cơ sở Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, từ năm 2008 đến năm 2013, Bộ Tư pháp đã nỗ lực phối hợp với các Bộ, Tòa án, Viện kiểm sát xây dựng Đề án, xin ý kiến Bộ Chính trị và tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” [38]; Đề án tổng thể “Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật” [39], với mục tiêu đến năm 2020, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng đào tạo cán bộ pháp luật, tư pháp, nhằm thực hiện thành công các mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đồng thời với hai Đề án này, Bộ cũng đã chủ động đề xuất giải pháp kiện toàn đội ngũ cán bộ pháp luật, cán bộ tư pháp ở các cấp chính quyền cơ sở mà hiện còn đang thiếu hụt về trình độ pháp luật, khó có thể đảm đương các nhiệm vụ chính trị tại địa phương theo Đề án quy hoạch thành lập một số trường trung cấp luật của Bộ Tư pháp [40] và sau khi được thành lập, 05 trường trung cấp luật đã khẩn trương xây dựng cơ sở vật chất (đã hoàn thành giai đoạn I và đang triển khai giai đoạn II), khắc phục khó khăn trước mắt để tổ chức hoạt động bước đầu đạt hiệu quả, cơ bản hoàn thành tốt các chỉ tiêu đào tạo, bồi dưỡng được giao với tổng số học viên tốt nghiệp tăng lên so với năm trước liền kề, bảo đảm cung cấp nguồn cán bộ pháp luật cho các địa phương, nhất là cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã.
1.2. Hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự ngày càng phát triển vững mạnh và tiếp tục ghi thêm những trang sử mới
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định: “Chuẩn bị điều kiện về cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án”, lần đầu tiên trong lịch sử hoạt động thi hành án dân sự, thể chế được hoàn thiện đầy đủ (trong phạm vi lĩnh vực quản lý nhà nước của Bộ Tư pháp) và ở tầm cao nhất là Luật Thi hành án dân sự đã được Quốc hội thông qua ngày 14/11/2008 [41], có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2009 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014), tạo cơ sở rõ ràng hơn cho việc tổ chức hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự theo nguyên tắc quản lý tập trung, thống nhất theo ngành dọc từ trung ương đến địa phương, tương đối độc lập với các cơ quan tư pháp ở địa phương (Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp).
Trên cơ sở đó, từ năm 2009 đến nay, Cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp được nâng cấp thành
Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp; hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp được thành lập tại cấp tỉnh, cấp huyện (Cục Thi hành án dân sự ở cấp tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự ở cấp huyện). Đây là sự kiện pháp lý quan trọng đánh dấu sự chuyển biến cơ bản về mô hình tổ chức và hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, tạo điều kiện để Bộ Tư pháp thực hiện tốt hơn công tác quản lý thi hành án dân sự và chỉ đạo tổ chức thi hành hiệu quả các bản án, quyết định của Tòa án về phần dân sự, nhằm đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra và sự mong đợi của xã hội.
Về chức năng, các cơ quan thi hành án dân sự đồng thời đảm nhiệm công tác thi hành án dân sự theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (được sửa đổi, bổ sung năm 2014) và quản lý nhà nước về thi hành án hành chính theo Luật Tố tụng hành chính năm 2010 (được sửa đổi, bổ sung năm 2013). Trên cơ sở Luật Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự (Nghị định số 74/2009/NĐ-CP ngày 09/9/2009 [42]). Trên cơ sở Nghị định này, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thi hành án dân sự lần đầu tiên đã bao quát đầy đủ lĩnh vực quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, đó là “tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tư pháp quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự trong phạm vi cả nước; thực hiện quản lý chuyên ngành về thi hành án dân sự theo quy định của pháp luật” [43].
Trong vòng 01 năm kể từ thời điểm Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực, hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự được tổ chức theo ngành dọc từ trung ương đến 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đã cơ bản kiện toàn xong một phần quan trọng về tổ chức, như đã thành lập Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp [44] và các Cục Thi hành án dân sự ở cấp tỉnh, Chi cục Thi hành án dân sự ở cấp huyện, Cục Thi hành án trực thuộc Bộ Quốc phòng - hình thành một vị thế mới cho hệ thống các cơ quan thi hành án dân sự nói riêng và Ngành Tư pháp nói chung, góp phần hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ chính trị được giao.
Xác định được tầm quan trọng của công tác thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp đã tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận “Ngày truyền thống Thi hành án dân sự” là ngày 19/7 hàng năm [45]. Theo Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu - nguyên Bộ trưởng Bộ Tư pháp, thì đây là một vinh dự nhưng cũng là trách nhiệm đối với Ngành Tư pháp, các cơ quan thi hành án, cán bộ, công chức thi hành án dân sự.
Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về thi hành án hành chính theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính, Bộ Tư pháp đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 61/2014/QĐ-TTg ngày 30/10/2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, theo đó, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thi hành án dân sự được kiện toàn thêm một bước, với việc bổ sung chức năng quản lý nhà nước về thi hành án hành chính và 01 đơn vị mới (Vụ Quản lý thi hành án hành chính) để tham mưu giúp Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự trong quản lý nhà nước về thi hành án hành chính. Đồng thời, Quyết định này cũng quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan thi hành án dân sự các cấp, trong đó có chức năng mới bổ sung về thi hành án hành chính đối với Cục Thi hành án dân sự cấp tỉnh và đôn đốc thi hành án hành chính đối với Chi cục Thi hành án dân sự cấp huyện.
Đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự cũng có những bước tiến vượt bậc về số lượng (cơ bản được kiện toàn đầy đủ), trình độ và năng lực. Tính đến tháng 6/2015, cả nước có 63 Cục Thi hành án dân sự ở cấp tỉnh và 705 Chi cục Thi hành án dân sự ở cấp huyện, các cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện được 9.614/9.957 biên chế được giao, trong đó có 4.086 chấp hành viên, 588 thẩm tra viên, 1.730 thư ký thi hành án và 277 thư ký trung cấp thi hành án.
1.3. Các cơ quan tư pháp ở địa phương được quan tâm kiện toàn mạnh mẽ về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ
1.3.1. Những bước phát triển mới của Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
Tại nhiệm kỳ 2007 - 2011, công tác tổ chức, cán bộ tiếp tục được Ngành Tư pháp xác định là trọng tâm hàng đầu, có ý nghĩa quyết định, bảo đảm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được giao. Chính vì vậy, 02 năm liên tục (2008, 2009) được toàn Ngành xác định là các năm “Công tác tổ chức cán bộ” và năm 2010 được xác định là năm “Công tác tổ chức cán bộ hướng về cơ sở”. Trong giai đoạn này, tổ chức bộ máy của các cơ quan tư pháp từ tỉnh đến xã đã không ngừng được củng cố, kiện toàn, đội ngũ cán bộ tư pháp được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Các lĩnh vực công tác tổ chức cán bộ như kiện toàn tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đã được chủ động triển khai thực hiện, góp phần tích cực xây dựng Ngành đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng đất nước.
Để tiếp tục kiện toàn tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp địa phương, Ngành Tư pháp đã khảo sát, đánh giá và tổng kết tình hình tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp địa phương theo Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV ngày 05/5/2005 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức các cơ quan chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân quản lý nhà nước về công tác tư pháp ở địa phương, xây dựng Đề án củng cố, kiện toàn cơ quan tư pháp địa phương phục vụ cho việc soạn thảo Thông tư liên tịch mới về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan tư pháp địa phương phù hợp với nhiệm vụ mới được giao và xu hướng phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước nói chung, Ngành Tư pháp nói riêng.
Trên cơ sở Nghị định số 93/2008/NĐ-CP và kế thừa Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV, Liên Bộ Tư pháp - Nội vụ đã ban hành Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV ngày 28/4/2009 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện và công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã. Theo Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, các cơ quan tư pháp địa phương tiếp tục được thành lập ở 03 cấp gồm có: Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; cấp xã có công chức tư pháp - hộ tịch làm công tác chuyên môn giúp Ủy ban nhân dân cấp xã quản lý nhà nước về công tác tư pháp trong phạm vi địa phương.
Chức năng của các cơ quan tư pháp địa phương theo Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV được mở rộng thêm so với Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV ở chức năng quản lý nhà nước về thi hành văn bản quy phạm pháp luật (tương ứng với chức năng của Bộ Tư pháp), đồng thời với đó là việc quy định thành các nhóm nhiệm vụ, quyền hạn về thi hành văn bản quy phạm pháp luật, thi hành án dân sự, công chứng, chứng thực, hộ tịch, quốc tịch, luật sư, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, bán đấu giá tài sản..., có bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan, cụ thể là:
- Bổ sung nhiệm vụ về thi hành pháp luật cho cơ quan tư pháp địa phương theo quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Nghị định số 93/2008/NĐ-CP;
- Sửa đổi quy định về đăng ký và quản lý hộ tịch của cơ quan tư pháp địa phương theo quy định tại Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch;
- Sửa đổi quy định về quản lý công chứng và chứng thực của cơ quan tư pháp địa phương theo quy định tại Luật Công chứng năm 2006 và Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký;
- Sửa đổi nhiệm vụ quản lý nhà nước về thi hành án dân sự theo quy định của Luật Thi hành án dân sự năm 2008, theo đó Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp tham mưu giúp Ủy ban nhân dân cùng cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về công tác thi hành án dân sự ở địa phương theo quy định của pháp luật; Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp với cơ quan thi hành án dân sự trong công tác thi hành án dân sự trên địa bàn theo quy định của pháp luật;
- Nhiệm vụ quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản được quy định trên cơ sở Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản, Nghị định số 16/2009/NĐ-CP ngày 16/02/2009 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 8 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, theo đó, Sở Tư pháp tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bán đấu giá tài sản ở địa phương theo quy định của pháp luật.
Cùng với Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNVBan Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có Công văn số 60-CV/BCS ngày 10/6/2009 gửi Ban Thường vụ tỉnh ủy, thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương về việc đề nghị quan tâm kiện toàn, củng cố cơ quan tư pháp địa phương, trong đó đề nghị xây dựng và chỉ đạo việc tổ chức thực hiện Đề án kiện toàn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức, biên chế của Sở Tư pháp, tổ chức pháp chế, Phòng Tư pháp và tư pháp cấp xã, nổi bật nhất là:
(i) Ban hành quyết định mới quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp đồng thời bổ sung biên chế đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao (tách thành hai phòng là Phòng Hành chính tư pháp và Phòng Bổ trợ tư pháp trong Sở Tư pháp);
(ii) Thành lập Phòng Pháp chế, bố trí công chức có trình độ, năng lực làm công tác pháp chế trong các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
(iii) Sắp xếp lại, quyết định bổ sung cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã, bảo đảm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao, đặc biệt ở những nơi có khối lượng công việc lớn, dân số đông cần được bố trí thêm công chức...
Trong gần 05 năm triển khai thực hiện Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã quan tâm chỉ đạo ban hành đề án, kế hoạch kiện toàn các cơ quan tư pháp ở địa phương, qua đó từng bước thành lập bộ máy và bố trí cơ bản đủ nhân lực cho công tác tư pháp theo hướng chuyên môn hóa chuyên sâu theo từng lĩnh vực, gắn với yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
Tính đến hết ngày 31/10/2014, tổng số các đơn vị thực hiện chức năng quản lý thuộc Sở (bao gồm Văn phòng, Thanh tra và các phòng chuyên môn nghiệp vụ) là 496 phòng, trung bình đạt 7,86 phòng nghiệp vụ/01 Sở, trong đó, Sở Tư pháp thành phố Hà Nội có 12 phòng, thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Đắk Lắk có 11 phòng; thành phố Hải Phòng và Cần Thơ có 10 phòng; các tỉnh Hải Dương, Long An, Quảng Ninh có 09 phòng; 39 địa phương có 08 phòng; 11 địa phương có 07 phòng. Các địa phương có 06 phòng nghiệp vụ gồm Bạc Liêu, Gia Lai, Lai Châu. Số lượng cán bộ, công chức của các Sở Tư pháp tăng gần gấp hai lần số lượng cán bộ tư pháp so với nửa đầu năm 2007 [46].
Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động bổ trợ tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW, các tổ chức công chứng, bán đấu giá tài sản cũng từng bước được thành lập tại các địa phương, trở thành một tổ chức xã hội - nghề nghiệp độc lập, cùng với các đơn vị sự nghiệp khác được quy định nằm trong cơ cấu các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Sở (Trung tâm Trợ giúp pháp lý, Phòng Công chứng, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản)...
Bước phát triển kế tiếp trong giai đoạn này là khi Liên Bộ Tư pháp - Nội vụ ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22/12/2014). Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV có hiệu lực kể từ ngày 15/02/2015 và thay thế: (i) Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV; (ii) Thông tư liên tịch số 18/2011/TTLT-BTP-BNV ngày 19/10/2011 của Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ hướng dẫn nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và biên chế của Sở Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Phòng Tư pháp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện về bồi thường nhà nước; (iii) Điều 4, Điều 5, Điều 6 Thông tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VPCP-BNV ngày 26/01/2011 của Văn phòng Chính phủ và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và biên chế của bộ phận kiểm soát thủ tục hành chính thuộc văn phòng bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Đây là Thông tư liên tịch bao quát các lĩnh vực công tác của Ngành Tư pháp ở các cấp chính quyền địa phương, bảo đảm số lượng biên chế đủ để các cơ quan tư pháp triển khai tốt các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tại địa phương.
Về chức năng, nhiệm vụ, Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV đã bổ sung chức năng của Sở Tư pháp trong các lĩnh vực mới được giao như: Kiểm soát thủ tục hành chính, bồi thường nhà nước, quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính; sửa đổi, bổ sung các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Sở Tư pháp trong các lĩnh vực như: Theo dõi thi hành pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật; lý lịch tư pháp; bồi thường nhà nước; công chứng; luật sư; tư vấn pháp luật; bán đấu giá tài sản; giám định tư pháp; đăng ký giao dịch bảo đảm; công tác pháp chế…
Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Thông tư liên tịch này đã quy định cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp có Văn phòng Sở, Thanh tra Sở và 06 phòng chuyên môn, nghiệp vụ (trong đó thành lập Phòng Lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp thành phố trực thuộc trung ương), trừ Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là không quá 09 phòng chuyên môn, nghiệp vụ [47]; góp phần hạn chế việc thiếu thống nhất về số lượng phòng tại các Sở Tư pháp (tăng cao hơn so với thực tế trước đây tối đa đến 03 phòng).
1.3.2. Thực hiện kiện toàn cơ bản tổ chức và đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện, xã
a. Phòng Tư pháp cấp huyện đang được tiếp tục kiện toàn về tổ chức bộ máy, cán bộ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mới được giao
Tiếp tục kế thừa Thông tư liên tịch số 04/2005/TTLT-BTP-BNV, chức năng của Phòng Tư pháp tiếp tục được giữ nguyên tại Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV, với tư cách “là cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện; tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng và thi hành văn bản quy phạm pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi hành án dân sự; chứng thực; hộ tịch; trợ giúp pháp lý; hòa giải ở cơ sở và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật”.
Trên cơ sở đánh giá tình hình công tác tổ chức, cán bộ tư pháp cấp huyện năm 2006, trong đó xác định: “Đội ngũ cán bộ tư pháp cấp huyện và xã một số nơi quá thiếu dẫn đến tình trạng quá tải công việc, nhất là trong tình hình thực hiện phân cấp mạnh cho cơ sở trong một số lĩnh vực công tác như hiện nay...” [48], nhiệm kỳ 2007 - 2011, các địa phương đã chỉ đạo đẩy mạnh việc kiện toàn tổ chức, cán bộ tư pháp cấp huyện theo Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV. Cuối năm 2010, phần lớn các Phòng Tư pháp cấp huyện đã có quyết định mới quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, biên chế và có Đề án kiện toàn; bình quân mỗi Phòng Tư pháp cấp huyện có khoảng 3,7 cán bộ, so với giai đoạn trước 2006 tăng trên 12%.
Cùng với Sở Tư pháp được kiện toàn theo Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV, Phòng Tư pháp cũng tiếp tục được mở rộng chức năng tham mưu, giúp ủy ban nhân dân cấp huyện quản lý nhà nước về công tác xây dựng và thi hành pháp luật; theo dõi thi hành pháp luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; kiểm soát thủ tục hành chính; phổ biến, giáo dục pháp luật; hòa giải ở cơ sở; nuôi con nuôi; hộ tịch; chứng thực; bồi thường nhà nước; trợ giúp pháp lý; quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật (bổ sung theo Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV) [49], trong đó bổ sung nhiệm vụ của Phòng Tư pháp theo pháp luật hiện hành như:
- Bổ sung nhiệm vụ về kiểm soát thủ tục hành chính tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP.
- Bổ sung nhiệm vụ về xây dựng xã, phường tiếp cận pháp luật tại khoản 5 Điều 12 theo Quyết định số 09/2013/QĐ-TTg ngày 24/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ ban hành quy định về chuẩn tiếp cận pháp luật của người dân tại cơ sở.
- Bổ sung chức năng quản lý nhà nước về bồi thường nhà nước. Khoản 16 Điều 5 Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV đã cụ thể hóa nhiệm vụ của Phòng Tư pháp về bồi thường nhà nước theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Bổ sung quy định nhiệm vụ của Phòng Tư pháp về quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính tại khoản 18 Điều 5 Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV để phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Về tổ chức, biên chế, Phòng Tư pháp có Trưởng phòng, không quá 03 Phó Trưởng phòng và các công chức khác (tăng 01 Phó Trưởng phòng so với Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV) [50].
Tính đến hết ngày 31/12/2014, cả nước có 704 Phòng Tư pháp, trong đó về cơ bản, cơ cấu tổ chức của các đơn vị đã có Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng và chuyên viên [51]. Nhằm đáp ứng yêu cầu công việc, việc phân công công tác của các công chức Phòng Tư pháp được thực hiện theo các lĩnh vực công tác như: Xây dựng pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật, phổ biến, tuyên truyền pháp luật hoặc công tác hành chính tư pháp..., trong đó nhiều nơi, công chức của Phòng Tư pháp được giao trực tại bộ phận một cửa hoặc một cửa liên thông để tiếp nhận và giải quyết các công việc theo phân công của Ủy ban nhân dân cấp huyện.
b. Công tác tư pháp cấp xã và công chức tư pháp - hộ tịch đã được quan tâm kiện toàn, góp phần thúc đẩy công tác tư pháp từ cơ sở
Nhiệm vụ của công tác tư pháp cấp xã và công chức tư pháp - hộ tịch được quy định theo các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quản lý công tác xây dựng pháp luật và tư pháp, Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV và Thông tư liên tịch số 03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27/5/2010 của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2009/NĐ-CP… Xác định được sự thiếu hụt đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã từ khi thành lập lại Bộ, Ngành Tư pháp cho đến năm 2006 mà Báo cáo số 4437/BC-BTP ngày 29/12/2006 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2006 và phương hướng công tác năm 2007 đã nêu: ... Đội ngũ cán bộ tư pháp xã quá mỏng; trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ tư pháp xã có nhiều hạn chế... [52], trong đó nhấn mạnh tình trạng phổ biến là không có hoặc chỉ có 01 công chức tư pháp - hộ tịch/01 đơn vị cấp xã và trình độ hạn chế làm ảnh hưởng lớn đến chủ trương phân cấp, phân quyền ngày càng nhiều cho cấp cơ sở, ảnh hưởng lớn đến quyền lợi của người dân và sự phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương, với sự nỗ lực chỉ đạo, điều hành của Bộ Tư pháp và sự quan tâm phối hợp của cấp ủy, chính quyền địa phương trong nhiệm kỳ 2007 - 2011, tư pháp cấp xã cũng được quan tâm xây dựng, củng cố về số lượng, nâng cao chất lượng; đội ngũ công chức tư pháp - hộ tịch chuyên trách từ chỗ còn chưa được quan tâm bố trí đầy đủ đã cơ bản được kiện toàn tối thiểu 01 biên chế tại 100% đơn vị hành chính cấp xã, với tổng số 17.332 công chức, người lao động (tính đến hết tháng 12/2014), gần một nửa đơn vị cấp xã đã bố trí từ 02 công chức tư pháp - hộ tịch trở lên hoặc có bố trí cán bộ hợp đồng để hỗ trợ thực hiện công tác tư pháp tại cấp xã (điển hình như tỉnh Bình Thuận đã hoàn thành việc bố trí này tại 100% đơn vị cấp xã từ năm 2010) [53].
Luật Hộ tịch năm 2014 đã quy định cụ thể nhiệm vụ của công chức tư pháp - hộ tịch làm công tác hộ tịch cấp xã. Để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong việc xây dựng, ban hành Thông tư liên tịch giữa các bộ, ngành và Bộ Nội vụ theo hướng tập trung hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức đối với các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện, Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV không quy định việc hướng dẫn công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã thành một chương riêng mà quy định tại Điều 8 về trách nhiệm thi hành Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV. Nhiệm vụ công tác tư pháp cấp xã được xác định trên cơ sở kế thừa quy định về công tác tư pháp của Ủy ban nhân dân cấp xã tại Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV và bổ sung các nhiệm vụ mới được giao, bao gồm:
- Kiểm soát thủ tục hành chính;
- Quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính;
- Thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã, phường, thị trấn tiếp cận pháp luật.
Cùng gắn với quy định nhiệm vụ của công tác tư pháp cấp xã, Điều 8 Thông tư liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV cũng quy định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm biên chế, bố trí công chức tư pháp - hộ tịch (chuyên trách) theo đúng quy định của pháp luật. Và từ thời điểm này, vị trí công tác tư pháp tại cấp chính quyền cơ sở được khẳng định ở tầm pháp lý cao nhất và có cơ hội nâng cao vị thế một cách vững chắc, phục vụ tốt nhất yêu cầu quản lý nhà nước về công tác tư pháp và phụng sự nhân dân tại địa phương.
1.4. Tổ chức pháp chế được thành lập tại các bộ, ban, ngành trung ương và các sở, ban, ngành thuộc các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, các doanh nghiệp nhà nước
Ngày 04/7/2011 đã đánh dấu sự kiện trọng đại của tổ chức pháp chế sau hơn 1/4 thế kỷ xây dựng và phát triển, đó là Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2011/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của tổ chức pháp chế. Lần đầu tiên hệ thống tổ chức bộ máy các cơ quan pháp chế đã được quy định cứng tại các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và 14 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nghị định này giao Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp chỉ đạo công tác pháp chế trong phạm vi ngành, lĩnh vực quản lý và địa phương. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc nâng cao nhận thức, vị trí, vai trò và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác pháp chế, nhất là trong điều kiện tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tiếp tục triển khai những chủ trương quan trọng của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp trong giai đoạn chiến lược mới.
Nghị định số 55/2011/NĐ-CP đã xác định cụ thể, rõ ràng hơn về vị trí, chức năng của các tổ chức pháp chế, theo đó quy định tổ chức pháp chế ở bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh là đơn vị chuyên môn, có chức năng tham mưu và giúp Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc quản lý nhà nước bằng pháp luật trong ngành, lĩnh vực được giao và tổ chức thực hiện công tác pháp chế theo quy định (khoản 1 Điều 2); tổ chức pháp chế ở doanh nghiệp nhà nước là đơn vị chuyên môn, có chức năng tham mưu, tư vấn cho lãnh đạo doanh nghiệp về những vấn đề pháp lý liên quan đến tổ chức, quản lý và hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp (khoản 2 Điều 2).
Điểm mới trong việc quy định về tổ chức pháp chế theo Nghị định số 55/2011/NĐ-CP là:
- Căn cứ vào nhu cầu công tác pháp chế, Thủ tướng Chính phủ quyết định việc thành lập tổ chức pháp chế ở các Tổng cục và tương đương; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ quyết định việc thành lập tổ chức pháp chế hoặc bố trí công chức pháp chế chuyên trách ở các Cục trực thuộc.
- Quy định cứng về việc thành lập phòng pháp chế ở 14 cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trừ Sở Tư pháp, Thanh tra, Văn phòng Ủy ban nhân dân. Các cơ quan chuyên môn được thành lập theo đặc thù riêng của từng địa phương và ở các cơ quan chuyên môn khác thì do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định việc thành lập Phòng Pháp chế hoặc bố trí công chức pháp chế chuyên trách.
- Quy định giao cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định việc thành lập và cơ cấu tổ chức pháp chế hoặc bố trí cán bộ pháp chế chuyên trách trong lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân.
- Căn cứ vào nhu cầu công tác pháp chế, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc, Giám đốc doanh nghiệp nhà nước quyết định việc thành lập tổ chức pháp chế hoặc bố trí nhân viên pháp chế chuyên trách.
Bên cạnh đó, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP đã bổ sung các quy định mới về công tác quản lý, hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ và cơ chế phối hợp trong công tác pháp chế giữa các tổ chức pháp chế với nhau và giữa các tổ chức pháp chế với Bộ Tư pháp, Sở Tư pháp. Riêng trong lực lượng quân đội nhân dân và công an nhân dân, Nghị định này giao Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể.
Về người làm công tác pháp chế và tiêu chuẩn, Nghị định số 55/2011/NĐ-CP bổ sung những quy định mới, theo hướng xác định rõ những người làm công tác pháp chế gồm công chức pháp chế ở tổ chức pháp chế thuộc bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân cấp tỉnh; cán bộ pháp chế ở các đơn vị quân đội nhân dân, công an nhân dân; viên chức pháp chế ở đơn vị sự nghiệp công lập; và nhân viên pháp chế ở tổ chức pháp chế thuộc doanh nghiệp nhà nước. Tiêu chuẩn công chức pháp chế phải là công chức từ ngạch chuyên viên và tương đương, có trình độ cử nhân luật trở lên; viên chức pháp chế phải là viên chức có chức danh nghề nghiệp, có trình độ cử nhân luật trở lên… (sau 05 năm, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực, người làm công tác pháp chế bắt buộc phải có trình độ cử nhân luật).
Về tổ chức và hoạt động của công tác pháp chế, tính đến ngày 31/10/2014, tổ chức pháp chế của các bộ, ngành về cơ bản đã được củng cố, kiện toàn và đi vào hoạt động hiệu quả với tên gọi chủ yếu là Vụ Pháp chế (đối với bộ, cơ quan ngang bộ), Ban Pháp chế, Phòng Pháp chế (đối với cơ quan thuộc Chính phủ). Riêng Bộ Công an do đặc thù quản lý nhà nước của Bộ đã thành lập Cục Pháp chế và Cải cách hành chính, tư pháp. Tại các Tổng cục và tương đương thuộc bộ, cơ quan ngang bộ đã có 56 tổ chức pháp chế hoặc bố trí cán bộ chuyên trách làm công tác pháp chế [54].
Ở địa phương, đã có 38/63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thành lập Phòng Pháp chế ở các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với tổng số 291 Phòng Pháp chế, trong đó, 10/63 địa phương đã ban hành quyết định thành lập từ 14 Phòng Pháp chế trở lên; 28/63 địa phương mới chỉ thành lập, kiện toàn được một số Phòng Pháp chế và đang tiếp tục thực hiện và 25/63 địa phương chưa thành lập được Phòng Pháp chế nào tại các cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh [55].
Ở các doanh nghiệp nhà nước, hầu hết các doanh nghiệp nhà nước ở trung ương đều đã bố trí Phòng hoặc Ban Pháp chế phụ trách công tác pháp chế (Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp than và khoáng sản Việt Nam…).
Về số lượng công chức, viên chức làm công tác pháp chế tiếp tục được tăng cường qua các năm. Tính đến hết ngày 31/10/2014, số lượng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác pháp chế là 5.177 người, trong đó, ở các tổ chức pháp chế bộ, ngành có tổng số 2.647 cán bộ (chuyên trách khoảng hơn 1.200 người và kiêm nhiệm khoảng 1.300 người); các tổ chức pháp chế địa phương có tổng số là 2.530 cán bộ (chuyên trách khoảng 799 cán bộ) [56].
1.5. Ngành Tư pháp hướng về cội nguồn, phát huy truyền thống hào hùng của Ngành, tri ân các thế hệ cán bộ tư pháp, phấn đấu thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp
Từ năm 2009, để chuẩn bị tổ chức kỷ niệm 65 năm Ngày thành lập Ngành Tư pháp (28/8/1945 - 28/8/2010), hưởng ứng nguyện vọng hướng về cội nguồn của các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động của Ngành, tập thể Lãnh đạo Bộ đã có quyết định lịch sử về xây dựng lại Khu di tích lịch sử trụ sở Bộ Tư pháp thời kỳ kháng chiến chống Pháp tại Chiến khu Việt Bắc thời kỳ 1949 - 1950 tại thôn Mới, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang - nơi khởi nguồn của Ngành Tư pháp Việt Nam, đã được xếp hạng Di tích cấp quốc gia vào tháng 7/2005.
Với quyết tâm cao độ, toàn Ngành Tư pháp đã không quản khó khăn, góp công, góp sức xây dựng Di tích lịch sử trụ sở cơ quan Bộ Tư pháp. Đó là việc làm có ý nghĩa lớn, thể hiện tấm lòng của thế hệ cán bộ tư pháp hôm nay với các thế hệ cán bộ tư pháp đi trước, để Ngành Tư pháp luôn ghi sâu hướng về cội nguồn, để giáo dục các thế hệ tư pháp sau này những truyền thống cao quý, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tư pháp, khắc ghi lời dạy của Người: “Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, trong lúc này, là vấn đề ở đời và làm người” [57]. Ngày 02/02/2010, công trình Khu di tích lịch sử Bộ Tư pháp được khởi công xây dựng và đã cơ bản hoàn thành các hạng mục trong 6 tháng.
Ngày 27/8/2010, Bộ Tư pháp phối hợp với tỉnh Tuyên Quang long trọng tổ chức Lễ khánh thành Di tích lịch sử Bộ Tư pháp thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Tới dự với buổi lễ có Lãnh đạo Bộ Tư pháp và các đồng chí nguyên là Lãnh đạo Bộ Tư pháp, các vị lão thành cách mạng, đại diện Bộ Tư pháp Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, đại diện Thường vụ Tỉnh ủy, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Tuyên Quang, huyện Sơn Dương và đông đảo nhân dân thôn Mới, xã Minh Thanh.
Công trình mang ý nghĩa thiêng liêng, thể hiện tình cảm và sự tri ân đối với thế hệ cán bộ tư pháp đầu tiên của nước nhà, đối với đồng bào các dân tộc Tuyên Quang; ghi sâu những lời dạy có ý nghĩa cốt yếu của Bác Hồ đối với cán bộ, công chức, viên chức của Ngành, như là:
Vấn đề tư pháp là vấn đề ở đời và làm người.
Ở đời và làm người là phải yêu nước thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức.
Phải cố gắng làm cho pháp luật dân chủ ngày càng tốt hơn, nhiều hơn.
Cán bộ tư pháp phải công bằng, liêm khiết, trong sạch, gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân…[58].
Hàng năm, vào những ngày lễ lớn và kỷ niệm Ngày Truyền thống của Ngành, Lãnh đạo Bộ Tư pháp cũng như các thế hệ cán bộ, công chức, viên chức và người lao động Ngành Tư pháp lại đến thăm để tưởng nhớ các thế hệ đi trước và hun đúc lòng tự hào về Ngành, phấn đấu vượt qua khó khăn, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị được giao.
Thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Kế hoạch của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị, ngày 28/12/2011, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã ban hành Kế hoạch số 113-KH/BCS về việc tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (từ tháng 12/2011 đến năm 2015), trong đó quy định: “Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp phối hợp với Đảng ủy Bộ và các đơn vị thuộc Bộ xây dựng chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để tổ chức thực hiện trong toàn Ngành Tư pháp”. Ngày 03/10/2012, Bộ trưởng Hà Hùng Cường đã ký Quyết định số 2659/QĐ-BTP về việc ban hành Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp với 5 chuẩn mực:
1. Với Tổ quốc - Trung thành, phấn đấu vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.
2. Với nhân dân - Gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân; phục vụ nhân dân, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân.
3. Với công tác tư pháp - Trách nhiệm, tận tụy, sáng tạo, kỷ cương, phụng công, thủ pháp, chí công vô tư.
4. Với đồng nghiệp - Đoàn kết, thân ái, hợp tác, cùng tiến bộ.
5. Với bản thân - Nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, thượng tôn pháp luật.
Cũng từ những năm này cho đến kỷ niệm 70 năm (năm 2015), Bộ Tư pháp hai lần tổ chức cuộc thi sáng tác Biểu trưng Ngành Tư pháp (thay thế Biểu trưng đã có), nhằm thể hiện xác thực hơn bề dày truyền thống cũng như vị trí, vai trò, chức năng của Ngành Tư pháp trong giai đoạn đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Với hai lần tổ chức, Bộ Tư pháp đã trao giải nhì, giải khuyến khích cho các tác phẩm xuất sắc nhất (không có giải nhất). Sau các cuộc thi này, toàn Ngành tiếp tục nghiên cứu, đóng góp các ý kiến quý báu để hoàn thiện Biểu trưng của Ngành, trên cơ sở đó, Bộ Tư pháp đã hoàn chỉnh và ban hành Biểu trưng mới của Ngành Tư pháp.
Năm 2014 - 2015, Bộ Tư pháp cũng đã tổ chức cuộc thi sáng tác ca khúc về Ngành Tư pháp và Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hướng tới kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Ngành Tư pháp Việt Nam, nhằm tuyển chọn những ca khúc có giá trị tư tưởng và nghệ thuật, phản ánh được vai trò và những đóng góp to lớn của Ngành Tư pháp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; tuyển chọn những ca khúc có giá trị tư tưởng và nghệ thuật làm thông điệp để tuyên truyền, truyền thông sâu rộng về ý nghĩa Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (09/11 hàng năm), nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, động viên, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội; tăng cường nhận thức cho người dân về vai trò của luật pháp trong đời sống hiện đại, tăng cường sự hiểu biết pháp luật và khả năng thực thi pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước, hoạt động kinh tế - xã hội và sinh hoạt hàng ngày của người dân. Sau cuộc thi này, Bộ Tư pháp sẽ công bố Ca khúc của Ngành Tư pháp vào đợt kỷ niệm 70 năm Ngày truyền thống Ngành Tư pháp.
2. Những thành tựu của Ngành Tư pháp trong việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Bộ Chính trị, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước
2.1. Góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
Toàn Ngành Tư pháp đã tham gia tích cực vào việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đồng bộ với thể chế chính trị, xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, đóng góp vào việc hình thành, điều chỉnh và triển khai tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước về hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách tư pháp.
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Bộ Tư pháp đã có bước đổi mới từ tư duy lập pháp theo nhiệm kỳ sang tư duy chiến lược, gắn kết với các chiến lược phát triển bền vững của đất nước, đặc biệt là sự phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phát huy và bảo vệ quyền con người.
Bộ, Ngành Tư pháp cũng đã tham gia tích cực vào việc xây dựng, ban hành kế hoạch và tích cực triển khai thực hiện các Chương trình tổng thể cải cách hành chính các giai đoạn 2001 - 2010, 2011 - 2020 và Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, tham mưu cho các Ban Chỉ đạo trong việc sơ kết, tổng kết, đánh giá và điều chỉnh, xác định những giải pháp cụ thể trong từng giai đoạn. Qua đó, Ngành Tư pháp ngày một trưởng thành hơn về tư duy chính trị - pháp lý, thực hiện đầy đủ hơn trách nhiệm của một ngành tham mưu, giúp Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương quán xuyến quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật, hành chính tư pháp và các hoạt động bổ trợ tư pháp, vừa bảo đảm định hướng chiến lược, vừa bám sát yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và ở từng địa phương trong từng thời kỳ, góp phần phát triển kinh tế, giữ vững an ninh, quốc phòng, củng cố vị thế đối ngoại của đất nước.
Những đóng góp chủ yếu của Ngành được thể hiện ở những kết quả sau:
2.1.1. Ngành Tư pháp chủ trì giúp Chính phủ tổng kết, đề xuất sửa đổi, bổ sung Hiến pháp và tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013
Từ năm 2010, Ngành Tư pháp đã tích cực chủ trì giúp Chính phủ tổng kết thi hành Hiến pháp năm 1992, tham gia vào quá trình soạn thảo Hiến pháp và tổ chức lấy ý kiến nhân dân đối với Dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Sau khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, tiếp tục khẳng định đường lối xây dựng Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bổ sung nguyên tắc “kiểm soát” giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ngành Tư pháp tiếp tục nhận được sự tín nhiệm của Chính phủ làm đầu mối tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 - Hiến pháp của thời kỳ phát triển mới của đất nước. Kết quả triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 đang được thể hiện trên 03 lĩnh vực sau [59]:
Một là, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu, tập huấn về nội dung và ý nghĩa của Hiến pháp
Bộ Tư pháp đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Ngoại giao xây dựng tài liệu tuyên truyền về Hiến pháp; tổ chức Hội nghị trực tuyến toàn quốc giới thiệu, phổ biến về nội dung, ý nghĩa của Hiến pháp cho báo cáo viên, tuyên truyền viên; đồng thời chủ trì tổ chức tập huấn chuyên sâu về nội dung của Hiến pháp cho cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý, cán bộ pháp chế các bộ, ngành ở trung ương; phát động cuộc thi viết “Tìm hiểu Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Ở các bộ, ngành, địa phương, công tác tuyên truyền, phổ biến, giới thiệu, tập huấn về nội dung của Hiến pháp đã được triển khai sâu rộng, tạo ra đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý rộng lớn của đất nước, nhờ đó nhận thức của cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân về nội dung, vai trò, ý nghĩa của Hiến pháp được nâng cao, từ đó hình thành ý thức trách nhiệm trong việc chấp hành và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật.
Hai là, rà soát, lập danh mục đề xuất bãi bỏ, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật phù hợp với Hiến pháp
Trên cơ sở Kế hoạch của Chính phủ, Bộ Tư pháp cùng các bộ, ngành, địa phương đã tích cực rà soát; kiến nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ, dừng thi hành hoặc ban hành mới 282 văn bản/tổng số 102.306 văn bản đã rà soát (trong đó, ở trung ương: 241 văn bản; ở địa phương: 41 văn bản). Nhiều bộ, cơ quan đã chủ động rà soát các luật, pháp lệnh đang được xây dựng cho phù hợp với nội dung của Hiến pháp, như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Nhà ở...
Đối với việc rà soát văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, cơ quan tích cực rà soát với tổng số 172 luật, pháp lệnh, 7.828 văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ; đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, ban hành mới là 36 luật, pháp lệnh và 50 văn bản quy phạm pháp luật khác.
Ba là, tổ chức xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để triển khai thi hành Hiến pháp
Trên cơ sở kết quả rà soát, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành tham mưu giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thông qua Nghị quyết về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIII, năm 2014, Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2015 và tổ chức thực hiện. Để bảo đảm tiến độ, chất lượng xây dựng các dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp, Bộ Tư pháp đã tham mưu giúp Chính phủ thực hiện một số giải pháp như: (i) Tổ chức phiên họp chuyên đề của Chính phủ về xây dựng pháp luật để định hướng về quan điểm, mục tiêu, nội dung chủ yếu của một số dự án luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp; (ii) Trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định thành lập Hội đồng tư vấn thẩm định các dự án luật, pháp lệnh trực tiếp triển khai thi hành Hiến pháp; Hội đồng đã cho ý kiến đối với 14 dự án luật quan trọng (tính đến cuối năm 2014). Tại kỳ họp thứ 8 và kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua số lượng lớn các luật [60] để tổ chức thi hành Hiến pháp.
2.1.2. Tiếp tục đẩy mạnh công cuộc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả
Toàn Ngành đã tập trung cao độ cho việc cơ bản hoàn thành luật hóa các lĩnh vực quản lý của Ngành phù hợp với mục tiêu, yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp. Những luật quan trọng thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước mà Bộ Tư pháp được giao chủ trì soạn thảo đã hoặc sẽ được ban hành cho đến cuối năm 2015, có thể kể đến như:
- Luật Luật sư năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012);
- Luật Tương trợ tư pháp năm 2007;
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
- Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014);
- Luật Lý lịch tư pháp năm 2009;
- Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009;
- Luật Nuôi con nuôi năm 2010;
- Luật Trọng tài thương mại năm 2010 (thay thế Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003);
- Luật Phòng, chống mua bán người năm 2011;
- Luật Thủ đô năm 2012;
- Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012;
- Luật Giám định tư pháp năm 2012;
- Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012;
- Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013;
- Luật Hộ tịch năm 2014;
- Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 (thay thế Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000);
- Luật Công chứng năm 2014;
- Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (hợp nhất và thay thế các Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân năm 2004);
- Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012;
- Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật năm 2012;
- Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 - hiện đang được sửa đổi, bổ sung, dự kiến Quốc hội sẽ thông qua vào cuối năm 2015;
- Bộ luật Dân sự năm 2005 - hiện đang được sửa đổi, bổ sung, dự kiến Quốc hội sẽ thông qua vào cuối năm 2015.
Sự hoàn thiện cơ bản hệ thống pháp luật ở tầm luật, pháp lệnh trong các lĩnh vực công tác tư pháp tập trung trong giai đoạn này, với hơn 20 luật, pháp lệnh được ban hành trong gần 10 năm vừa qua trên 33 lĩnh vực quản lý (theo Nghị định số 22/2013/NĐ-CP), cho thấy quyết tâm cao độ của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với khẩu hiệu sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật. Kể từ đây, thể chế về tổ chức và hoạt động của Ngành được ổn định, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và khẳng định vững chắc vị thế của Ngành Tư pháp trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chất lượng và tiến độ xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật đã được cải thiện đáng kể, từng bước hạn chế tình trạng ban hành tràn lan các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật, nâng cao tính thống nhất, hiệu lực của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; chủ động nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách kịp thời, đồng bộ, hỗ trợ cho việc triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, phục vụ yêu cầu cải cách hành chính, cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế của đất nước.
Việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh, thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ sau khi được chuyển giao cho Bộ Tư pháp theo dõi từ năm 2013, đã khắc phục đáng kể tình trạng nợ đọng nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh trong nhiều năm trước đó, được các kỳ họp Quốc hội khóa XIII gần đây đánh giá cao (từ kỳ họp thứ 7 đến nay).
Công tác thẩm định, góp ý văn bản quy phạm pháp luật ngày càng bảo đảm tiến độ, nâng cao về chất lượng so với các năm trước; dần chú trọng khắc phục tính pháp lý thuần túy, gắn kết chặt chẽ hơn với các chỉ số về kinh tế - xã hội. Quy trình thẩm định được ban hành và triển khai thực hiện ở Bộ, tổ chức pháp chế bộ, ngành và nhiều Sở Tư pháp, đặc biệt, Bộ Tư pháp đã áp dụng cơ chế hội đồng thẩm định và họp tư vấn thẩm định để huy động được trí tuệ, kinh nghiệm của các nhà hoạch định chính sách, những người làm công tác thực tiễn, các nhà khoa học và các chuyên gia.
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (hợp nhất cả trung ương và địa phương) là sự kiện quan trọng trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị.
Về công tác hệ thống hóa, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật: Cùng với việc thường xuyên thực hiện rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật, Ngành Tư pháp đã bắt đầu triển khai thực hiện Pháp lệnh Hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật năm 2012, Pháp lệnh Pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật năm 2012. Tính đến cuối năm 2014, một số bộ, ngành, trong đó Bộ Tư pháp đã hoàn thành việc hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật tính đến ngày 31/12/2013.
Bộ Tư pháp đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 843/QĐ-TTg ngày 06/6/2014 phê duyệt 265 đề mục thuộc 45 chủ đề và phân công cơ quan thực hiện pháp điển theo các đề mục. Từ Quyết định số 1267/QĐ-TTg ngày 29/7/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án Xây dựng Bộ pháp điển, đến cuối năm 2014, 100% các bộ, cơ quan ngang bộ đã bố trí nhân sự kiêm nhiệm công tác pháp điển tại các tổ chức pháp chế (từ 01 đến 05 biên chế; riêng Vụ Pháp chế của Bộ Y tế bố trí 01 biên chế chuyên trách). Các bộ, ngành đang tích cực triển khai thực hiện pháp điển theo các đề mục đã được phê duyệt (Bộ Tư pháp đã pháp điển xong 04 đề mục là: Kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; rà soát văn bản quy phạm pháp luật; hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật; pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật) [61].
Công tác kiểm soát thủ tục hành chính nhận được sự quan tâm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và toàn xã hội. Các bộ, ngành, địa phương ngày càng chú trọng triển khai và gắn kết chặt chẽ công tác này với công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Việc đơn giản hoá thủ tục hành chính trên cơ sở chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và sự quyết tâm của các bộ, cơ quan, địa phương, đã hoàn thành việc tổng rà soát hệ thống thủ tục hành chính trong toàn quốc từ trung ương đến cấp xã, xây dựng Bộ thủ tục hành chính quốc gia và cập nhật thường xuyên trên Trang thông tin thủ tục hành chính quốc gia, từ đó đã hoàn thành việc đơn giản hoá 4.383/4.723 thủ tục hành chính tại 25 Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ, đạt tỷ lệ 92,8% [62].
Việc nghiên cứu, đề xuất sáng kiến cải cách quy định, thủ tục hành chính được triển khai có kết quả tích cực, tạo ra những đột phá cho cải cách thể chế kinh tế thị trường, đầu tư và quản lý xã hội mà điển hình như: Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020 (theo Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 08/6/2013 của Thủ tướng Chính phủ); Nghị quyết số 43/NQ-CP ngày 06/6/2014 của Chính phủ về một số nhiệm vụ trọng tâm cải cách thủ tục hành chính trong hình thành và thực hiện dự án đầu tư có sử dụng đất để cải thiện môi trường kinh doanh; Đề án thực hiện liên thông các thủ tục hành chính: Đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi... (theo Quyết định số 1299/QĐ-TTg ngày 04/8/2014 của Thủ tướng Chính phủ).
Triển khai Đề án tổng thể đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020 (Đề án 896), tính đến cuối năm 2014, Bộ Tư pháp và các bộ, ngành đã hệ thống hóa được 2.705 thủ tục hành chính, 728 giấy tờ công dân là kết quả giải quyết của thủ tục hành chính có chứa thông tin công dân. Văn phòng Ban Chỉ đạo Đề án 896 đã phối hợp với Bộ Công an, các bộ, ngành có liên quan tham gia ý kiến hoàn thiện và được Quốc hội thông qua Luật Căn cước công dân, Luật Hộ tịch, tạo cơ sở pháp lý vững chắc, cơ bản cho việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân trong quản lý hộ tịch nói riêng, quản lý dân cư nói chung ở những năm tiếp theo [63].
Công tác kiểm soát thủ tục hành chính ở Bộ Tư pháp, pháp chế Bộ, ngành và các Sở Tư pháp đang dần được hiện đại hóa với việc thử nghiệm, hướng tới thực hiện “báo cáo không giấy”, đánh giá tác động, tính toán chi phí tuân thủ và thực hiện công bố, công khai trực tuyến… Đây được coi là công cụ hữu hiệu phục vụ công tác kiểm soát thủ tục hành chính và sẵn sàng mở rộng kết nối với các hệ thống của Chính phủ điện tử trong tương lai.
Kết quả hoạt động xây dựng, soạn thảo, thẩm định, kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính của các bộ, các địa phương không chỉ nói lên sức lao động sáng tạo của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức tại các cơ quan tư pháp, tổ chức pháp chế cả nước, mà còn là một phần rất cơ bản của bức tranh toàn cảnh về hệ thống pháp luật của đất nước đang trong quá trình tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cả về nội dung và cách làm theo những tiêu chí hợp hiến, hợp pháp, đồng bộ, thống nhất, minh bạch, linh hoạt và phù hợp hơn, đáp ứng tốt yêu cầu giải phóng các nguồn lực xã hội để phát triển đất nước trong bối cảnh quốc gia và quốc tế đầy thách thức, biến động phức tạp. Những nỗ lực không mệt mỏi của Bộ, Ngành Tư pháp trong thời gian qua đã được Lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhiều tổ chức ghi nhận, như là:
- Ngày 15/12/2009, Bộ Tư pháp là một trong ba Bộ được Thủ tướng Chính phủ biểu dương vì đã thực hiện tốt việc soạn thảo các văn bản quy phạm pháp luật;
- Trong các năm 2011, 2012 và năm 2014, Bộ Tư pháp luôn ở trong nhóm các bộ, cơ quan đứng đầu về Chỉ số hiệu quả hoạt động pháp luật về kinh doanh của các bộ (MEI), trong đó năm 2011, Bộ Tư pháp đứng đầu;
- Cùng với đó, nhiều Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã dành cho các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc trong hoạt động xây dựng pháp luật trong giai đoạn này.
2.2. Hình thành bước chuyển chiến lược, cùng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là chú trọng công tác tổ chức thi hành pháp luật
Một trong những điểm nhấn quan trọng trong thời kỳ này là Ngành Tư pháp bước đầu triển khai nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật từ năm 2010 - 2011 theo Đề án triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Quyết định số 1987/QĐ-TTg ngày 30/11/2009), hình thành bước chuyển chiến lược, cùng với xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật là chú trọng công tác tổ chức thi hành pháp luật. Trên cơ sở tham mưu của Bộ Tư pháp, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 59/2012/NĐ-CP ngày 23/7/2012 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật.
Công tác theo dõi thi hành pháp luật đã có chuyển biến mới so với trước đây, thể chế tiếp tục được hoàn thiện; việc xây dựng kế hoạch theo dõi thi hành pháp luật đã bước đầu có sự gắn kết với kế hoạch kiểm soát thủ tục hành chính và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật; việc tổ chức theo dõi thi hành pháp luật đã có đổi mới về nội dung, phương pháp, hình thức, bước đầu tạo sự chuyển biến, phát huy hiệu quả tích cực. Đa số các bộ, ngành, địa phương đều xác định lĩnh vực trọng tâm cần tập trung theo dõi và đã thực hiện đa dạng các hình thức theo dõi thi hành pháp luật như kiểm tra, điều tra, khảo sát tình hình thi hành pháp luật; xử lý thông tin về tình hình thi hành pháp luật để kịp thời có phản ứng chính sách đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Bên cạnh việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, Ngành Tư pháp đã quyết tâm đổi mới tư duy phát triển ngành và cải cách các phương pháp, phương tiện, công cụ quản lý ngành một cách hiệu quả, thể hiện ở những lĩnh vực quản lý nhà nước sau:
Một là, phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở cơ bản được hoàn thiện về thể chế, tiếp tục đổi mới phương thức thực hiện, góp phần quan trọng nâng cao ý thức pháp luật của người dân, đưa pháp luật vào cuộc sống và giữ vững đoàn kết trong cộng đồng, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội
Cùng với việc góp phần xây dựng hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu của đời sống xã hội, một trong những mục tiêu quan trọng mà Ngành Tư pháp hướng tới là hình thành ý thức tôn trọng pháp luật của nhân dân, nâng cao năng lực thi hành pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức.
Năm 2012, Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật được Quốc hội thông qua là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc nâng tầm lĩnh vực này trong thời gian tới đây. Triển khai thi hành Luật, Ngành Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp, các đoàn thể tham mưu xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện hàng loạt văn bản về hoạch định chính sách, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật [64].
Với sáng kiến của Ngành Tư pháp, Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương và các cấp đã được thành lập trước khi có Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và hiện nay đã được thành lập theo đúng quy định của Luật. Ngành Tư pháp là cơ quan thường trực, làm đầu mối điều phối các cơ quan, tổ chức trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nhờ vậy, trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được triển khai khá mạnh mẽ, đồng bộ và đạt nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức của các cấp ủy Đảng, cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vai trò, tầm quan trọng của pháp luật và công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có sự chuyển biến rõ rệt; sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng đối với công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được tăng cường, linh động, sâu sát, thống nhất, toàn diện và hiệu quả hơn. Nội dung tuyên truyền pháp luật được định hướng, gắn với việc quán triệt các chủ trương, chính sách lớn của Đảng, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Ngành, địa phương, thực tiễn chấp hành pháp luật, hướng về cơ sở, phục vụ nhu cầu của đối tượng. Hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật đa dạng, phong phú, thường xuyên được đổi mới, phù hợp với đặc điểm đối tượng, địa bàn.
Ngày Pháp luật đã được Ngành Tư pháp chú trọng tổ chức thực hiện trước khi Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định chính thức Ngày 09/11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam [65]. Ngày 08/11/2013, Thủ tướng Chính phủ đã công bố Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Lễ công bố diễn ra cùng ngày tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam. Các hoạt động hưởng ứng Ngày Pháp luật trong toàn quốc được tổ chức đồng bộ, rộng khắp, tạo sức lan tỏa lớn, qua đó góp phần đưa công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đi vào chiều sâu, thực chất. Công tác phổ biến, tuyên truyền Hiến pháp và các luật, pháp lệnh mới ban hành đã được các bộ, ngành, địa phương chú trọng ngay từ giai đoạn soạn thảo.
Công tác hòa giải ở cơ sở ngày càng khẳng định vị trí, vai trò không thể thiếu trong đời sống xã hội, góp phần giữ gìn thuần phong mỹ tục, xây dựng tình làng, nghĩa xóm, gắn kết cộng đồng và khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội và giảm gánh nặng xét xử cho Ngành Tòa án. Kết quả hòa giải thành trong toàn quốc vào các năm gần đây luôn đạt tỷ lệ cao kể từ khi triển khai Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hòa giải ở cơ sở năm 1998 và sau đó là Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013.
Triển khai thực hiện Luật Hòa giải ở cơ sở năm 2013, Bộ Tư pháp đã phối hợp với Ban Dân chủ và Pháp luật, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam xây dựng, trình Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ban hành Nghị quyết liên tịch số 01/2014/NQLT/CP-UBTƯMTTQVN ngày 18/11/2014 hướng dẫn phối hợp thực hiện một số quy định của pháp luật về hòa giải ở cơ sở [66]. Việc kiện toàn các tổ hòa giải, hòa giải viên và tổ chức tập huấn kiến thức pháp luật và nghiệp vụ, kỹ năng hòa giải cho hòa giải viên được quan tâm triển khai ở hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước. Hoạt động của các tổ hòa giải cơ bản bảo đảm hiệu quả.
Hai là, công tác thi hành án dân sự ngày càng phát triển bền vững, kết quả thi hành án dân sự hàng năm có xu hướng tăng
Việc triển khai Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2009 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014) đã tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ hơn, cơ bản hơn trong công tác thi hành án dân sự ở nước ta, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước, đồng thời tạo tiền đề cho các cơ quan thi hành án chuẩn bị những điều kiện cần thiết để có thể tiếp nhận những nhiệm vụ mới trong tương lai khi được Đảng, Nhà nước tin cậy giao phó.
Cùng với việc kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ theo Luật Thi hành án dân sự và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, công tác chỉ đạo thực hiện chỉ tiêu, nhiệm vụ về thi hành án dân sự luôn được Lãnh đạo Bộ, Lãnh đạo Tổng cục Thi hành án dân sự đặc biệt chú trọng. Từ năm 2010 đến hết năm 2014, kết quả thi hành án dân sự có xu hướng năm sau cao hơn năm trước, thể hiện sự phát triển ổn định và bền vững. Cụ thể là:
- Năm 2010: Thi hành xong 351.373 việc, thu được 8.301 tỷ 320 triệu 561 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 86,35% về việc, 80,1% về tiền trên số có điều kiện thi hành.
- Năm 2011: Thi hành xong 379.990 việc, thu được 10.167 tỷ 712 triệu 889 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 88% về việc, 76,1% về tiền trên số có điều kiện thi hành.
- Năm 2012: Thi hành xong 395.284 việc, thu được 10.344 tỷ 567 triệu 554 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 88,58% về việc, 76,98% về tiền trên số có điều kiện thi hành.
- Năm 2013: Thi hành xong 492.975 việc, thu được 28.965 tỷ 5 triệu 600 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 86,53% về việc, 73,17% về tiền trên số có điều kiện thi hành.
- Năm 2014: Thi hành xong 531.095 việc, thu được 38.981 tỷ 505 triệu 442 nghìn đồng, đạt tỷ lệ 88,47% về việc, 76,72% về tiền trên số có điều kiện thi hành [67].
Nhiều vụ việc phức tạp, có khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài đã được tập trung thi hành dứt điểm. Việc tổ chức thi hành án, về cơ bản đã được các cơ quan thi hành án dân sự địa phương thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
Thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động thi hành án và Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự, Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh lần đầu tiên tổ chức thí điểm thành lập và đưa vào hoạt động văn phòng thừa phát lại (từ ngày 01/7/2009 đến ngày 01/7/2012). Sau một thời gian triển khai thí điểm, ngày 23/11/2012, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết [68] về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và giao Chính phủ tiếp tục tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đến năm 2015. Sau gần 6 năm thí điểm [69], bước đầu, chế định Thừa phát lại đã chứng tỏ được tính đúng đắn và được xã hội chấp nhận, đặc biệt là ở các địa bàn kinh tế - xã hội phát triển.
Ba là, công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, nuôi con nuôi, lý lịch tư pháp, đăng ký giao dịch bảo đảm, bồi thường nhà nước đi vào ổn định, bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước, góp phần quan trọng vào việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân và sự phát triển kinh tế - xã hội
Lĩnh vực hành chính tư pháp có mối quan hệ mật thiết với việc bảo đảm quyền cơ bản của công dân, trực tiếp giải quyết những vấn đề liên quan hàng ngày tới đời sống xã hội, công dân và tổ chức. Trong những năm qua, Ngành Tư pháp đã tập trung đổi mới một bước khá căn bản trong công tác chỉ đạo và quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này. Thể chế về công tác hành chính tư pháp liên tục được hoàn thiện theo hướng cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho tổ chức, cá nhân trong giải quyết công việc của dân, đồng thời bảo đảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
(i) Trong lĩnh vực hộ tịch
Công tác hộ tịch đã được triển khai đến cấp xã và ngày càng đi vào nền nếp. Các vấn đề hộ tịch có yếu tố nước ngoài nói chung, những vướng mắc, bất cập trong hoạt động kết hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng được tập trung giải quyết, kịp thời đáp ứng yêu cầu của xã hội trong điều kiện mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Lãnh đạo cấp ủy và Ủy ban nhân dân các cấp ở nhiều địa phương đã nhận thức tốt hơn về tầm quan trọng của công tác hộ tịch so với thời điểm Bộ Tư pháp tiếp nhận công tác này từ Bộ Nội vụ (năm 1989), từ đó quan tâm, đầu tư cho công tác này, đặc biệt là việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký hộ tịch, đáp ứng yêu cầu quản lý cũng như yêu cầu đăng ký hộ tịch của người dân; hiện tượng cán bộ hộ tịch gây khó khăn, phiền hà cho người dân đã từng bước được hạn chế. Mô hình thí điểm “một cửa liên thông” qua việc liên thông 03 thủ tục “đăng ký khai sinh - đăng ký thường trú/tạm trú - cấp thẻ bảo hiểm y tế” và liên thông thủ tục “đăng ký khai tử - xóa đăng ký thường trú/tạm trú” đã được nhiều địa phương hưởng ứng thí điểm, giúp người dân thực hiện các thủ tục hành chính được nhanh, gọn, hiệu quả, tiết kiệm.
Việc Quốc hội thông qua Luật Hộ tịch năm 2014 - văn bản đầu tiên ở tầm luật điều chỉnh lĩnh vực hộ tịch, tạo bước đột phá trong lĩnh vực này theo hướng thuận lợi và bảo đảm tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp của người dân. Cùng với đó, Hội nghị cấp Bộ trưởng khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã thông qua Tuyên bố về đăng ký và thống kê hộ tịch của khu vực châu Á - Thái Bình Dương [70], Khung hành động khu vực và phát động Thập niên đăng ký và thống kê hộ tịch của khu vực châu Á - Thái Bình Dương giai đoạn 2015 - 2024. Trên cơ sở báo cáo đề xuất của Bộ Tư pháp, Thủ tướng Chính phủ đã nhất trí giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với bộ, ngành có liên quan xây dựng Chương trình hành động quốc gia của Việt Nam về đăng ký và thống kê hộ tịch (giai đoạn 2015 - 2024) [71].
(ii) Trong lĩnh vực quốc tịch
Việc giải quyết cho nhập, cho thôi, cho trở lại quốc tịch Việt Nam được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện một cách bài bản hơn, cơ bản đi vào nền nếp kể từ khi Quốc hội thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014). Tình trạng người không quốc tịch đang sinh sống tại Việt Nam, đặc biệt là cư dân sinh sống tại các khu vực biên giới đã được quan tâm giải quyết triệt để. Với cơ chế mềm dẻo, linh hoạt trong việc giữ và nhập quốc tịch, Luật Quốc tịch Việt Nam đã có tác động rất tốt đến đời sống tinh thần của người dân trong nước, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo hộ của Nhà nước Việt Nam đối với công dân Việt Nam ở nước ngoài, đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của gần 04 triệu kiều bào đang sinh sống ở hơn 100 quốc gia trên thế giới, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Nhiều người vừa được nhập quốc tịch đã có thể thực hiện ngay các quyền công dân, như trong năm 2011 - lần đầu tiên tham gia bỏ phiếu tại cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 - 2016.
(iii) Trong lĩnh vực chứng thực
Công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực chứng thực cũng được quan tâm, chỉ đạo thực hiện, bảo đảm tính chặt chẽ theo đúng quy định pháp luật. Hoạt động chứng thực đã được Chính phủ [72], Ủy ban nhân dân các cấp chấn chỉnh và đã đi vào nền nếp, hạn chế những sai sót có thể xảy ra trước đây; đơn giản hóa quy trình, giảm thiểu tối đa giấy tờ không cần thiết, dần tạo sự hài lòng và tin tưởng của người dân, góp phần phục vụ tốt cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương.
Để nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước khi chưa có Luật riêng điều chỉnh trong lĩnh vực này, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18/5/2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký (được sửa đổi, bổ sung theo Nghị định số 04/2012/NĐ-CP; Nghị định số 06/2012/NĐ-CP). Ngày 16/02/2015, trên cơ sở đề nghị của Bộ Tư pháp, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 23/2015/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch (thay thế Nghị định số 79/2007/NĐ-CP; Nghị định số 04/2012/NĐ-CP...), tạo cơ sở pháp lý thống nhất đối với công tác này.
(iv) Trong lĩnh vực lý lịch tư pháp
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, Bộ Tư pháp đã soạn thảo và trình Quốc hội thông qua Luật Lý lịch tư pháp năm 2009, tạo cơ sở pháp lý thống nhất ở tầm luật và đồng bộ đối với hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực hành chính tư pháp. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, theo đó “phát triển lý lịch tư pháp theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, bám sát yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu hướng phát triển chung của thế giới, trên cơ sở thiết lập, tăng cường cơ chế phối hợp đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và các cơ quan có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin, hướng tới xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia tập trung, thống nhất. Tổ chức, quản lý cơ quan quản lý lý lịch tư pháp hợp lý, khoa học, hiện đại; gắn việc xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp với cấp phiếu lý lịch tư pháp, đáp ứng tốt nhất yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Đồng thời, phát huy vị trí, vai trò của lý lịch tư pháp theo hướng là công cụ hỗ trợ đắc lực cho hoạt động tố tụng hình sự” [73].
Nhằm giảm thời hạn cấp phiếu lý lịch tư pháp, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho công dân, một số tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã nghiên cứu áp dụng những giải pháp cụ thể như: thực hiện thử nghiệm phương thức tra cứu, xác minh và nhận kết quả tra cứu qua đường điện tử, triển khai dịch vụ chuyển phát kết quả giải quyết hồ sơ lý lịch tư pháp đến địa chỉ người dân qua bưu điện; triển khai cấp phiếu lý lịch tư pháp số 2 qua bưu điện cho học sinh, sinh viên đang du học ở nước ngoài, người Việt Nam đang cư trú tại nước ngoài; công khai kết quả cấp phiếu lý lịch tư pháp trên Cổng thông tin điện tử của tỉnh. Việc thí điểm áp dụng mô hình “Kiềng ba chân: Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia - Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát - Sở Tư pháp” do Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (C53) Bộ Công an và Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đề xuất, tiến hành thử nghiệm tại các Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh, Khánh Hòa, Phú Yên, Đà Nẵng, Bình Dương, đã mang lại kết quả rất khả quan, 100% hồ sơ gửi về Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Cục Hồ sơ nghiệp vụ cảnh sát (C53) tra cứu, xác minh đều được trả kết quả về Sở Tư pháp trong thời hạn do pháp luật quy định.
(v) Trong lĩnh vực nuôi con nuôi
Ngày 17/6/2010, Quốc hội đã thông qua Luật Nuôi con nuôi, đánh dấu một bước tiến mới quan trọng trong quản lý nhà nước về nuôi con nuôi, đồng thời Bộ Tư pháp đã phối hợp với các cơ quan hữu quan báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội phê chuẩn Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Việt Nam đã ký 16 Hiệp định hợp tác song phương về nuôi con nuôi với các quốc gia trên thế giới. Ngoài ra, Cục Con nuôi thuộc Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan trung ương về nuôi con nuôi của Việt Nam đã ký 02 Biên bản thỏa thuận hợp tác về nuôi con nuôi với cơ quan trung ương về con nuôi của Ailen và Cộng đồng Pháp ngữ của Bỉ; ký Bản ghi nhớ về việc áp dụng các thủ tục hành chính trong lĩnh vực con nuôi với Malta vào ngày 27/6/2015.
Công tác quản lý nhà nước về nuôi con nuôi nói chung và giải quyết việc nuôi con nuôi trong nước ở các địa phương dần đi vào nền nếp. Đặc biệt, việc rà soát nắm bắt thực trạng nuôi con nuôi thực tế và đăng ký nuôi con nuôi thực tế đã được triển khai rộng khắp cả nước và đạt được những kết quả tích cực; đã giúp tìm mái ấm cho rất nhiều trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tại Việt Nam và ở nhiều quốc gia trên thế giới; việc hợp tác song phương với nhiều quốc gia đã nâng cao điều kiện chăm sóc trẻ em tại các cơ sở bảo trợ xã hội.
(vi) Trong lĩnh vực bồi thường nhà nước
Nhằm cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp và Bộ luật Dân sự, trên cơ sở kế thừa các quy định của pháp luật hiện hành, Bộ Tư pháp đã giúp Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009. Đây là một đạo luật quan trọng, một mặt tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân thực hiện quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của cán bộ, công chức gây ra trong khi thi hành công vụ, mặt khác, giúp Nhà nước thực hiện tốt hơn trách nhiệm bồi thường của mình đối với những thiệt hại gây ra cho tổ chức, cá nhân, phù hợp với định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo đảm quyền lợi công dân khi bị thiệt hại do hành vi công vụ gây ra. Các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Luật này đã được ban hành, bảo đảm thể chế thống nhất cho việc triển thực hiện. Nhiều bộ, cơ quan, địa phương đã chủ động, tích cực triển khai toàn diện, tiếp tục đưa công tác bồi thường nhà nước đi vào nền nếp.
Sau hơn 5 năm thi hành Luật (tính đến ngày 31/3/2015), cơ quan nhà nước các cấp đã thụ lý 366 vụ việc, trong đó, số vụ việc đã giải quyết xong là 247 vụ việc (chiếm tỷ lệ 67,5%). Tổng số tiền giải quyết bồi thường (được xác định tại Quyết định giải quyết bồi thường hoặc bản án của Tòa án xét xử tranh chấp về bồi thường nhà nước) là 65.752.355.343 đồng [74].
(vii) Trong lĩnh vực đăng ký giao dịch bảo đảm
Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm ngày càng hoàn thiện và thiết chế đăng ký giao dịch bảo đảm tiếp tục phát huy hiệu quả trong đời sống xã hội, đặc biệt là hệ thống đăng ký trực tuyến giao dịch bảo đảm được triển khai thực hiện trên toàn quốc, tạo bước đột phá về cải cách thủ tục hành chính và cung cấp dịch vụ hành chính công giữa cơ quan nhà nước với người dân, doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tiết kiệm thời gian, chi phí trong việc thực hiện đăng ký giao dịch liên quan đến tài sản của mình, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; giúp cho các giao dịch được thiết lập an toàn, minh bạch, công khai, góp phần bảo đảm trật tự an toàn xã hội, phòng ngừa các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của tổ chức, cá nhân. Đến nay, hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm đã được kiện toàn với Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp và 03 Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản trực thuộc Cục tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh.
Bốn là, quản lý nhà nước về bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý được tăng cường, từng bước xã hội hóa theo Chiến lược cải cách tư pháp
(i) Trong lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp luật
Hệ thống văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động luật sư đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho quá trình thành lập các tổ chức luật sư, góp phần phát triển mạnh mẽ số lượng luật sư, từng bước nâng cao chất lượng luật sư phục vụ tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội, cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Năm 2012, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư với nhiều điểm mới, loại bỏ những rào cản và tạo điều kiện cho hoạt động luật sư phát triển đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Thực hiện nhiệm vụ giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về luật sư và hành nghề luật sư trong phạm vi cả nước, Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và địa phương ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật, đề xuất, kiến nghị nhiều giải pháp tăng cường quản lý luật sư, chính sách hỗ trợ phát triển nghề luật sư; thực hiện đào tạo nghề luật sư, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ luật sư. Các Sở Tư pháp tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển tổ chức luật sư, đội ngũ luật sư tại địa phương.
Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong năm 2009, Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành có liên quan, cấp ủy, chính quyền địa phương chỉ đạo các đoàn luật sư tổ chức thành công Đại hội đại biểu luật sư toàn quốc lần thứ nhất, thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam sau hơn 60 năm phát triển của nghề này, tạo nên thời cơ mới cho sự đóng góp tích cực của luật sư toàn quốc vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế. Từ ngày 17/4/2015 đến ngày 19/4/2015, Đại biểu Luật sư toàn quốc lần thứ II đã được tổ chức thành công.
Việc triển khai thực hiện Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 30/3/2009 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động luật sư được ghi nhận có nhiều chuyển biến tích cực. Cấp ủy, chính quyền các địa phương đã quan tâm nhiều hơn đến tổ chức, hoạt động luật sư và công tác quản lý luật sư trên địa bàn; nhiều địa phương đã chỉ đạo đoàn luật sư xây dựng chiến lược phát triển nghề luật sư trên địa bàn tỉnh. Nhận thức về vai trò Đảng Đoàn trong các tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư đã được nâng lên, nhất là sau khi Chi bộ Đảng và Đảng Đoàn của Liên đoàn Luật sư Việt Nam được thành lập, đã đánh dấu sự trưởng thành và phát triển của giới luật sư và tổ chức luật sư; nhiều đoàn luật sư đang khẩn trương tiến hành các thủ tục trình Tỉnh ủy, Thành ủy cho phép thành lập tổ chức Đảng của đoàn luật sư.
Số lượng và chất lượng của đội ngũ luật sư không ngừng được tăng cường và cải thiện. Tính đến tháng 4/2015, cả nước đã thành lập 63 đoàn luật sư tại 63 tỉnh/thành phố với 9.436 luật sư (tăng hơn 2.200 luật sư so với năm 2011) - số lượng luật sư tăng qua các năm, bảo đảm đúng định hướng phát triển luật sư tại Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020 (đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 05/7/2011). Mạng lưới dịch vụ pháp lý sâu rộng trên toàn quốc đang trong quá trình hình thành, góp phần quan trọng bảo đảm an toàn pháp lý cho các giao dịch, ổn định trật tự an toàn xã hội [75].
Ngày 14/01/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 149/QĐ-TTg công nhận ngày 10/10 là Ngày Truyền thống Luật sư Việt Nam [76], là mốc son quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của đội ngũ luật sư và nghề luật sư ở nước ta.
(ii) Trong lĩnh vực công chứng
Hệ thống công chứng ở nước ta được thành lập kể từ năm 1991. Năm 2006, thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ Tư pháp đã đề xuất Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thông qua Luật Công chứng năm 2006 và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 (Quyết định số 2104/QĐ-TTg ngày 29/12/2012) theo hướng xã hội hóa một cách mạnh mẽ hoạt động này, qua đó tạo nên diện mạo mới của một thiết chế bổ trợ tư pháp chuyên nghiệp hơn mà lại gần dân hơn. Theo Luật Công chứng năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2015), công chứng viên được coi là “công lại”, cung cấp dịch vụ công do Nhà nước ủy nhiệm. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho bước phát triển mới, đưa công chứng Việt Nam tiệm cận hơn với công chứng thế giới.
Với tư cách là thành viên thứ 84 của Liên minh Công chứng Quốc tế, dưới sự chỉ đạo của Bộ Tư pháp và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, trong các ngày 12 và 13/12/2014, Hội Công chứng thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Liên minh Công chứng Quốc tế (UINL) tổ chức thành công Hội thảo quốc tế lần thứ ba với chủ đề: “An toàn pháp lý giao dịch đất đai bảo đảm cho sự phát triển bền vững”.
Việc triển khai Quy hoạch tổng thể phát triển tổ chức hành nghề công chứng đến năm 2020 được thực hiện tốt; các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên tiếp tục được phát triển rộng khắp. Tính đến tháng 5/2015, cả nước có 876 tổ chức hành nghề công chứng, trong đó có 144 phòng công chứng, còn lại là văn phòng công chứng. Tổng số công chứng viên là 1.874 người. Sự phát triển đội ngũ công chứng viên hiện nay về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu công chứng của cá nhân, tổ chức; 100% công chứng viên được bổ nhiệm đều có trình độ cử nhân luật trở lên. Tỷ lệ công chứng viên trên đầu người dân hiện là: một (01) công chứng viên/67.822 người dân. Việc thực hiện chủ trương tách bạch công chứng và chứng thực bước đầu được thực hiện tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, tạo điều kiện cho các công chứng viên có thời gian tập trung thực hiện tốt việc công chứng hợp đồng, giao dịch, góp phần tạo tính chuyên nghiệp của hoạt động công chứng [77].
(iii) Trong lĩnh vực bán đấu giá tài sản
Hoạt động bán đấu giá tài sản ở nước ta được hình thành từ năm 1997 trên cơ sở của Bộ luật Dân sự năm 1995. Được Chính phủ giao nhiệm vụ thực hiện quản lý nhà nước về công tác bán đấu giá tài sản, Bộ Tư pháp đã chủ trì soạn thảo các nghị định của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động bán đấu giá tài sản, tạo cơ sở pháp lý phát triển hoạt động bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức, đặc biệt là tài sản công trong giao dịch bán đấu giá [78].
Qua hơn 15 năm hình thành và phát triển, đến nay hoạt động bán đấu giá tài sản đã ổn định, dần đi vào nền nếp và có hiệu quả. Tính đến cuối năm 2014, cả nước có 253 tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp. Nhiều địa phương đã tổ chức bán đấu giá tài sản đạt hiệu quả cao, hoàn thành kế hoạch của tỉnh, thành phố góp phần tăng thu ngân sách cho Nhà nước, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị tại địa phương, bảo đảm tiết kiệm, chống lãng phí tài sản công, phòng ngừa tiêu cực, tham nhũng.
(iv) Trong lĩnh vực giám định tư pháp
Trong những năm qua, thực hiện nhiệm vụ giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác giám định tư pháp trong toàn quốc, Bộ Tư pháp đã có những cố gắng trong việc xây dựng thể chế, chỉ đạo, hướng dẫn về mặt tổ chức và hoạt động trong lĩnh vực này. Việc ban hành các văn bản hướng dẫn, thực hiện Luật Giám định tư pháp năm 2012 đã được các bộ, ngành chú trọng hơn. Các địa phương đã quan tâm hơn đến việc củng cố, kiện toàn, tăng cường cơ sở vật chất cho các tổ chức giám định pháp y, pháp y tâm thần; tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ người giám định tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, phục vụ tốt hơn cho hoạt động tố tụng.
(v) Trong lĩnh vực trọng tài thương mại
Công tác quản lý nhà nước về trọng tài thương mại được Ngành Tư pháp chú trọng triển khai thực hiện trong những năm qua, xác định đây là lĩnh vực phục vụ tích cực cho yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế. Bộ, Ngành Tư pháp đã tích cực phối hợp với các cơ quan hữu quan để đề xuất, xây dựng thể chế phục vụ cho công tác này, phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam đề xuất trình Quốc hội thông qua Luật Trọng tài thương mại năm 2010.
Các Trung tâm trọng tài đã được thành lập theo quy định của Luật và từng bước được cải thiện, hứa hẹn một bước phát triển mới của hình thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án, qua đó góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa các hoạt động thương mại, nhất là trong điều kiện hội nhập quốc tế hiện nay. Một số Trung tâm lớn hoạt động tương đối hiệu quả, đã thu hút được sự tham gia của trọng tài viên nước ngoài có kinh nghiệm.
Bộ Tư pháp đã phối hợp với Tòa án nhân dân tối cao xây dựng, ban hành Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định Luật Trọng tài thương mại năm 2010; cấp giấy phép thành lập các Trung tâm trọng tài thương mại. Năm 2014, các tổ chức trọng tài đã tiếp nhận để giải quyết khoảng gần 900 vụ việc, tăng khoảng hơn 8 lần so với các năm trước đây.
(vi) Trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý
Trợ giúp pháp lý là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Ngành Tư pháp trong những năm qua. Đây là hoạt động thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với người nghèo, người có công với cách mạng, đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng yếu thế khác theo quy định của pháp luật giúp các đối tượng này nâng cao ý thức pháp luật, giải tỏa vướng mắc pháp luật, đồng thời giúp các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan nhà nước khác giải quyết vụ việc một cách chính xác, khách quan, công bằng và đúng pháp luật; tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; góp phần ổn định chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Hoạt động trợ giúp pháp lý đã có những đóng góp quan trọng vào sự nghiệp cải cách hành chính, cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Triển khai thực hiện Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006, công tác trợ giúp pháp lý đã được nâng cao hơn về chất lượng, từng bước thu hút được sự tham gia của các ngành, các cấp, bảo đảm thông tin pháp luật và thông tin chung của Đảng, Nhà nước được kịp thời, chính xác đến người nghèo, đối tượng chính sách. Công tác phối hợp trợ giúp pháp lý trong hoạt động tố tụng tại các địa phương từng bước được nâng cao, góp phần bảo đảm quyền của đối tượng được trợ giúp pháp lý khi tham gia tố tụng. Ngày 10/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 678/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030, với mục tiêu tổng quát là “phát triển trợ giúp pháp lý ổn định, bền vững, cung ứng dịch vụ trợ giúp pháp lý kịp thời, đầy đủ, có chất lượng cho người dân thuộc diện được trợ giúp pháp lý trên cơ sở phát huy vai trò nòng cốt trong tổ chức thực hiện của Nhà nước, huy động triệt để sự tham gia của các nguồn lực xã hội, sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân, góp phần bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi có vướng mắc pháp luật, bảo vệ công lý, công bằng xã hội, tăng hiệu quả thực thi công vụ và ý thức tuân thủ, chấp hành pháp luật, đưa pháp luật vào cuộc sống”.
Năm là, việc quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính sớm được tổ chức triển khai bài bản ngay sau khi Luật Xử lý vi phạm hành chính có hiệu lực
Việc xây dựng các văn bản quy định chi tiết thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính về cơ bản đã hoàn thành; tổ chức bộ máy từng bước được kiện toàn với việc thành lập Cục Quản lý xử lý vi phạm hành chính và theo dõi thi hành pháp luật trực thuộc Bộ Tư pháp; một số địa phương đã thành lập Phòng quản lý công tác xử lý vi phạm hành chính thuộc Sở Tư pháp như: Hải Phòng, Đắk Lắk, Hà Nam; một số địa phương đã phê duyệt Đề án Xây dựng tổ chức bộ máy, biên chế triển khai thực hiện quản lý thống nhất công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hoặc bố trí cán bộ kiêm nhiệm để triển khai thực hiện nhiệm vụ này.
Bước đầu, các hoạt động tập huấn đã được triển khai toàn quốc; một số hoạt động về tuyên truyền, hướng dẫn, kiểm tra công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đã được triển khai thường xuyên tại các địa phương, đạt kết quả tốt. Một số địa phương đã chủ động đề xuất các biện pháp xử lý khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính về áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng...).
2.3. Công tác pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật được triển khai cả bề rộng và chiều sâu, góp phần nâng tầm của Việt Nam trên trường quốc tế
2.3.1. Trong lĩnh vực pháp luật quốc tế
Nhiệm vụ thẩm định, góp ý điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế được Bộ Tư pháp chú trọng thực hiện đáp ứng kịp thời, góp phần tăng chất lượng, tác dụng, hiệu quả và tính khả thi của các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết. Hàng năm, Bộ đã thẩm định, góp ý hàng trăm điều ước quốc tế, thoả thuận quốc tế và tham gia đàm phán nhiều hiệp định thương mại tự do, hợp đồng PPP, BOT, BT lớn của đất nước; đồng thời, việc cấp ý kiến pháp lý cho các khoản vay, các dự án phục vụ đầu tư, phát triển kinh tế - xã hội đã góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các hoạt động đầu tư, pháp triển kinh tế - xã hội.
Bộ Tư pháp đã xây dựng hồ sơ trình Chính phủ về việc gia nhập Công ước Lahay về tống đạt giấy tờ tư pháp và ngoài tư pháp trong lĩnh vực dân sự hoặc thương mại; trình Chính phủ ban hành Nghị quyết số 67/NQ-CP ngày 08/9/2014 thay thế Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 12/12/2012 về việc phân công cho Thủ tướng Chính phủ thay mặt Chính phủ thực hiện một số công việc về điều ước quốc tế, Nghị định số 51/2015/NĐ-CP ngày 26/5/2015 về cấp ý kiến pháp lý; trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế phối hợp trong giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế (theo Quyết định số 04/2014/QĐ-TTg ngày 14/01/2014), bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Chính phủ, cơ quan nhà nước Việt Nam.
Thực hiện nhiệm vụ chủ trì và đại diện pháp lý cho Chính phủ trong giải quyết tranh chấp quốc tế, Bộ Tư pháp đã tích cực phối hợp với các bộ, cơ quan, địa phương tham mưu cho Chính phủ giải quyết các vụ tranh chấp quốc tế, trong đó có nhiều vụ tranh chấp đầu tư (như DialAsie, Recofi, TVB, Saigon Metropolitan...); đặc biệt là đã bảo vệ thành công 02 vụ việc liên tiếp nhà đầu tư nước ngoài kiện ra Hội đồng Trọng tài quốc tế yêu cầu Chính phủ Việt Nam bồi thường nhiều triệu đô-la Mỹ, đó là vụ South Fork (Hoa Kỳ) và vụ DialAsie (Pháp).
Sau khi tham mưu cho Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Tương trợ tư pháp năm 2007, Bộ Tư pháp đã đẩy mạnh việc triển khai Luật này thông qua việc giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về tương trợ tư pháp. Bộ đã phối hợp với các bộ, ngành trong lĩnh vực tương trợ tư pháp (Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Ngoại giao và Bộ Công an) xây dựng và hoàn thiện hơn nữa thể chế trong nước phục vụ cho hoạt động tương trợ tư pháp; tăng cường việc đàm phán, ký kết và thực hiện Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và thương mại, Hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ tội phạm. Hàng năm, Bộ Tư pháp thực hiện khoảng 3.000 ủy thác tư pháp với các nước đã ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp và các nước chưa ký kết Hiệp định tương trợ tư pháp với Việt Nam, qua đó, góp phần giúp cho các cơ quan tư pháp Việt Nam và nước ngoài giải quyết được nhiều vụ việc, tranh chấp liên quan.
2.3.2. Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật
Trên cơ sở đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, những thành tựu đất nước đã đạt được trong thời kỳ “đổi mới”, cùng với quan hệ ngoại giao mà Việt Nam đã được thiết lập với 180 nước/193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc, là thành viên tích cực của trên 70 tổ chức khu vực và quốc tế, Bộ Tư pháp đã không ngừng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong quá trình phát triển của đất nước. Đến nay, công tác hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp đã được tăng cường và ngày càng đẩy mạnh trên cả ba bình diện toàn cầu, khu vực và song phương, cụ thể là:
Về hợp tác song phương: Bộ Tư pháp Việt Nam đã thực hiện xây dựng, đàm phán và ký kết tổng cộng 72 thỏa thuận quốc tế, điều ước quốc tế với các quốc gia, lãnh thổ và các tổ chức quốc tế, trong đó có các đối tác quan trọng như: Liên bang Nga, Pháp, Cuba, Cộng hòa Liên bang Đức, Ô-xtrây-lia, Cộng hòa Bê-la-rút, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Nhật Bản….; hiện 10 văn kiện đã hết hiệu lực, 62 văn kiện còn lại đều đang còn hiệu lực và được Bộ Tư pháp liên tục triển khai thực hiện.
Việt Nam đã ký kết 18 hiệp định và thỏa thuận tương trợ tư pháp với các nước. Trên cơ sở các hiệp định tương trợ tư pháp đã ký kết, các yêu cầu tương trợ tư pháp đi và đến được thực hiện ngày càng bài bản với số lượng tăng hơn trước (có nơi đạt từ 65 - 80% so với 0% trước khi thỏa thuận được ký kết), có hệ thống, lưu trữ, thống kê đầy đủ; có sự phối hợp liên ngành chặt chẽ trong công tác quản lý tương trợ tư pháp, trong đào tạo, tập huấn cho cán bộ làm công tác ủy thác tư pháp.
Về hợp tác đa phương toàn cầu: Với vai trò ngày càng tăng của các cơ chế đa phương, các tổ chức quốc tế, pháp luật quốc tế, kể từ khi Bộ Tư pháp thay mặt Chính phủ Việt Nam trình thư của Việt Nam chính thức gia nhập Hội nghị Lahay về tư pháp quốc tế - tổ chức uy tín bậc nhất trong lĩnh vực tư pháp quốc tế và Việt Nam chính thức trở thành thành viên từ ngày 10/4/2013, Bộ Tư pháp đã và đang tiếp tục nỗ lực nghiên cứu, phối hợp với các bộ, ngành có liên quan trình Chính phủ phê duyệt một số Đề án tham gia các tổ chức quốc tế về pháp luật như: Tổ chức tư vấn pháp luật Á - Phi (AALCO), Tổ chức nhất thể hóa pháp luật tư (UNIDROIT), Tổ chức quốc tế về phát triển luật (IDLO) và Ủy ban Luật Thương mại Quốc tế Liên Hợp Quốc (UNCITRAL). Đồng thời, Bộ Tư pháp cũng đã và đang đẩy mạnh hợp tác thông qua việc xây dựng, đàm phán, ký kết và quản lý thực hiện các chương trình, dự án và hoạt động hợp tác về pháp luật với các cơ quan của Liên Hợp Quốc (UNDP, UNICEF, UN Women, UNODC…), các tổ chức tài chính quốc tế (World Bank, IFC, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (OIF), Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)… nhằm góp phần hỗ trợ hiệu quả công tác cải cách tư pháp, cải cách hành chính, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Về hợp tác đa phương khu vực: Bộ Tư pháp đã thúc đẩy các hoạt động hợp tác trong khuôn khổ ASEAN, đặc biệt là phát huy các sáng kiến của Việt Nam về tăng cường tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự và thương mại (tháng 11/2012), sáng kiến về thành lập nhóm quan hệ đối tác pháp luật trong khu vực ASEAN (đang xây dựng); đẩy mạnh các hoạt động hợp tác với EU thông qua việc thực hiện Chương trình đối tác tư pháp, các hoạt động trong khuôn khổ Tiểu ban hợp tác Việt Nam - EU về xây dựng thể chế, cải cách hành chính, quản trị và nhân quyền…; thúc đẩy đàm phán hợp tác giai đoạn tới thông qua Dự án quản trị nhà nước và pháp quyền (Chương trình hợp tác trung hạn giữa EU và Chính phủ Việt Nam giai đoạn 2015 - 2020).
Trên cơ sở những nỗ lực trên, công tác tư pháp, pháp luật của Việt Nam đã và đang nhận được nhiều hỗ trợ quý báu của các quốc gia, các tổ chức quốc tế, đã xây dựng, đàm phán, ký kết và quản lý thực hiện trên 20 chương trình, dự án hợp tác về pháp luật với rất nhiều đối tác, trong đó có các đối tác quan trọng như: Các cơ quan của Liên Hợp Quốc, World Bank, EU, Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Hợp tác phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Viện Konrad Adenauer (KAS) và Viện Friedrich - Ebert (FES) - Đức, Tổ chức quốc tế Pháp ngữ (OIF), Hội đồng Công chứng tối cao Pháp…
Hợp tác quốc tế trong thời gian qua đã và đang mang lại nhiều lợi ích thiết thực cho đất nước nói chung và Ngành Tư pháp nói riêng. Thông qua các hoạt động hợp tác cụ thể như trao đổi, học hỏi kinh nghiệm, chuyển giao kiến thức, trình độ hiểu biết, kỹ năng của các chuyên gia pháp luật Việt Nam đã được nâng lên đáng kể; những kiến thức, giá trị pháp lý tiên tiến của thế giới đã được tiếp thu, vận dụng một cách chọn lọc vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính; những kinh nghiệm không thành công ở một số nước cũng đã được tính đến như những bài học có giá trị; đội ngũ cán bộ pháp luật được đào tạo cơ bản hoặc bồi dưỡng, thực tập tại các nước có hệ thống pháp luật phát triển đã và đang góp phần bổ sung lực lượng cán bộ cho các thiết chế pháp luật và tư pháp. Hơn thế nữa, thông qua việc đẩy mạnh các hoạt động hợp tác, hình ảnh, uy tín của Bộ, Ngành Tư pháp đã từng bước được tạo dựng và ngày càng được nâng cao trong con mắt bạn bè quốc tế và giới thiệu được với cộng đồng quốc tế về công cuộc đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam. Xét trên bình diện chung, thông qua việc mở rộng các hoạt động về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp thời gian qua, Ngành Tư pháp nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung đã tiếp cận được gần hơn với thể chế kinh tế thị trường cũng như những chuẩn mực pháp lý quốc tế, góp phần vào thành tựu chung của đất nước; có ý nghĩa thiết thực phục vụ hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, góp phần xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính.
2.4. Hoạt động của các đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ được tăng cường, thúc đẩy và góp phần nâng cao hiệu quả thực thi các nhiệm vụ chính trị của Ngành Tư pháp
2.4.1. Công tác đào tạo luật, các chức danh tư pháp và bồi dưỡng nghiệp vụ pháp luật tại các cơ sở đào tạo thuộc Bộ tiếp tục được đẩy mạnh
Song song với công tác kiện toàn tổ chức, Bộ, Ngành Tư pháp đã và đang tích cực mở rộng quy mô, đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực pháp luật, cán bộ tư pháp và các chức danh tư pháp, bảo đảm nguồn nhân lực cho đất nước, cho Ngành.
Năm 2013, Bộ Tư pháp đã tập trung xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể “Xây dựng Trường Đại học Luật Hà Nội và Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh thành các trường trọng điểm đào tạo cán bộ về pháp luật” (Quyết định số 549/QĐ-TTg ngày 04/4/2013), Đề án “Xây dựng Học viện Tư pháp thành trung tâm lớn đào tạo các chức danh tư pháp” (Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 08/11/2013), là sự kiện quan trọng trong công tác đào tạo cán bộ pháp luật, tư pháp của đất nước, hướng đến mục tiêu năm 2020, tạo chuyển biến mạnh về chất lượng đào tạo cán bộ pháp luật, tư pháp, đáp ứng yêu cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế.
Song song với việc từng bước mở rộng quy mô tuyển sinh, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tuyển sinh, mở các lớp đào tạo nhân lực pháp luật cho các địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đào tạo sinh viên hệ cử tuyển và thực hiện các hình thức đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức pháp luật cho cán bộ công tác tại các cơ quan, tổ chức, hiệp hội, doanh nghiệp, cá nhân có nhu cầu; đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tổ chức các loại hình đào tạo từ xa, đào tạo trực tuyến. Chất lượng sinh viên ở tất cả các hệ, nhất là hệ chính quy, khá ổn định và từng bước được nâng cao. Tỷ lệ sinh viên đủ điều kiện tốt nghiệp hàng năm đạt cao, nhiều sinh viên đạt loại khá, giỏi. Sinh viên tốt nghiệp của Trường được các đơn vị tuyển dụng đánh giá là khá hơn về kiến thức so với mặt bằng chung của sinh viên luật hiện nay.
Về đào tạo trung cấp luật, nhằm đáp ứng nhu cầu cán bộ cho cơ sở, căn cứ vào chỉ tiêu được Bộ Giáo dục và Đào tạo cấp, các trường trung cấp luật đã và đang tiến hành tuyển sinh, đào tạo sinh viên, học viên nhằm bảo đảm đào tạo bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ cơ sở, đặc biệt là trên những địa bàn khó khăn về kinh tế - xã hội. Mặc dù mới được thành lập và đi vào hoạt động, nhưng hệ thống các trường trung cấp luật đã và sẽ đáp ứng được nhu cầu đào tạo cho đối tượng công chức tư pháp - hộ tịch cấp xã và một số chức danh tư pháp, góp phần nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô đào tạo và chuẩn hóa trình độ chuyên môn đối với nhân lực Ngành Tư pháp.
Công tác bồi dưỡng cán bộ pháp luật, nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công chức Ngành Tư pháp tiếp tục được chú trọng. Bộ Tư pháp đã phối hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức bồi dưỡng cho hàng chục nghìn lượt cán bộ, công chức Ngành Tư pháp theo những chuyên đề khác nhau như: Nghiệp vụ tư pháp - hộ tịch cấp xã; nghiệp vụ xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật... Các lớp tập huấn, bồi dưỡng với các chuyên đề thiết thực và thực chất hơn, được người học đánh giá cao. Bộ Tư pháp đã chủ động mở lớp bồi dưỡng kiến thức về hội nhập kinh tế quốc tế cho đội ngũ cán bộ, công chức cơ quan Bộ, các tổ chức pháp chế bộ, ngành, địa phương. Việc biên soạn chương trình, tài liệu bồi dưỡng, hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ trong Ngành cũng được coi trọng.
2.4.2. Công tác nghiên cứu khoa học pháp lý
Công tác nghiên cứu khoa học của Bộ, Ngành Tư pháp trong những năm qua đã có những đóng góp thiết thực và quan trọng vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Bộ, Ngành, từng bước khẳng định vai trò đi trước, cung cấp các luận cứ khoa học phục vụ công tác chung của Bộ, Ngành, đặc biệt là các nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp. Các hoạt động tổng kết và triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013, các dự án xây dựng hoặc sửa đổi, bổ sung văn bản luật đều đã được tổ chức nghiên cứu, xây dựng các luận cứ lý luận và thực tiễn, phục vụ đắc lực cho hoạt động xây dựng pháp luật, hoạch định Chiến lược phát triển hệ thống pháp luật và hệ thống tư pháp Việt Nam.
Công tác nghiên cứu khoa học của Bộ, Ngành Tư pháp đã góp phần tích cực, quan trọng vào việc xây dựng các luận cứ khoa học, phát triển lý luận về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay [79]; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay; góp phần quan trọng nhằm thúc đẩy việc ghi nhận, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, nhất là quyền con người trong lĩnh vực dân sự, tư pháp hình sự...
Kết quả nghiên cứu cũng đã góp phần giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn quản lý của Bộ, Ngành Tư pháp, xác định mô hình Ngành Tư pháp, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp và hội nhập kinh tế quốc tế; tổ chức triển khai hiệu quả các định hướng chiến lược, chương trình lớn của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp.
2.4.3. Hoạt động của các cơ quan báo chí, xuất bản
Các cơ quan báo chí, xuất bản trong Ngành Tư pháp những năm qua đã có nhiều đổi mới tích cực đối với các ấn phẩm cả về nội dung và hình thức, góp phần cung cấp, chuyển tải các thông tin pháp luật, nhất là phổ biến, tuyên truyền các văn bản pháp luật, thông tin về các sự kiện quan trọng của đất nước và những vấn đề nóng trong hoạt động tư pháp và pháp luật đến với bạn đọc và mọi tầng lớp nhân dân. Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí, xuất bản của Ngành Tư pháp cũng đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức, khẳng định được vị trí của mình trong hệ thống truyền thông báo chí, xuất bản của quốc gia nói chung và trong khối các cơ quan nội chính nói riêng.
Chất lượng thông tin trên các chuyên trang, chuyên mục báo chí đã được nâng cao và phong phú, đa dạng hơn so với các năm trước đây, thông tin cập nhật thường xuyên, gắn liền với đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, được bạn đọc chấp nhận; tổ chức thành công chương trình bình chọn danh hiệu “Hãng luật và luật sư của năm”, cuộc thi viết “Gương sáng Tư pháp”, cuộc thi tìm hiểu lịch sử Ngành Tư pháp, cuộc thi tìm hiểu Hiến pháp năm 2013. Tiếp tục đổi mới toàn diện báo hàng ngày để phát hành ra thị trường. Một số báo giấy được đông đảo bạn đọc quan tâm, hưởng ứng tích cực (như Báo Pháp luật Việt Nam, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh, Báo Pháp luật và xã hội). Hoạt động cung cấp thông tin cho báo chí được tổ chức định kỳ theo quý và đột xuất theo đúng quy định và được cơ quan báo chí đánh giá rất tích cực.
Hoạt động của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật cũng đã và đang bám sát các lĩnh vực trọng tâm của công tác tư pháp. Cùng với 12 số định kỳ và 12 số chuyên đề hàng tháng, các số chuyên đề chuyên sâu (200 trang) của Tạp chí Dân chủ và Pháp luật đã góp phần làm sâu sắc về lý luận và cung cấp một cách khái quát, toàn cảnh những vấn đề về pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật của Ngành Tư pháp trong suốt thời gian qua, phục vụ các nhà hoạch định chính sách, các nhà nghiên cứu, cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Ngành Tư pháp và các độc giả yêu thích tìm hiểu pháp luật.
Hoạt động biên tập, xuất bản của Nhà xuất bản Tư pháp cũng đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, hoàn thành các nhiệm vụ mà Bộ, Ngành giao phó, đáp ứng tốt nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Bằng việc đổi mới toàn diện từ khâu lựa chọn chủ đề đến việc xây dựng quy trình xuất bản chặt chẽ, chuyên nghiệp, đúng pháp luật, các xuất bản phẩm của Nhà xuất bản Tư pháp luôn đạt chất lượng tốt, nội dung phong phú, giàu tính khoa học và chuyên sâu. Nhà xuất bản Tư pháp đã và đang khẳng định được vị thế của mình trong việc xuất bản các ấn phẩm về khoa học pháp lý, trở thành một trong các nhà xuất bản có uy tín trên cả nước.
2.5. Các lĩnh vực công tác khác
2.5.1. Công tác cải cách hành chính
Thực hiện Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ ban hành Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020; Nghị quyết số 76/NQ-CP ngày 13/6/2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 30c/NQ-CP, năm 2014, Bộ, Ngành Tư pháp tiếp tục quán triệt việc xác định cải cách hành chính là một khâu đột phá, trong đó đã xác định cải cách hành chính là trách nhiệm chính trị của mỗi cán bộ, công chức trước Đảng, trước nhân dân. Với quyết tâm lớn trong triển khai cải cách hành chính, tập trung cải cách quy trình, chất lượng xây dựng, thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin, Bộ Tư pháp luôn đứng trong nhóm dẫn đầu về xếp hạng cải cách hành chính theo Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính thuộc Bộ Tư pháp (Par Index) do Bộ Nội vụ tổ chức chấm điểm (từ năm 2012 đến năm 2014, Bộ Tư pháp cũng luôn ở trong nhóm 05 bộ, ngành đứng đầu về Chỉ số cải cách hành chính, trong đó năm 2012, Bộ Tư pháp đứng đầu).
2.5.2. Công tác ứng dụng công nghệ thông tin
Công tác ứng dụng công nghệ thông tin trong toàn Ngành tiếp tục được tăng cường, cán bộ, công chức, viên chức trong Ngành Tư pháp đã hình thành thói quen xử lý, trao đổi công việc chủ yếu bằng văn bản, tài liệu điện tử trên môi trường mạng. Tại Bộ Tư pháp, công tác ứng dụng công nghệ thông tin đã bám sát các nhiệm vụ trọng tâm, góp phần đắc lực cho công tác chỉ đạo, điều hành. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và viễn thông của cơ quan Bộ được duy trì, vận hành đồng bộ, an toàn, phục vụ hiệu quả cho việc triển khai các ứng dụng công nghệ thông tin của cơ quan Bộ Tư pháp nói riêng và toàn Ngành nói chung. Với những kết quả đạt được, trong năm 2013, Bộ Tư pháp được Bộ Thông tin và Truyền thông đánh giá, xếp thứ hai về mức độ ứng dụng công nghệ thông tin tổng thể của các bộ, cơ quan ngang bộ.
2.5.3. Công tác kế hoạch - tài chính
Công tác kế hoạch - tài chính của Bộ Tư pháp cơ bản bám sát yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của Bộ, của Ngành theo yêu cầu cải cách tư pháp, xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách hành chính; bảo đảm kinh phí hoạt động, thực hiện tốt việc cung cấp các trang thiết bị làm việc và đầu tư xây dựng cho các cơ quan, đơn vị trong Ngành Tư pháp; bước đầu triển khai hiệu quả công tác thống kê, kế hoạch trong toàn Ngành.
Công tác lập, chấp hành và quyết toán ngân sách nhà nước được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Các đơn vị được giao dự toán thu ngân sách đều thực hiện đạt và vượt mức dự toán ngân sách giao đầu năm, với số thu tăng so với dự toán, ngoài số nộp ngân sách theo quy định, số thu được để lại và một phần kinh phí tiết kiệm được đã thực hiện chi thu nhập tăng thêm cho cán bộ công chức. Một số đơn vị sự nghiệp đã có tích lũy để tái đầu tư như: Trường Đại học Luật Hà Nội, Học viện Tư pháp, Báo Pháp luật Việt Nam, Nhà xuất bản Tư pháp. Kinh phí ngân sách nhà nước bố trí cho Bộ Tư pháp cơ bản bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao.
Với 70 năm xây dựng và phát triển, từ những nền móng đầu tiên của một nền tư pháp dân chủ nhân dân, Ngành Tư pháp đã nhanh chóng xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp ở trung ương (Bộ Tư pháp) và 03 miền của đất nước (các Sở Tư pháp). Trải qua thời kỳ “Tư pháp kháng chiến” từ những ngày đầu với “12 chiến sĩ tư pháp cách mạng”, Ngành Tư pháp đã dần lớn mạnh với những chức năng cơ bản về xây dựng và thi hành pháp luật, quản lý và thực hiện công tác tư pháp, bao gồm cả công tác xét xử, công tố, quản lý trại giam, quản lý các hoạt động bổ trợ tư pháp (luật sư, công chứng, thừa phát lại...) và hành chính tư pháp (hộ tịch, quốc tịch...), phục vụ và góp phần đắc lực vào đường lối chiến tranh nhân dân, toàn diện kháng chiến theo đường lối của Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Kháng chiến thành công, hòa bình thiết lập tại miền Bắc, Ngành Tư pháp tiếp tục khắc phục những khó khăn về cơ sở vật chất, con người hoàn thành các nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Từ năm 1960, cơ cấu tổ chức và chức năng của Bộ, Ngành Tư pháp được chuyển giao cho các cơ quan Công an, Tòa án, Kiểm sát và một phần cho chính quyền địa phương, cho đến năm 1972 thành lập Ủy ban Pháp chế của Hội đồng Chính phủ để giúp Hội đồng Chính phủ quản lý thống nhất công tác pháp luật và pháp chế, đặc biệt là trong việc xây dựng pháp luật phục vụ quản lý nhà nước về kinh tế, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; xây dựng hệ thống tổ chức pháp chế ở các bộ, tổng cục, các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; quản lý đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ pháp luật…
Sau khi Hiến pháp năm 1980 được thông qua, trong đó xác định đường lối quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội trong cả nước, tháng 11/1981, trên cơ sở Nghị quyết của Bộ Chính trị và Quốc hội khoá VII, Bộ Tư pháp được tái thành lập theo Nghị định số 143-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng để kế thừa, mở rộng chức năng, nhiệm vụ của Uỷ ban Pháp chế, đồng thời tiếp nhận lại nhiệm vụ quản lý các Toà án địa phương về mặt tổ chức; hệ thống các cơ quan tư pháp được thành lập ở ba cấp chính quyền địa phương, các bộ, các Ủy ban Nhà nước và một số cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng có Vụ Pháp chế, ở các sở chuyên môn, liên hiệp các xí nghiệp, tổng công ty, xí nghiệp có cố vấn pháp luật.
Sau khi Hiến pháp năm 1992 - Hiến pháp của thời kỳ đổi mới được ban hành, Ngành Tư pháp tuy có sự điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ (như chuyển giao quản lý Tòa án địa phương sang Tòa án nhân dân tối cao…), song vị trí, vai trò và định hướng phát triển của Ngành ngày càng rõ nét, khẳng định “là cơ quan trọng yếu của chính quyền” trong xây dựng và thi hành pháp luật, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiểm soát thủ tục hành chính, phổ biến, giáo dục pháp luật; quản lý nhà nước về thi hành án dân sự, thi hành án hành chính, hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, xử lý vi phạm hành chính; đào tạo nguồn nhân lực pháp luật và các chức danh tư pháp... Hệ thống các cơ quan tư pháp từ trung ương đến cơ sở không ngừng được kiện toàn, củng cố, hoàn thiện đội ngũ cán bộ tư pháp ngày càng phát triển lớn mạnh, bằng những kết quả hoạt động thiết thực của cơ quan tư pháp đã khẳng định được vị trí, vai trò của mình trong hệ thống các cơ quan nhà nước cũng như trong đời sống xã hội.
Có thể khẳng định rằng, trong 70 năm lịch sử, có lúc thăng trầm, song lớp lớp các thế hệ cán bộ của Ngành Tư pháp luôn luôn lấy lợi ích của nhân dân và dân tộc làm mục tiêu cho mọi cố gắng của mình. Ngành Tư pháp đã và đang góp phần xứng đáng vào việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và xây dựng nền tư pháp nhân dân theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một nhà nước và hệ thống pháp luật dân chủ kiểu mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ những ngày được thành lập đến những năm tháng trường kỳ kháng chiến, Ngành Tư pháp đã cống hiến nhiều trí tuệ cho công cuộc kiến quốc, đồng thời sử dụng pháp luật như một công cụ hữu hiệu, góp phần vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc, giành lại và giữ vững độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất đất nước. Các thế hệ thẩm phán, công tố viên, luật sư, cán bộ tư pháp đã tận tụy cống hiến, nhiều người đã anh dũng hy sinh, được suy tôn là “Chiến sĩ trên mặt trận Tư pháp”.
Thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ngành Tư pháp từ trung ương đến cơ sở ngày càng được mở rộng, tăng cường, với nhiều trọng trách mới, lớn lao. Nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, bằng sự nỗ lực của cả hệ thống, Ngành Tư pháp đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế tổ chức thi hành pháp luật và cải cách tư pháp; quản lý các lĩnh vực hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, thi hành án dân sự, hành chính, cung cấp dịch vụ công và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực pháp luật và tư pháp, giúp cho quốc kế, dân sinh, góp phần ngày càng tích cực vào việc thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Quản lý nhà nước được tăng cường, xã hội hóa các hoạt động tư pháp ngày càng được đẩy mạnh.
Những thành tích chủ yếu mà Ngành Tư pháp đã đạt được là:
Thứ nhất, chủ động, tích cực góp phần tham mưu với Đảng và Nhà nước hoạch định các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật và tư pháp, góp phần đẩy mạnh toàn diện sự nghiệp đổi mới đất nước cụ thể là Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, góp phần hình thành lý luận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hoàn thiện thể chế pháp lý cho nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng pháp luật và hoạt động tư pháp, ghi nhận, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân, nhất là bảo vệ con người trong lĩnh vực dân sự và tư pháp. Cùng với các cơ quan nhà nước khác, Ngành Tư pháp đã giúp Chính phủ, Quốc hội và chính quyền địa phương quán xuyến được quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính liên tục kế thừa, thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch của hệ thống pháp luật; không ngừng đổi mới tư duy để nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật. Ngành Tư pháp đã và đang chủ trì xây dựng những đạo luật nền tảng của hệ thống pháp luật, trong đó chứa đựng những nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa, giữ vững bản chất nhà nước, pháp luật của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đồng thời bám sát yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh, quốc phòng, củng cố vị thế đối ngoại của Nhà nước trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, bằng hoạt động thẩm định, kiểm soát thủ tục hành chính và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, Ngành Tư pháp đã và đang thực hiện ngày một tốt hơn vai trò là “người gác cổng tin cậy” cho Chính phủ, chính quyền địa phương về tính hợp hiến, hợp pháp và thống nhất của hệ thống pháp luật.
Thứ hai, đóng góp xứng đáng vào công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Ngành Tư pháp kịp thời thể chế hoá có hiệu quả đường lối của Đảng, Nhà nước, nhất là Nghị quyết số 08-NQ/TW, Nghị quyết số 48-NQ/TW, Nghị quyết số 49-NQ/TW; khẳng định và đưa vào hoạt động thực tế các chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp. Ngành Tư pháp đã chủ động, kiên trì thực hiện chủ trương “xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp” theo Nghị quyết số 49-NQ/TW; nhiều chính sách lớn, quy hoạch tổng thể trong các lĩnh vực bổ trợ tư pháp đã được xây dựng, ban hành như Chiến lược phát triển đội ngũ luật sư, Chiến lược trợ giúp pháp lý, Quy hoạch phát triển nghề công chứng, thí điểm chế định Thừa phát lại... tạo điều kiện định hướng hoạt động bổ trợ tư pháp, bám sát định hướng đổi mới theo yêu cầu của Chiến lược cải cách tư pháp.
Thứ ba, Ngành Tư pháp luôn coi trọng việc nghiên cứu lý luận đồng thời tổng kết thực tiễn xây dựng và thi hành pháp luật, từ đó không ngừng đề xuất những chính sách, giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện thiết chế tư pháp; củng cố, hoàn thiện, xây dựng mới các thiết chế hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, thi hành án dân sự, trợ giúp pháp lý, phổ biến, giáo dục pháp luật, hòa giải ở cơ sở…, nhằm bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả chỉ đạo, điều hành bằng pháp luật của Chính phủ và các cấp chính quyền địa phương, đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách tư pháp, cải cách hành chính, góp phần giải phóng sức sản xuất, phát huy mọi nguồn lực cho sự phát triển bền vững, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, nâng cao sự đoàn kết dân tộc và phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu an toàn pháp lý của cá nhân, tổ chức; nâng cao nhận thức của xã hội về vị trí, vai trò của pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân.
Thứ tư, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật, các chức danh tư pháp phát triển lớn mạnh về quy mô, với chất lượng ngày càng được tăng cường đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực về pháp luật và tư pháp trong quá trình tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và hội nhập quốc tế. Nhờ đó, đã hình thành mạng lưới cán bộ tư pháp, pháp chế tương đối rộng khắp; nâng cao bản lĩnh chính trị, kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ tư pháp và các chức danh tư pháp.
Thứ năm, công tác quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế về tư pháp và pháp luật đã được Ngành Tư pháp hoàn thành xuất sắc theo đúng các nguyên tắc và đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ; vừa mở đường, khơi thông quan hệ hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, vừa góp phần giữ vững an ninh quốc phòng, phòng, chống âm mưu diễn biến hòa bình trong những lĩnh vực chính trị - pháp lý nhạy cảm; vừa tích cực khởi xướng sáng kiến hoặc chủ động tham gia hoạt động hợp tác pháp luật và tư pháp song phương, đa phương thúc đẩy quá trình hình thành các cộng đồng quốc tế trong khu vực và thế giới phù hợp với lợi ích của dân tộc, vừa tạo khuôn khổ pháp lý để thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc, góp phần tác động tích cực đến việc thu hút cộng đồng người Việt sống tại nước ngoài hướng về xây dựng và phát triển quê hương đất nước.
Tại Hội nghị toàn quốc triển khai công tác tư pháp năm 2015, Bộ trưởng Hà Hùng Cường đã tóm lược những thành tựu đạt được trong năm 2014, trong đó có thành quả, công sức của những năm trước, đó là: “Qua những việc mà Ngành Tư pháp đã làm được trong năm 2014 cho thấy, đã có tinh thần đổi mới tư duy quản lý nhà nước đối với các hoạt động xây dựng và thi hành pháp luật theo hướng hoàn thiện thể chế phải gắn liền với chất lượng và hiệu quả thi hành thể chế, vì lợi ích toàn cục của quốc gia, vì sự đơn giản, thuận lợi cho nhân dân. Qua đó, góp phần đưa công tác tư pháp vào cuộc ngày càng sâu hơn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và bảo vệ chủ quyền của đất nước; đóng góp tích cực hơn vào việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp, được Đảng, Quốc hội, Chính phủ và Nhân dân ghi nhận”.
Để ghi nhận những đóng góp của Ngành Tư pháp đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong 70 năm qua, các tập thể, cán bộ, công chức, viên chức Ngành Tư pháp đã nhận được nhiều huân chương, huy chương, bằng khen, giấy khen do Đảng, Nhà nước trao tặng, như Huân chương Hồ Chí Minh (năm 2005), Huân chương Sao Vàng (năm 2010), Huân chương Độc lập hạng Nhất (năm 2015) và nhiều danh hiệu cao quý khác. Toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động Ngành Tư pháp luôn tự hào và vững tin xây dựng Ngành Tư pháp vì đất nước, vì nhân dân.
Chú thích:
[1]. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XIII, Bộ trưởng Hà Hùng Cường được tái bổ nhiệm giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Tư pháp nhiệm kỳ 2011 - 2016.
[2]. Tăng 04 đơn vị so với Nghị định số 62/2003/NĐ-CP.
[3]. Xem: Quyết định số 2101/QĐ-BTP ngày 04/11/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật.
[4]. Xem: Quyết định số 2278/QĐ-BTP ngày 04/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Con nuôi.
[5]. Xem: Quyết định số 2276/QĐ-BTP ngày 04/12/2008 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Công nghệ thông tin.
[6]. Ngày 17/3/2009, Bộ Tư pháp đã tổ chức Lễ ra mắt Cơ quan đại diện của Bộ Tư pháp tại thành phố Hồ Chí Minh.
[7]. Xem: Quyết định số 23/2004/QĐ-TTg ngày 25/02/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Học viện Tư pháp; Quyết định số 1901/QĐ-BTP ngày 13/7/2010 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Học viện Tư pháp.
[8]. Trừ Vụ Thi đua - Khen thưởng vẫn có cơ cấu Vụ trưởng, Phó Vụ trưởng và chuyên viên.
[9]. Xem: Báo cáo số 145/BC-BTP ngày 31/8/2011 của Bộ Tư pháp về tình hình thực hiện Nghị định số 93/2008/NĐ-CP.
[10]. Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực từ ngày 01/7/2010 và Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước có hiệu lực từ ngày 01/01/2010.
[11]. Xem: Quyết định số 767/QĐ-TTg ngày 23/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Cục Bồi thường nhà nước trực thuộc Bộ Tư pháp (tháng 7/2011 Cục Bồi thường nhà nước đã chính thức đi vào hoạt động). Quyết định số 2369/QĐ-TTg ngày 28/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Xây dựng Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia và kiện toàn tổ chức thuộc Sở Tư pháp để xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp” (ngày 02/3/2011, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã chính thức đi vào hoạt động).
[12]. Nguyên là Giám đốc Sở Tư pháp thành phố Hồ Chí Minh.
[13]. Nguyên là Cục trưởng Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm, Bộ Tư pháp.
[14]. Điểm a khoản 5 Điều 2 Nghị định số 93/2008/NĐ-CP.
[15]. Điểm b khoản 5 Điều 2 Nghị định số 93/2008/NĐ-CP.
[16]. Điểm đ khoản 5 Điều 2 Nghị định số 93/2008/NĐ-CP.
[17]. Xem: Thông báo số 198/TB-VPCP ngày 08/8/2008 của Văn phòng Chính phủ về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng về một số nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
[18]. Xem: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ Bộ Tư pháp trình Đại hội đại biểu Đảng bộ Bộ Tư pháp lần thứ IX, nhiệm kỳ 2010 - 2015, mục III.1 về Nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị.
[19]. Ở tầm Luật, hiện chỉ còn Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 chưa được sửa đổi, bổ sung.
[20]. Nguyên là Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XII.
[21]. Nguyên là Vụ trưởng Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Bộ Tư pháp.
[22]. Nguyên là Chánh Văn phòng Bộ Tư pháp.
[23]. Trong nhiệm kỳ 2011 - 2016, ngoài 02 đồng chí thứ trưởng luân chuyển về địa phương (Thứ trưởng Lê Thành Long về giữ chức vụ Phó Bí thư tỉnh ủy tỉnh Hà Tĩnh, Thứ trưởng Lê Hồng Sơn về giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội), ông Nguyễn Thanh Tịnh - nguyên Cục trưởng Cục Bồi thường nhà nước cũng được tín nhiệm luân chuyển và giữ chức vụ Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
[24]. Ngày 01/6/2013, Thứ trưởng Phạm Quý Tỵ chính thức nghỉ hưu theo chế độ; ngày 01/10/2013, Thứ trưởng Nguyễn Đức Chính chính thức nghỉ hưu theo chế độ; ngày 01/5/2014, Thứ trưởng Hoàng Thế Liên chính thức nghỉ hưu theo chế độ.
[25]. Nguyên là Vụ trưởng Vụ Pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp.
[26]. Nguyên là Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội.
[27]. Nghị định này thay thế Nghị định số 93/2008/NĐ-CP.
[28]. Các chức năng sửa đổi, bổ sung được in nghiêng.
[29]. Tăng 03 đơn vị so với giai đoạn 2007 - 2010.
[30]. Tăng 05 đơn vị so với giai đoạn 2007 - 2010.
[31]. Ngày 23/11/2012, Lễ bàn giao Cục Kiểm soát thủ tục hành chính sang Bộ Tư pháp đã được tổ chức dưới sự chứng kiến của Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc và đại diện lãnh đạo một số bộ, ngành.
[32]. Xem: Quyết định số 1491/QĐ-BTP ngày 18/6/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Hộ tịch, quốc tịch, chứng thực.
[33]. Xem: Quyết định số 1489/QĐ-BTP ngày 18/6/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Bổ trợ tư pháp.
[34]. Xem: Quyết định số 1684/QĐ-BTP ngày 05/7/2013 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Công tác phía Nam.
[35]. Hoàn thành sớm so với mục tiêu là đến năm 2015.
[36]. Khối đơn vị thực hiện chức năng quản lý là 679 người; khối đơn vị sự nghiệp là 759 người và khối viên chức các đơn vị sự nghiệp khác (nghiên cứu, báo chí, xuất bản...) có 270 người.
[37]. Ngày 12/6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 921/QĐ-TTg về việc chuyển giao trách nhiệm theo dõi tình hình ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh từ Văn phòng Chính phủ sang Bộ Tư pháp, kể từ ngày 01/7/2013. Vụ Các vấn đề chung về xây dựng pháp luật được giao giúp Bộ trưởng triển khai nhiệm vụ này.
[38]. Quyết định số 2083/QĐ-TTg ngày 08/11/2013.
[39]. Quyết định số 549/QĐ-TTg ngày 04/4/2013.
[40]. Quyết định số 2381/QĐ-BTP ngày 13/9/2010.
[41]. Thay thế Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004.
[42]. Nghị định này thay thế Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11/4/2005 của Chính phủ về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi hành án dân sự và cán bộ, công chức làm công tác thi hành án dân sự.
[43]. Xem: Điều 3 Nghị định số 74/2009/NĐ-CP.
[44]. Xem: Quyết định số 2999/QĐ-BTP ngày 06/11/2009 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp công bố việc thành lập Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ Tư pháp.
[45]. Quyết định số 397/QĐ-TTg ngày 05/3/2013.
[46]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[47]. Trường hợp vượt quá thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố chỉ đạo xây dựng Đề án thành lập tổ chức và phải thống nhất với Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp trước khi quyết định.
[48]. Xem: Báo cáo số 4437/BC-BTP ngày 29/12/2006 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2006 và phương hướng công tác năm 2007, tr. 22, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[49]. Phần in nghiêng là phần bổ sung chức năng so với Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BTP-BNV.
[50]. Thông tư liên tịch số 03/2014/TTLT-TTCP-BNV quy định Thanh tra huyện có Chánh Thanh tra và không quá 02 Phó Chánh thanh tra; Thông tư liên tịch số 50/2014/TTLT-BTNMT-BNV quy định Phòng Tài nguyên và Môi trường có Trưởng phòng và không quá 02 Phó Trưởng phòng.
[51]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[52]. Xem: Báo cáo số 4437/BC-BTP ngày 29/12/2006 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2006 và phương hướng công tác năm 2007, tr. 16, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[53]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[54]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[55]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[56]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[57]. Trích bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Học tập của cán bộ Ngành Tư pháp năm 1950, Số chuyên đề Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (2013) về Ngành Tư pháp với chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp theo lời Bác dạy, Nxb. Tư pháp, tr. 143.
[58]. Xem: Bộ Tư pháp công bố 10 sự kiện nổi bật của Ngành Tư pháp năm 2010, nguồn trích dẫn:
http://moj.gov.vn/mobile/Pages/hoat-dong-cua-bo-tu-phap.aspx?ItemID=4389.
[59]. Các số liệu về kết quả được lấy từ Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015.
[60]. Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thông qua 18 luật (theo Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015) như: Luật Đầu tư; Luật Doanh nghiệp; Luật Nhà ở; Luật Bảo hiểm xã hội; Luật Hộ tịch; Luật Căn cước công dân…
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội đã thông qua 11 luật: Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Luật Ngân sách nhà nước; Luật Kiểm toán nhà nước; Luật Nghĩa vụ quân sự; Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; Luật Thú y; Luật An toàn, vệ sinh lao động.
[61]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[62]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[63]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[64]. Chỉ thị số 32-CT/TW ngày 09/12/2003 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cán bộ, nhân dân.
[65]. Trên cơ sở nghiên cứu mô hình sinh hoạt Ngày Pháp luật tại một số tỉnh, ngày 04/10/2010, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Chủ tịch Hội đồng Phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trung ương đã ký Công văn số 3535/HĐPH hướng dẫn triển khai thực hiện mô hình “Ngày Pháp luật” trên toàn quốc. Tính đến cuối năm 2010, có trên 20 tỉnh đã ban hành văn bản chỉ đạo triển khai “Ngày Pháp luật” trong toàn tỉnh.
[66]. Ngoài ra, Bộ Tư pháp đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 15/2014/NĐ-CP ngày 27/02/2014 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hoà giải ở cơ sở; phối hợp với Bộ Tài chính ban hành Thông tư liên tịch số 100/2014/TTLT-BTC-BTP ngày 30/7/2014 quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở.
[67]. Báo cáo công tác thi hành án dân sự các năm 2010, 2011, 2012, 2013, 2014 của Tổng cục Thi hành án dân sự, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[68]. Nghị quyết số 36/2012/QH13 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại.
[69]. Thí điểm trên 4 lĩnh vực: (i) Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án hoặc cơ quan thi hành án dân sự; (ii) Lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; (iii) Xác minh điều kiện thi hành án theo yêu cầu của đương sự; (iv) Trực tiếp tổ chức thi hành án theo yêu cầu của đương sự đối với các bản án, quyết định của Tòa án.
[70]. Trong đó, tầm nhìn chung đến năm 2024, mọi người dân ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương đều được hưởng lợi từ hệ thống đăng ký và thống kê hộ tịch toàn diện và được tạo điều kiện để được công nhận quyền của họ và hệ thống này hỗ trợ cho công tác quản lý nhà nước, công tác chăm sóc y tế và phát triển...
[71]. Trong Chương trình hành động quốc gia sẽ xác định rõ vai trò, ý nghĩa của công tác đăng ký, thống kê hộ tịch; kế hoạch, lộ trình triển khai công tác đăng ký, thống kê hộ tịch ở Việt Nam giai đoạn 2015 - 2024 (với mục tiêu, nội dung, kết quả cụ thể); trách nhiệm của các bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các cấp trong công tác đăng ký và thống kê hộ tịch. Chương trình hành động quốc gia sẽ gắn kết chặt chẽ với Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt (Nguồn trích: http://www.moj.gov.vn/qtht/Pages/tai-lieu-chuan-bi-hoi-nghi.aspx?ItemID=11).
[72]. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 17/CT-TTg ngày 20/6/2014 về một số biện pháp chấn chỉnh tình trạng lạm dụng yêu cầu nộp bản sao có chứng thực đối với giấy tờ, văn bản khi thực hiện thủ tục hành chính.
[73]. Xem: Chiến lược phát triển lý lịch tư pháp đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, được phê duyệt theo Quyết định số 338/QĐ-TTg ngày 19/02/2013 của Thủ tướng Chính phủ.
[74]. Số liệu tổng hợp từ các báo cáo: Báo cáo số 300/BC-CP ngày 23/10/2012 của Chính phủ báo cáo về công tác bồi thường của Nhà nước năm 2012 trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIII, Báo cáo số 413/BC-CP ngày 17/10/2013 của Chính phủ báo cáo Quốc hội về công tác bồi thường nhà nước năm 2013, Báo cáo số 431/BC-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ báo cáo Quốc hội về công tác bồi thường của Nhà nước năm 2014 và Báo cáo số 54/BC-BTNN ngày 15/6/2015 của Cục Bồi thường nhà nước báo cáo kết quả công tác bồi thường nhà nước 06 tháng đầu năm 2015 và nhiệm vụ, giải pháp 6 tháng cuối năm 2015.
[75]. Xem: Báo cáo tổng kết công tác nhiệm kỳ I (2009 - 2014) và phương hướng công tác nhiệm kỳ II (2014 – 2019) của Liên đoàn Luật sư Việt Nam; Nguồn: liendoanluatsu.org.vn/news
[76]. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 46/SL về tổ chức các đoàn thể luật sư.
[77]. Xem: Báo cáo số 05/BC-BTP ngày 12/01/2015 của Bộ Tư pháp về tổng kết công tác tư pháp năm 2014 và phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu công tác tư pháp năm 2015, tài liệu lưu trữ của Văn phòng Bộ Tư pháp.
[78]. Nghị định số 86-CP ngày 19/12/1996 của Chính phủ ban hành Quy chế bán đấu giá tài sản; Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày 18/01/2005 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản; Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu giá tài sản (được sửa đổi, bổ sung năm 2014).
[79]. Điển hình như các đề tài khoa học cấp nhà nước “Nghiên cứu mô hình xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”; “Cơ chế kiểm soát hành vi vi phạm pháp luật ở nước ta hiện nay”...