Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 đã và đang tác động toàn diện, sâu rộng và nhanh chóng trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có giáo dục và đào tạo. Nhiều vấn đề đang đặt ra đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ như đổi mới quản trị nhà trường, đổi mới phương thức và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên. Những vấn đề như quản trị trường học, mô hình tổ chức lớp học, vai trò của thầy và trò sẽ thay đổi bởi sự xuất hiện của nhiều khái niệm mới như phòng học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo. Bối cảnh đó đòi hỏi công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có tầm nhìn chiến lược để chuẩn bị cho những thay đổi lớn, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Trước thực tế đó, bài viết chỉ ra những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành tư pháp, đồng thời bước đầu đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tư pháp.
1.Khái quát về cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và những thách thức pháp lý
Mỗi một cuộc cách mạng công nghiệp là một lần thay đổi căn bản. Sau mỗi cuộc cách mạng công nghiệp, xã hội biến chuyển sâu sắc trong đó có sự thay đổi lớn và rõ rệt trong cách mà hệ thống giáo dục vận hành.
Theo các chuyên gia, nhà khoa học, thế giới đã trải qua 3 cuộc cách mạng công nghiệp là cuộc cách mạng công nghiệp 1.0 gắn với quá trình cơ giới hóa sản xuất (mechanization) (diễn ra trong khoảng từ 1760 đến 1840 với sự khởi đầu bằng việc phát minh ra máy hơi nước), cách mạng công nghiệp 2.0 gắn liền với quá trình điện khí hóa và áp dụng dây chuyền sản xuất (diễn ra từ cuối thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20), cách mạng công nghiệp 3.0 gắn liền với việc điện tử hóa, số hóa quá trình sản xuất và phát minh ra Internet (diễn ra từ khoảng những năm 1960 đến thập niên đầu tiên của thế kỷ 21). Hiện nay, thế giới đang ở chặng đường đầu tiên bước vào cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư) với đặc trưng là tích hợp toàn bộ những thành tựu của 3 cuộc cách mạng trước đây nhưng nâng lên một bước phát triển mới về chất, gắn liền với các trụ cột về trí thông minh nhân tạo (artificial intelligence), người máy thông minh có thể tự học hỏi (learning machines), Internet vạn vật kết nối (Internet of things), công nghệ điện toán đám mây (cloud computing) và xử lý dữ liệu lớn (big data). Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 chính là sự lên ngôi của những công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, trạng thái số hóa và thông minh hóa các ứng dụng công nghệ thông tin
[1].
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với việc ứng dụng ngày càng phổ biến hơn những công nghệ mới như chuỗi khối, trí thông minh nhân tạo, internet vạn vật, robot, điện toán đám mây, dữ liệu lớn (big data) cũng như các công nghệ khác đang liên tục được phát minh ra, mà cốt lõi là quá trình chuyển đổi số, đang làm thay đổi mọi mặt của đời sống kinh tế-xã hội. Với Việt Nam, có tới hơn 64 triệu người sử dụng Internet cùng trên một trăm triệu thuê bao thiết bị di động
[2], các mô hình kinh tế chia sẻ và thương mại điện tử đang bước vào giai đoạn phát triển bùng nổ. Cách mạng công nghiệp 4.0, vì thế, về nhiều mặt không còn xa lạ với Việt Nam mà đang tác động trực diện tới sinh hoạt thường nhật của người dân. Sự ứng dụng rộng rãi những thành tựu từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, nhất là sự gia tăng của nền kinh tế số, kinh tế sáng tạo, kinh tế chia sẻ, sự thông minh hóa quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng sản phẩm, thông minh hóa quá trình quản trị xã hội, hình thành các mối quan hệ xã hội mới, những tương tác mới giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với người lao động và người tiêu dùng, giữa người dân và chính quyền đang thách thức những quan điểm pháp lý truyền thống, đòi hỏi hệ thống pháp luật cần phải có những điều chỉnh tương ứng.
Có rất nhiều những hiện tượng kinh tế - xã hội phát sinh từ cách mạng công nghiệp 4.0 minh chứng cho những tác động to lớn của cuộc cách mạng này đến hệ thống pháp luật. Chẳng hạn: Sự phát triển của trí tuệ nhân tạo, sử dụng người máy thông minh thế hệ mới thách thức quan niệm truyền thống về chủ thể của các quan hệ pháp luật cũng như các quy tắc về trách nhiệm pháp lý của các chủ thể có liên quan, các quy tắc điều chỉnh quan hệ lao động và việc giải quyết vấn đề an sinh xã hội. Sự lưu hành của các loại tiền ảo (Bitcoin, Litecoin…) thách thức quan niệm truyền thống về việc chỉ có các quốc gia có chủ quyền mới được phát hành tiền tệ. Sự hình thành của các nền kinh tế chia sẻ (Uber, Grab, AirBnB…) thách thức quan niệm về kinh doanh vận tải, kinh doanh dịch vụ lưu trú, về cách thức áp dụng pháp luật cạnh tranh... Thêm vào đó, chưa bao giờ vấn đề tội phạm công nghệ cao và việc bảo vệ bí mật đời tư, bảo vệ dữ liệu cá nhân, duy trì an ninh mạng lại trở nên cấp thiết như hiện nay. Hệ thống pháp luật hiện hành của các quốc gia, trên thực tế đều tỏ ra có những bất cập nhất định khi xử lý những vấn đề này. Đảm bảo sự thích ứng của pháp luật với những thay đổi từ quá trình tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang là yêu cầu cấp thiết mà nhà nước cần phải thực hiện để bảo vệ tốt hơn nữa quyền con người, quyền công dân, quyền của các chủ thể kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế và đảm bảo công bằng xã hội, bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia.
Theo nhận định bước đầu, có thể thấy, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tác động trực tiếp tới các lĩnh vực pháp luật quan trọng sau đây:
Một là, tác động trực tiếp vào pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: khi hợp đồng được giao kết nhiều hơn trên môi trường số hóa, các quy tắc truyền thống liên quan tới chứng cứ về giao kết hợp đồng, địa điểm giao kết hợp đồng, thẩm quyền tài phán liên quan tới giao kết hợp đồng có thể phải được tính toán lại. Pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng cũng cần được điều chỉnh lại để xử lý những trường hợp quy trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người máy (robot) gây ra trong quá trình vận hành (sẽ do người sở hữu người máy chịu hay người thiết kế ra phần mềm điều khiển hoạt động của người máy phải chịu).
Hai là, tác động trực tiếp tới pháp luật về sở hữu trí tuệ: ví dụ, pháp luật sẽ ứng xử thế nào với trong việc xác định quyền tác giả hoặc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đối với những tác phẩm do robot hoặc ứng dụng trí thông minh nhân tạo tạo nên.
Ba là, tác động trực tiếp tới lĩnh vực pháp luật về an sinh xã hội và pháp luật lao động: khi người máy được ứng dụng rộng rãi, hình thành nên các nhà máy sản xuất thông minh (smart factories), lượng công nhân lao động bị thất nghiệp nhiều (nhất là các loại lao động thủ công) thì ứng xử của nhà nước đối với vấn đề này ra sao? Việc ứng dụng người máy thay cho nhân viên đang làm việc có được xem là căn cứ hợp lý để chấm dứt hợp đồng lao động với người làm công bị thay thế không? Nếu chấm dứt thì trách nhiệm của chủ sử dụng lao động thế nào (nhất là trong việc đào tạo hoặc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp)?
Bốn là, tác động trực tiếp tới lĩnh vực pháp luật về bảo hộ dữ liệu cá nhân, bảo đảm quyền riêng tư của mỗi người dân trên môi trường số/môi trường Internet cũng như trong đời thực. Tới đây, yêu cầu bảo đảm an ninh, an toàn thông tin cá nhân sẽ ngày càng lớn hơn.
Năm là, tác động trực tiếp tới lĩnh vực pháp luật ngân hàng, tài chính, tiền tệ: việc phát minh ra các dạng tiền ảo được một bộ phận dân chúng sử dụng, đầu tư và đầu cơ đang đặt ra nhiều bài toán về chính sách tiền tệ và đảm bảo an ninh tiền tệ.
Sáu là, tác động trực tiếp tới lĩnh vực pháp luật hình sự và tố tụng hình sự: khi số tội phạm thực hiện trên môi trường số càng lớn, thách thức đặt ra đối với pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự cũng rất lớn.
Bảy là, tác động trực tiếp tới lĩnh vực quản trị công: xu hướng xây dựng Chính phủ điện tử (e-government), chính phủ thông minh (smart-government) là tất yếu để đảm bảo chính phủ thích ứng với một xã hội đang ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu của trí thông minh nhân tạo, tự động hóa, số hóa để có thể nhận diện chính xác hơn vấn đề cần xử lý và phản ứng chính sách kịp thời, linh hoạt hơn. Tương tác giữa chính quyền với người dân ngày càng trực diện hơn và tăng tính dân chủ, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ở cấp chính quyền địa phương, nhất là chính quyền các thành phố, cần nhận diện xu hướng xây dựng thành phố thông minh để có cơ chế quản trị thành phố thông minh.
Tám là, với một đất nước mới tiệm cận với nền kinh tế thế giới và có trình độ phát triển kinh tế cũng như khoa học kỹ thuật ở mức trung bình thấp như Việt Nam thì những thách thức mà cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mang lại còn lớn hơn rất nhiều, ví dụ: nguồn lao động trẻ dồi dào vẫn được coi là một lợi thế của Việt Nam, tuy nhiên cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 có thể sẽ biến nó thành bất lợi khi gây ra tình trạng dư thừa lao động, tạo ra nhiều hệ luỵ trong các khía cạnh của đời sống xã hội, đòi hỏi chính sách lao động và an sinh xã hội phù hợp. Sự phát triển thương mại điện tử cũng đe dọa đến sự phát triển của các ngành công nghiệp nội địa, đòi hỏi có những biện pháp tích cực để thích ứng…
[3]
Trong bối cảnh như trên, Việt Nam đang nỗ lực tìm kiếm những cách thức ứng xử phù hợp về mặt pháp luật để giải quyết các vấn đề đã và sẽ phát sinh, nhằm tận dụng các cơ hội to lớn mà cuộc cách mạng này mang lại và hạn chế những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế- xã hội. Ngày 04/05/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị 16/CT-TTg về việc “tăng cường năng lực tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”. Chỉ thị này nêu rõ: “để chủ động nắm bắt cơ hội, đưa ra các giải pháp thiết thực tận dụng tối đa các lợi thế, đồng thời giảm thiểu những tác động tiêu cực của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đối với Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan Trung ương, Chủ tịch UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong thời gian từ nay đến năm 2020 tập trung chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp, nhiệm vụ […]”. Các giải pháp, nhiệm vụ được chú trọng nêu ra trong Chỉ thị đó là: xây dựng chính phủ điện tử, đơn giản hóa và hiện đại hoá thủ tục hành chính, chuyển đổi số hướng tới nền quản trị thông minh, phát triển nông nghiệp thông minh, du lịch thông minh, đô thị thông minh, thúc đẩy hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia, thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ…
Việc thực hiện những mục tiêu nêu trên đòi hỏi một hệ thống pháp luật phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và ứng dụng các thành tựu của cách mạng công nghiệp 4.0, từ đó thúc đẩy phát triển kinh tế, đồng thời bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ quyền con người, tăng cường hiệu quả của nhà nước pháp quyền. Việt Nam đang ở thời điểm chín muồi để có những phản ứng chính sách phù hợp với tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
Có thể nói, đây đều là những bài toán lớn và khó, đòi hỏi trí tuệ, tâm huyết và sự chung tay của các Ban, Bộ, Ngành, chính quyền địa phương, cộng đồng doanh nghiệp, người dân và các chuyên gia, nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn để đẩy mạnh công tác xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật đáp ứng yêu cầu của cuộc CMCN 4.0, đáp ứng yêu cầu phát triển của người dân, doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp công nghệ và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Ngày 30/9/2019, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia tham gia cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Các văn bản về chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước trên đây chính là cơ sở để tiến hành đổi mới toàn diện và triệt để công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực ngành tư pháp nói riêng.
2. Tác động của cuộc CMCN 4.0 đến nghề luật
2.1. Tác động đến đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng và thực thi pháp luật trong các cơ quan nhà nước
Một là, tư duy làm chính sách, pháp luật trong Cách mạng công nghiệp 4.0 cũng cần vượt ra ngoài tư duy truyền thống.
Muốn thúc đẩy đổi mới sáng tạo thì bản thân chính sách, cơ chế cũng phải thoáng, mở và sáng tạo. Cần ủng hộ về nguyên tắc việc triển khai các mô hình kinh doanh mới, không vì lý do không quản lý được về công nghệ mà cản trở việc ứng dụng công nghệ mới mà phải kịp thời nâng cao năng lực quản lý, theo kịp với những biến chuyển rất nhanh của tình hình mới
[4].
Với những tác động khó lường của việc ứng dụng các công nghệ mới như chuỗi khối, dữ liệu lớn, kết nối vạn vật, trí thông minh nhân tạo, thực tại ảo, Việt Nam cần thiết kế những khung khổ pháp lý mang tính chất thử nghiệm trong phạm vi hạn chế (sandbox) để vừa tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo nhưng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước vì lợi ích chung của cộng đồng. Ở đây, chúng ta cần thay đổi mạnh mẽ cả về tư duy pháp lý và công nghệ lập pháp, từ chỗ thụ động, “chạy theo” sự việc, hiện tượng xã hội và quan hệ xã hội sang chủ động, đón đầu và định hướng cho quan hệ xã hội. Đồng thời, cơ quan thực thi pháp luật cũng phải đổi mới, phải có đủ năng lực (cả về biện pháp kỹ thuật, biện pháp quản lý và công cụ pháp lý) để có thể điều hành, kiểm soát các quan hệ xã hội này, đặc biệt các giao dịch dân sự, các giao dịch thương mại trên môi trường ảo, các giao dịch “phi biên giới”, thậm chí “phi chủ thể” v.v.
Hai là, cần đẩy nhanh tốc độ thiết kế và thực thi hiệu quả các chính sách
Yêu cầu đặt ra là phải xây dựng được môi trường chính sách, pháp luật phù hợp để huy động nguồn lực tận dụng cơ hội đến từ CMCN 4.0. Sự chậm trễ trong xây dựng và thực thi chính sách đôi khi còn là rào cản, làm nhụt nhuệ khí đổi mới sáng tạo, làm nản tâm huyết cống hiến trí tuệ của lực lượng doanh nghiệp công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao, khiến Việt Nam không thể đột phá mà còn tụt lại phía sau. Rõ ràng, một trong những yêu cầu cấp bách trong bối cảnh CMCN 4.0 là xây dựng, đổi mới và hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật. Do đó, cán bộ tư pháp cần đẩy nhanh tốc độ thiết kế và thực thi hiệu quả các chính sách, quy định pháp luật để phát huy được năng lực sáng tạo, chủ động của người dân, doanh nghiệp và các chủ thể xã hội khác trong kinh tế số và xã hội số
. Đây chính là cơ hội lịch sử mà những người làm công tác pháp luật cần tích cực dấn thân[5].
CMCN 4.0 đã cho thấy hàng loạt các “lỗ hổng” pháp lý cần được lấp đầy như: Khung pháp lý số quốc gia, các luật về thương mại điện tử, an toàn thông tin, chủ quyền số, bảo vệ thông tin và dữ liệu cá nhân, sở hữu trí tuệ và các chính sách khuyến khích đầu tư, các cải cách về tư duy và thể chế,... Yêu cầu với hệ thống pháp luật là phải bảo đảm phát triển bền vững, an toàn, an ninh, chủ quyền quốc gia, lấy quyền và lợi ích công dân làm trọng tâm, thúc đẩy khoa học, công nghệ tiên tiến, khả năng đổi mới sáng tạo và xây dựng đội ngũ nhân lực chất lượng cao, đảm bảo quản lý nhà nước trên không gian mạng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan, trong đó có an toàn thông tin, an ninh mạng, dữ liệu cá nhân, huy động được nguồn lực đầu tư từ tất cả các thành phần kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế... Chính vì vậy,
việc thiết kế khung pháp lý, cơ chế và chính sách phải đồng bộ, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, với những tư duy mới, phù hợp với xu thế tiến bộ của thế giới. Điều này đòi hỏi
cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật ngoài am hiểu kiến thức pháp luật thì còn phải có trình độ ngoại ngữ để kịp thời nắm bắt xu hướng quốc tế, am hiểu kiến thức kinh tế để có những chính sách tốt,…
Trước mắt, Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng khung chính sách đối với các mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ cao, mô hình kinh tế chia sẻ, giao dịch, quản lý các tài sản kỹ thuật số hay tài sản mã hóa, các hình thức đầu tư mạo hiểm, các phương thức thanh toán mới... Chúng ta cần chú ý việc ứng dụng công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 liên quan trực tiếp đến quá trình hoạch định, xây dựng chính sách, pháp luật. Việc ứng dụng công nghệ mới sẽ góp phần tăng nhanh tốc độ phản ứng chính sách, kịp thời phát hiện những bất cập trong thi hành pháp luật. Điều này đòi hỏi
cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật phải sử dụng thành thạo các ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho công việc. Với những tác động khó lường của việc ứng dụng các công nghệ mới như blockchain, big data, IoT, AI, thực tại ảo, trong khi chờ các văn bản chính thức được ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung ở tầm Luật thì những cán bộ
làm công tác xây dựng pháp luật phải cần tham mưu để thiết kế những khung thể chế thử nghiệm có kiểm soát áp dụng cho một số ứng dụng công nghệ (sandbox)
[6] để vừa tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo nhưng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước vì lợi ích chung của cộng đồng.
Ba là, cần nghiêm túc và nhanh chóng nghiên cứu để có thể ứng dụng những thành tựu của Cách mạng công nghiệp 4.0 trong thực thi pháp luật.
Những công nghệ tiên tiến của Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể áp dụng được trong thực thi pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật, như ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật (có thể xây dựng các website trả lời trực tuyến, tự động những kiến thức pháp luật thông thường,…); giải quyết tranh chấp online,…; hoặc ứng dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật, theo dõi thi hành pháp luật để kịp thời ngăn ngừa, phát hiện và xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý Nhà nước, khắc phục hiện tượng “nhờn” luật còn khá phổ biến trên một số lĩnh vực đang gây bức xúc xã hội diễn ra.
2.2. Tác động của cuộc CMCN 4.0 đến phương thức hành nghề của một số chức danh tư pháp như: Thẩm phán, luật sư, điều tra viên, chấp hành viên, công chứng viên, trọng tài viên, hòa giải viên,…
Tác động rõ ràng nhất của CMCN 4.0 là trí tuệ nhân tạo và sự xuất hiện của robot có thể thay thế con người về khả năng tính toán, ghi nhớ, phân tích cùng hiệu suất công việc cao. Vì vậy một số công việc mà AI có thể làm thay con người trong một số hoạt động nghề nghiệp cụ thể thuộc lĩnh vực tư pháp, đưa ra các phán xử - tự xử lý thông tin và đưa ra phán quyết của mình.
Thế giới ngày càng trở nên phẳng hơn và công nghệ đang làm thay đổi mạnh mẽ hoạt động truyền thống của mọi ngành, lĩnh vực trong đời sống xã hội. Thế giới đã xuất hiện những hãng taxi không sở hữu một chiếc taxi nào hay công ty cho thuê khách sạn lớn nhất không có một khách sạn nào, các công ty cung cấp dịch vụ thanh toán khổng lồ mà không phải là ngân hàng… và dĩ nhiên, cũng sẽ xuất hiện
công ty tư vấn luật không có luật sư nào,
trung tâm giải quyết tranh chấp ngoài tòa án không có trọng tài viên/hòa giải viên.
CMCN 4.0 tạo ra những bước tiến mới trong thay đổi cách giao tiếp và xử lý nghiệp vụ thông qua tương tác và giao tiếp điện tử. Vai trò của công nghệ là yếu tố quan trọng, then chốt trong định hướng phát triển, mô hình trung tâm tư vấn pháp luật hoặc trung tâm giải quyết tranh chấp số hoạt động dựa trên nền tảng công nghệ thông qua các thiết bị số kết nối với các phần mềm máy tính trên môi trường mạng Internet.
Công chứng viên không cần phải kiểm tra, soi xét để xác định tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, mà chỉ cần thông qua bộ xử lý dữ liệu đã có thể kiểm tra được.
Luật sư trong một số vụ việc đơn giản, không cần phải nghiên cứu từng tình tiết của vụ án, tìm các điều luật liên quan để bào chữa cho thân chủ của mình mà chỉ cần đưa thông tin vụ án vào bộ xử lý dữ liệu để cho ra kết quả giải quyết. Vừa qua, 20 luật sư từ các hãng luật hàng đầu Hoa Kỳ đã bị robot đánh bại trong cuộc thi rà soát các lỗi của 5 hợp đồng về bảo mật thông tin. Trong khi các luật sư mất thời gian trung bình là 92 phút và độ chính xác là 84% thì robot chỉ mất 26 giây và độ chính xác là 94%
[7].
Tương tự,
Thẩm phán tham gia phiên tòa để phán xử vụ việc cũng dựa vào trí tuệ nhân tạo để phân tích vụ việc, thậm chí đối với những vụ việc đơn giản, dựa trên cơ sở dữ liệu án lệ sẵn có thì AI có thể giúp đưa ra phán quyết cuối cùng.
Hiện nay trên thế giới đã xuất hiện nhiều phương thức
giải quyết tranh chấp trực tuyến. Phổ biến nhất là tòa án trực tuyến hay được gọi là
tòa án ảo hoặc tòa án trên mạng, bao gồm các thủ tục tương tự như ở tòa án truyền thống.
Tại nhiều nước như Mỹ, Australia, Canada, Singapore, luật pháp cho phép các bên giải quyết vụ việc tranh chấp thông qua việc thực hiện thủ tục khởi kiện và tố tụng qua internet. So với tòa án truyền thống, thủ tục tòa án trực tuyến linh hoạt hơn, được thực hiện nhanh chóng nhờ áp dụng công nghệ thông tin. Ngoài ra, hòa giải và trọng tài trực tuyến cũng được sử dụng khá phổ biến.
Một thí dụ về
hòa giải trực tuyến là Internet Neutral, cho phép các bên tùy chọn trực tuyến, bao gồm email, tin nhắn tức thời, phòng trò chuyện và hội nghị trực tuyến. Internet Neutral sử dụng phần mềm hội nghị trực tuyến cho phép các hòa giải viên giao tiếp với các bên qua một kênh được chỉ định và truy cập bảo mật bằng mật khẩu.
Hoặc có thể
trọng tài trực tuyến tái tạo lại mô hình trọng tài truyền thống trong môi trường không gian mạng. Quá trình thông tin liên lạc, xem xét và quyết định của hội đồng trọng tài trực tuyến giống với trọng tài truyền thống, chỉ khác là nó dựa trên công nghệ thông tin.
[8]
3. Những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành tư pháp và một số đề xuất ban đầu
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra những biến chuyển mạnh mẽ trong đời sống kinh tế xã hội, làm nảy sinh những vấn đề mới về pháp lý. Trong bối cảnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành tư pháp chắc chắn cần phải thay đổi toàn diện, cả nội dung lẫn hình thức. CMCN 4.0 đưa đến cả c
ơ hội và thách thức đan xen, để không bị tụt hậu thì bản thân các trường phải định hướng rõ để đào tạo, mỗi trường phải xác định sứ mệnh của mình, đào tạo phục vụ phân khúc nào trong xã hội, xác định rõ nhu cầu đào tạo. Đồng thời, phải khai thác được thế mạnh, ưu điểm của những công cụ lĩnh vực số, chuyển hóa số để ứng dụng trong quá trình dạy và học hiệu quả hơn.
3.1. Những vẫn đề chung về công nghệ đào tạo, bồi dưỡng (phương pháp, kỹ năng, …)
Giáo viên là người kết nối
Học viên trong thế giới 4.0 đã đủ năng lực và phương tiện để tiếp nhận thông tin, có thể tự học, tự nghiên cứu và tham khảo từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt là từ Interne. Trong bối cảnh đó, giáo viên không phải là người duy nhất có được kiến thức và thông tin giá trị. Thay vào đó, họ là người giúp học trò có khả năng hiểu ý nghĩa của thông tin, phân biệt sự khác biệt giữa những gì quan trọng và không quan trọng. Trên hết, đó là khả năng kết hợp thông tin thành một bức tranh rộng lớn về thế giới. Giảng viên dựa trên nhu cầu học hỏi của học viên để gợi mở và định hướng nhiều hơn là truyền đạt kiến thức.
Tự học là yêu cầu bắt buộc: Xu hướng đào tạo trực tuyến - Lớp học ở mọi nơi, mọi lúc
Với internet, các lớp học trong thời 4.0 có thể diễn ra ở bất cứ đâu, thời điểm nào. Thay cho trường lớp mang tính vật lý với giảng đường, thư viện và thời khóa biểu cố định, các trường trực tuyến đang phát triển và trở thành làn sóng giáo dục mới. Trường trực tuyến có thể sử dụng công nghệ điện toán đám mây để phát triển các không gian học tập trên mạng. Tài liệu học tập, sách tham khảo đều lưu trữ trên mạng. Thông qua các thiết bị kết nối internet như smartphone, laptop... người học có thể tham gia vào các lớp học ảo bất cứ lúc nào.
Những học viên 4.0 vì thế không nhất thiết phải tập trung điểm danh tại các giảng đường. Họ có thể làm các công việc khác và tận dụng thời gian rảnh rỗi để tham gia học qua chiếc điện thoại của mình.
Trí tuệ nhân tạo sẽ giúp thông tin học tập được tổng hợp, phân tích và đưa ra các gợi ý hữu ích cho người học và người dạy.
3.2. Những vẫn đề đặc thù trong đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành tư pháp
CMCN 4.0 đã làm thay đổi bức tranh của thị trường lao động: Lao động giản đơn đã có robot đảm nhiệm, thị trường chủ yếu chỉ cần những việc đòi hỏi lao động sáng tạo ở trình độ cao. Ví dụ, trong lĩnh vực luật sư, tư vấn pháp lý thì những vụ việc tư vấn luật đơn giản sẽ có “luật sư AI”thực hiện, các luật sư sẽ chỉ làm những vụ việc phức tạp. Vậy trong thời gian tới, những công ty luật top 2, top 3 có tồn tại được không? Cạnh tranh trong hành nghề luật trong thời gian tới sẽ rất khốc liệt.
Cuộc cách mạng đã làm thay đổi mạnh mẽ nhu cầu về nguồn nhân lực, cơ cấu ngành nghề và các trình độ... CMCN 4.0 này đang làm giãn rộng khoảng cách giữa việc đào tạo của các trường đại học và những gì xã hội thực sự cần. Từ những phân tích tại mục 2 trên đây cho thấy, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực cho ngành tư pháp cũng cần kịp thời bắt kịp với những xu thế mới của phát triển công nghệ, bắt kịp với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, bắt kịp với các xu hướng pháp luật mới trên thế giới. Về cơ bản, nguồn nhân lực ngành tư pháp đang công tác trong các lĩnh vực xây dựng và thực thi pháp luật cần phải đáp ứng những yêu cầu về:
- Kiến thức pháp lý,
- Phải thay đổi về tư duy pháp lý,
- Có kiến thức kinh tế,
- Có kiến thức và kỹ năng công nghệ thông tin. đối với nhân lực ngành tư pháp: chưa bao giờ đội ngũ cán bộ tư pháp cần tăng cường chất lượng như hiện nay và cần được đào tạo bài bản, với các phương pháp hiện đại, sử dụng được các phần mềm, cơ sở dữ liệu hiện đại. Hiểu biết về những công nghệ mới và biết cách sử dụng những công nghệ mới có thể sẽ trở thành những tiền đề quan trọng đối với những người làm công tác tư pháp hiện nay.
3.3. Một số đề xuất ban đầu
-
Một là, các cơ sở đào tạo luật cần sớm ứng dụng CNTT trong công tác đào tạo, bồi dưỡng: Xây dựng và triển khai áp dụng “phòng học ảo”, kết hợp đào tạo trực tuyến với đào tạo theo phương pháp truyền thống, …
-
Hai là, với đội ngũ cán bộ hiện hành, đã tốt nghiệp đại học luật từ nhiều năm trước thì công tác bồi dưỡng cán bộ ngành Tư pháp cần phải xây dựng và thực hiện
kế hoạch bồi dưỡng để bù đắp những kiến thức còn thiếu hụt, đạt chuẩn kiến thức và kỹ năng hành nghề trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0.
Chuẩn kiến thức và kỹ năng hành nghề trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi cán bộ công tác trong các lĩnh vực xây dựng và thực thi pháp luật cần có là
Kiến thức pháp lý +K thức kinh tế + Tư duy pháp lý + Kiến thức và kỹ năng công nghệ thông tin.
- Ba là, tài liệu về đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành tư pháp cần xây dựng phải có một số nội dung liên quan đến
ứng dụng công nghệ trong chính quá trình xây dựng, hoàn thiện, tổ chức thực thi hệ thống pháp luật, trong phát hiện, xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp.
Chẳng hạn, sự phổ biến của công nghệ pháp lý mới (legal tech, law tech, regtech v.v.) trong thời gian gần đây cho thấy điều này. Việc Trung Quốc thiết lập 3 Tòa án Internet trong thời gian vừa rồi là ví dụ cụ thể. Ở Việt Nam, những khái niệm như “legal tech”, “law tech” hoặc “regtech” xem ra vẫn còn khá xa lạ. Vì vậy, cần đưa những kiến thức mới này vào trong tài liệu đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ ngành tư pháp.
- Bốn là, đẩy nhanh việc
ứng dụng trí thông minh nhân tạo trong hành nghề luật. Phương thức hành nghề thay đổi dẫn đến đào tạo nghề phải thay đổi theo. Cụ thể, phương thức hành nghề thay đổi như: Xét xử online; Tư vấn trực tuyến sử dụng AI; Giải quyết tranh chấp theo phương thức trọng tài, hòa giải online,… Điều này dẫn đến trong chương trình đào tạo/bồi dưỡng dành cho luật sư, thẩm phán, trọng tài viên, hòa giải viên, … cần phải có kiến thức/nội dung và kỹ năng về giải quyết tranh chấp online, nội dung về chứng cứ số, hợp đồng thông minh,... và đặc biệt là có nội dung giới thiệu về AI có thể thay thế hành nghề luật như thế nào.
Bên cạnh đó, việc đào tạo/bồi dưỡng dành cho luật sư, thẩm phán, trọng tài viên, hòa giải viên… cần phải cung cấp cho người học tư duy pháp lý trong kỷ nguyên số, thậm chí cần có tư duy vượt ra ngoài tư duy truyền thống.
- Năm là, đào tạo lại đội ngũ giảng viên luật.
Để có thể đào tạo cho cán bộ ngành tư pháp kiến thức về “legal tech”, “law tech” hoặc “regtech” thì trước hết đội ngũ giảng viên luật phải được cử ra nước ngoài để học về các công nghệ này, hoặc các trường mời các chuyên gia quốc tế đến Việt Nam để đào tạo cho đội ngũ giảng viên, cập nhật kiến thức và công nghệ mới.
- Sáu là, kết nối và hợp tác trong nước và quốc tế trong đào tạo nghề luật để có thể kịp thời nắm bắt tri thức khoa học pháp lý mới trên thế giới.
TS. Chu Thị Hoa, Phó Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
[2] Báo cáo Digital Marketing Việt Nam 2019.
[3] Hội thảo quốc gia
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ Tư pháp, 2019.
[4] Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ tại Hội thảo quốc gia
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 24/6/ 2019 tại Hà Nội.
[5] Phát biểu của Thủ tướng Chính phủ tại Hội thảo quốc gia
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam do Bộ Tư pháp tổ chức ngày 24/6/ 2019 tại Hà Nội.
[6] Chu Thị Hoa,
Kỷ yếu Hội thảo quốc gia Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, Bộ Tư pháp, Hà Nội, 2019