Hợp đồng theo mẫu là một hiện tượng kinh tế pháp lý tồn tại phổ biến trong nền kinh tế phát triển bao gồm những điều khoản đã được soạn sẵn, được sử dụng lặp đi lặp lại và bên bị áp dụng không được thương lượng, đàm phán, cho thấy sự hạn chế của nguyên tắc tự do khế ước trong hợp đồng. Tuy nhiên, sự tồn tại của hợp đồng theo mẫu là sự tồn tại tất yếu, khách quan trong nền kinh tế phát triển mà xã hội buộc phải chấp nhận. Sự ra đời của hợp đồng theo mẫu giúp gia tăng các hiệu quả về mặt kinh tế, giảm thiểu chi phí giao dịch một cách đáng kể, giảm thiểu chi phí về thời gian và công sức của người mua và người cung cấp hàng hóa dịch vụ. Hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền được sử dụng trong giao dịch giữa hai chủ thể: tổ chức cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền và người sử dụng. Giống như hợp đồng theo mẫu nói chung thì hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền cũng có những mặt gây bất lợi cho người tiêu dùng cần được pháp luật bảo vệ, như: Hợp đồng phụ thuộc vào ý chí của các bên kinh doanh dịch vụ truyền hình trả tiền, người tiêu dùng không có khả năng đàm phán thay đổi nội dung hợp đồng… Chính vì vậy, pháp luật cũng đưa ra những điều kiện, điều khoản nhằm kiểm soát hợp đồng này. Nhằm mục đích bảo vệ nguyên tắc tự do khế ước và nguyên tắc công bằng trong giao dịch hợp đồng.
1
. Nội dung cơ bản về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trước khi có sự xuất hiện của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, việc kiểm soát hợp đồng theo mẫu được đề cập khá mờ nhạt ở luật thực định và nghiên cứu khoa học. Một thời gian dài, việc nghiên cứu các vấn đề pháp lý về kiểm soát hợp đồng theo mẫu cũng không được xuất hiện nhiều trong khoa học pháp lý. Pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu thời kỳ này chủ yếu được biết đến là chế định hợp đồng theo mẫu trong BLDS 1995 và BLDS 2005, tuy nhiên về cơ bản BLDS 1995 và BLDS 2005 chưa tạo ra được cơ chế pháp lý đủ mạnh để bảo vệ bên yếu thế trong các hợp đồng theo mẫu. Nguyên nhân của tình trạng này được biết đến là do sự xuất hiện khá muộn của các hợp đồng theo mẫu trong bối cảnh Việt Nam xây dựng nền kinh tế thị trường và sản xuất công nghiệp chậm hơn so với các nước phát triển khác.
Đến thời điểm hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu điều chỉnh việc kiểm soát hợp đồng theo mẫu tăng cao chính vì vậy cũng đã có khá nhiều văn bản pháp luật được ban hành để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung và trong lĩnh vực giao kết, thực hiện hợp đồng theo mẫu nói riêng như: Bộ luật Dân sự năm 2015; Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và những văn bản dưới luật khác. Mặc dù vậy, hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành lại thiếu vắng những quy định cụ thể, chi tiết để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu đối với từng lĩnh vực cụ thể . Vì vậy, để tiếp cận với hệ thống pháp luật kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền, chúng ta xem xét đến những quy định pháp luật liên quan đến kiểm soát hợp đồng theo mẫu nói chung và những quy định điều chỉnh lĩnh vực truyền hình trả tiền ở Việt Nam.
Các cơ chế kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền bao gồm:
Thứ nhất, nhà làm luật ghi nhận những điều khoản của hợp đồng theo mẫu không công bằng, không trung thực sẽ không có giá trị pháp lý, không có hiệu lực. Nội dung này trước đây được quy định tại Điều 407 BLDS 2005 và được kế thừa lại tại Điều 405 BLDS 2015. Theo đó, có thể hiểu một điều khoản sẽ được xem là không công bằng nếu vi phạm bấy kỳ yếu tố nào liệt kê dưới đây:
- Bất lợi một cách vô lý cho khách hàng;
- Gây khó khăn cho khách hàng trong việc xem trước hợp đồng để hiểu đúng, hiểu rõ về các đặc điểm, đặc tính của giao kết;
- Hạn chế các quyền cơ bản của khách hàng đến mức độ mục tiêu của hợp đồng không đạt được;
- Hoặc điều khoản hợp đồng quy định ngăn cản khách hàng nộp đơn khởi kiện vụ tranh chấp ra tòa án, ép buộc khách hàng thỏa thuận lựa chọn cơ quan xét xử vụ kiện hoặc buộc khách hàng có nghĩa vụ cung cấp bằng chứng nếu không có lý do chính đáng.
Nhìn chung, đây là những điều khoản loại trừ trách nhiệm của thương nhân kinh doanh dịch vụ truyền hình trả tiền và hạn chế quyền lợi của người tiêu dùng. Đặc biệt lưu ý là những điều khoản này không có ngoại trừ, tức là kể cả khi người sử dụng dịch vụ truyền hình trả tiền đã đọc, hiểu và chấp thuận ký kết hợp đồng thì các điều khoản này vẫn có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Thứ hai, điều kiện của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền, cụ thể là điều kiện để được cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền của bên cung cấp dịch vụ. Như đã trình bày tại mục 1.1.4. Khái niệm, đặc trưng cơ bản của hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền thì một doanh nghiệp để đáp ứng đủ điều kiện cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền thì doanh nghiệp đó phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép kinh doanh dịch vụ truyền hình trả tiền, sử dụng cơ sở hạ tầng của mình để truyền tải nội dung, chương trình đến người sử dụng. Truyền hình trả tiền là một ngành nghề kinh doanh có điều kiện, pháp luật quy định về điều kiện để được cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền một phần tạo cơ sở đảm bảo khả năng cung cấp dịch vụ của bên cung cấp dịch vụ, một phần giúp bảo vệ quyền lợi của người sử dụng, tạo cơ hội tiếp cận dịch vụ có chất lượng, phù hợp với nguồn lực tài chính mà người sử dụng bỏ ra.
Thứ ba, quy định rõ ràng, cụ thể về nguyên tắc xác định các điều khoản mẫu vô hiệu trong hợp đồng theo mẫu. Theo đó, bất kỳ một điều khoản hợp đồng nào quy định về nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sẽ không có hiệu lực, không có giá trị pháp lý nếu phạm phải bất kỳ yếu tố nào dưới đây:
- Điều khoản cho phép miễn trách nhiệm pháp lý cho doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đối với các lỗi vô ý và lỗi nghiêm trọng;
- Điều khoản quy định giới hạn phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại mà không có lý do chính đáng của doanh nghiệp, hoặc chuyển trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp sang một bên thứ ba hoặc chuyển rủi ro sang khách hàng;
- Điều khoản giới hạn phạm vi trách nhiệm đảm bảo an toàn của doanh nghiệp hoặc hạn chế quyền lợi của khách hàng với danh nghĩa đảm bảo an toàn bằng cách áp đặt những điều kiện khắc nghiệt quá mức hoặc loại bỏ, hạn chế trách nhiệm của Doanh nghiệp trong việc đảm bảo chất lượng hoặc những vấn đề liên quan đến việc cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền.
Bên cạnh đó, bất kỳ một điều khoản hợp đồng nào quy định áp đặt khách hàng phải gánh chịu những hậu quả thiệt hại quá mức thích đáng như phải trả chi phí thanh toán trễ hạn đều không có hiệu lực và giá trị pháp lý.
Thứ tư, quy định sự can thiệp của Nhà nước nhằm chống lại nguy cơ hình thành và áp dụng những điều khoản hợp đồng mẫu trái pháp luật, được thể hiện ở những quy định về cơ chế đăng ký hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền. Theo đó pháp luật trao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền thông qua việc tiến hành những biện pháp hành chính thực hiện những hoạt động giám sát chặt chẽ bằng việc phê chuẩn, chấp thuận hợp đồng theo mẫu trong một số lĩnh vực cụ thể trong đó có lĩnh vực truyền hình trả tiền. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình, các cơ quan nhà nước thực hiện những hoạt động nhằm mục đích kiểm soát hợp đồng theo mẫu bao gồm các hoạt động đăng ký hợp đồng, đăng ký lại hợp đồng, xử lý các hành vi vi phạm hành chính, các hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng.
Thứ năm, quy định chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng theo mẫu nói chung và hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền nói riêng. Một trong những nội dung quan trọng của cơ chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là xây dựng hệ thống các chế tài áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh có hành vi xâm phạm quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng. Ngoài những quy định về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền, pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần có hệ thống các chế tài xử lý vi phạm nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng nói chung, thiết lập một trật tự xã hội trong cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền nói riêng.
2. Pháp luật của một số nước trên thế giới về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền
Pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền chịu sự điều chỉnh bởi cả hệ thống pháp luật kiểm soát hợp đồng theo mẫu nói chung và pháp luật kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền nói riêng. Ở các quốc gia có hệ thống pháp luật tiên tiến, đồng bộ, vấn đề này được điều chỉnh rất chặt chẽ.
Ngoài luật khung về người tiêu dùng với những quy định rõ ràng và linh hoạt từ chính sách đến các vấn đề liên quan tới người tiêu dùng, Hàn Quốc còn có một luật riêng quy định về Hợp đồng theo mẫu và Nghị định quy định chi tiết vấn đề này.
Luật Hợp đồng theo mẫu của Hàn Quốc chỉ rõ: Mục đích của Luật này là để bảo vệ người tiêu dùng bằng cách ngăn chặn các tổ chức, cá nhân kinh doanh sử dụng hợp đồng theo mẫu lạm dụng các ưu thế của mình áp đặt các điều khoản hợp đồng không công bằng đối với người tiêu dùng, hạn chế việc sử dụng các điều khoản hợp đồng không công bằng trong giao dịch thương mại nhằm thiết lập trật tự công bằng, lành mạnh trong thương mại và đảm bảo sự cân bằng giữa các bên trong giao dịch
Cũng như pháp luật Việt Nam, Luật hợp đồng theo mẫu của Hàn Quốc khẳng định hợp đồng theo mẫu phải được xây dựng trên nguyên tắc thiện chí và không được giải thích khác đối với từng người tiêu dùng khác nhau và trong trường hợp các điều khoản của hợp đồng không rõ ràng thì sẽ giải thích theo hướng có lợi cho người tiêu dùng.
Luật đưa ra những quy định rất cụ thể, chi tiết về các điều khoản không công bằng trong hợp đồng theo mẫu. Theo đó, những điều khoản miễn trách nhiệm, những điều khoản định sẵn khoản bồi thường thiệt hại quá lớn đối với người tiêu dùng, những điều khoản hạn chế quyền của người tiêu dùng hoặc đưa ra những quy định cấm đối với người tiêu dùng… đều bị coi là không công bằng và sẽ bị tuyên bố vô hiệu.
Đồng thời, Luật về hợp đồng theo mẫu của Hàn Quốc còn quy định rất đầy đủ về các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng theo mẫu. Theo đó, bất kỳ tổ chức, cá nhân nào vi phạm quy định của Luật đều có thể bị xử phạt tiền và thậm chí là phạt tù. Các mức phạt đưa ra cũng rất nghiêm khắc: phạt tù đến hai năm hoặc bị phạt tiền tới 100.000.000 Won. Thậm chí, doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm liên đới cho những hành vi vi phạm do người đại diện hay cán bộ, nhân viên của mình gây ra
Riêng đối với lĩnh vực truyền hình trả tiền, theo quy định tại Luật Phát thanh truyền hình của Hàn Quốc ban hành lần đầu tiên vào năm 1987, được sửa đổi bổ sung 29 lần có những điều khoản quy định riêng liên quan đến việc kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền. Theo đó, Điều 77 liên quan đến việc phê duyệt điều khoản chuẩn trong hợp đồng mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền có quy định:
Doanh nghiệp phát thanh truyền hình, doanh nghiệp phát thanh truyền hình CATV reply, doanh nghiệp phát thanh truyền hình CATV âm nhạc có ý định tiến hành truyền hình trả tiền sẽ đặt ra các điều kiện, điều khoản hợp đồng mẫu, điều kiện liên quan đến phí và các điều kiện khác, phải báo cáo Ủy ban truyền thông Hàn Quốc và phải được sự chấp thuận của Ủy ban truyền thông Hàn Quốc cho phép được sử dụng những điều khoản đó. Trong trường hợp sửa đổi bất kỳ điều khoản nào cũng phải báo cáo và được sự đồng ý của Ủy ban truyền thông Hàn Quốc
Trong trường hợp nhận thấy các điều khoản hợp đồng mẫu, điều kiện là không hợp lý và cản trở lợi ích của người xem, Ủy ban truyền thông Hàn Quốc sẽ yêu cầu Doanh nghiệp phát thanh truyền hình, doanh nghiệp phát thanh truyền hình CATV reply, doanh nghiệp phát thanh truyền hình CATV âm nhạc có ý định tiến hành truyền hình trả tiền sửa đổi những điều khoản và điều kiện đó trong một khoảng thời gian xác định.
Bên cạnh đó, cũng tại Đạo luật này, Điều 108, khoản 12 có quy định nếu Doanh nghiệp phát thanh truyền hình, doanh nghiệp phát thanh truyền hình CATV reply, doanh nghiệp phát thanh truyền hình CATV âm nhạc tiến hành truyền hình trả tiền ngang nhiên sửa đổi các điều khoản hợp đồng mẫu, điều kiện cung cấp dịch vụ mà không được sự cho phép của Ủy ban truyền thông Hàn Quốc thì sẽ bị phạt tối ta là 30 triệu won.
Có thể thấy, Hàn Quốc là quốc gia có khung pháp lý vững chắc và toàn vẹn về hợp đồng mẫu nói riêng và bảo vệ người tiêu dùng nói chung. Trên cơ sở các quy định pháp luật này, người tiêu dùng có một sự bảo đảm để tránh bị lép vế và bị lợi dụng trong các quan hệ giao dịch với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền.
Đức là nước điển hình ban hành văn bản luật riêng nhằm kiểm soát những điều kiện giao dịch chung và những điều khoản không công bằng đối với người tiêu dùng (viết tắt là ABGs) năm 1976, sửa đổi, bổ sung năm 1996) với 32 điều khoản. Từ năm 2002, đạo luật ABGs được sáp nhập vào chung với Bộ luật Dân sự Đức, về cơ bản Bộ luật dân sự Đức cũng sử dụng toàn bộ nội dung của đạo luật ABGs, làm thành một chương riêng trong Bộ luật dân sự Đức, trong đó có bổ sung một số các quy định thể hiện nổi bật hơn tinh thần bảo vệ người tiêu dùng theo chủ trương nội luật hóa Chỉ thị Ủy ban châu Âu số 93/13/EEC ngày 05/4/1993 về những điều khoản không công bằng trong hợp đồng với người tiêu dùng [14, tr.71].
Việc kiểm soát các điều khoản hợp đồng không công bằng ở CHLB Đức được thiết kế theo hướng quy định điều khoản mang tính nguyên tắc chung, theo đó các điều khoản hợp đồng không công bằng sẽ vô hiệu khi đi ngược lại nguyên tắc thiện chí, tạo ra sự bất lợi một cách bất hợp lý cho bên còn lại của hợp đồng. Bên cạnh đó BLDS Đức còn ban hành danh mục những điều khoản giả định là có dấu hiệu bất công bằng (điều 208 BLDS Đức) và danh mục điều khoản bị coi là bất công bằng (Điều 309 BLDS Đức). Bên cạnh những điều khoản quy định mang tính nguyên tắc chung này, CHLB Đức còn có những điều khoản quy định mang tính bảo vệ riêng đối với người tiêu dùng ở những hợp đồng đặc thù trong lĩnh vực tiêu dùng như hợp đồng giao kết từ xa và hợp đồng bán hàng tận cửa trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Cơ chế bảo vệ người tiêu dùng ở đây là cho phép người tiêu dùng được rút lui khỏi hợp đồng khi có thông báo trước và quy định chặt chẽ nghĩa vụ cung cấp thông tin cụ thể đối với hàng hóa khi giao dịch mua bán qua mạng.
Đối với lĩnh vực truyền hình trả tiền, CHLB Đức có hiệp ước giữa 16 nước thành viên Liên bang được gọi là Hiệp ước nhà nước về phát thanh, truyền hình (được gọi tắt là RStV) [24]. Đây là một thỏa thuận của tất cả các chính quyền tiểu bang và được phê duyệt bởi nghị viện nhà nước tạo khuôn khổ chung cho việc phát sóng truyền hình, truyền thanh trong cả nước một cách thống nhất. Hiệp ước liên quốc gia này phục vụ để hài hòa pháp luật của Nhà nước về tất cả các khía cạnh của phát thanh truyền hình. do đó nó phục vụ nhiều mục đích tương tự như pháp luật của Liên minh châu Âu hài hòa luật pháp của các quốc gia thành viên. Nội dung của hiệp ước này bao gồm 3 nội dung chính: Thứ nhất là phần định nghĩa các thuật ngữ sử dụng trong hiệp ước, thứ hai là liên quan đến công ty đại chúng và thứ ba là liên quan đến đài truyền hình tư nhân. Cũng tương tự như Pháp luật Việt Nam, các đài truyền hình tư nhân ở Đức muốn thực hiện hoạt động truyền hình trả tiền cũng phải được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép phát sóng. Hiệp ước nhà nước về phát thanh, truyền hình quy định những điều kiện cho phép đài truyền hình tư nhân phát sóng để cạnh tranh với đài truyền hình công cộng. Tuy nhiên, hiện nay dịch vụ truyền hình trả tiền ở Đức cũng không trở nên phổ biến và thành công vì các đài phát thanh truyền hình công công ở Đức cung cấp nhiều kênh kỹ thuật số hiện đại cho người sử dụng.
- Pháp luật Canada (Bang Quebec)
Trên thực tế, pháp luật Canada xác định loại hợp đồng theo mẫu là hợp đồng tiêu dùng và mỗi một tỉnh bang tại Canada đều có các biện pháp pháp lý riêng nhằm bảo vệ người tiêu dùng khỏi các điều khoản không công bằng. Tại bang Quebec, vấn đề hợp đồng tiêu dùng được điều chỉnh chủ yếu bởi Luật bảo vệ người tiêu dùng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Luật Bảo vệ Người tiêu dùng của Quebec cũng như bản hướng dẫn thực thi Luật đã quy định một cách chi tiết các vấn đề liên quan đến hợp đồng theo mẫu/hợp đồng tiêu dùng. Quan điểm của nhà làm Luật Quebec là bảo vệ Người tiêu dùng thông qua chế định hợp đồng. Do đó, các chế định trong Luật Bảo vệ Người tiêu dùng của Quebec đều liên quan đến chế định hợp đồng. Ngay tại Điều 8, Luật khẳng định: “Người tiêu dùng có thể đề nghị tuyên bố vô hiệu một hợp đồng hoặc đề nghị giảm nghĩa vụ của mình nếu trong hợp đồng thể hiện rõ sự không cân xứng giữa phần nghĩa vụ tương ứng của các bên mà phần lớn thuộc về Người tiêu dùng hoặc nếu nghĩa vụ của Người tiêu dùng là quá nhiều, không hợp lý”. Điều này có nghĩa là một hợp đồng có thể bị tuyên là vô hiệu nếu nó chứa đựng những điều khoản gây bất lợi cho Người tiêu dùng về phần nghĩa vụ mà Người tiêu dùng phải thực hiện. Luật đưa ra những quy định mang tính nguyên tắc để xác định tính hiệu lực của các điều khoản trong hợp đồng theo mẫu, đồng thời, quy định rất chi tiết về nhiều vấn đề liên quan như ngôn ngữ hợp đồng, địa điểm giao kết hợp đồng, hình thức hợp đồng, trình tự ký kết hợp đồng… Có thể khẳng định Luật Bảo vệ quyền lợi Người tiêu dùng của Quebec là một trong những đạo luật thể hiện cách tiếp cận bảo vệ Người tiêu dùng thông qua chế định hợp đồng một cách rõ ràng nhất và toàn diện nhất.
3. Đánh giá về thực trạng thực thi pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
3.1. Những mặt tích cực
- Về phía các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Tính đến hết năm 2015 cả nước ta có 31 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền với 73 kênh truyền hình. Số lượng kênh truyền hình nước ngoài được cấp phép biên tập trên hệ thống truyền hình trả tiền là 40 kênh
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, mức sống của người dân cũng tăng lên đáng kể, nhất là mức sống và thu nhập của người dân thành thị. Nhu cầu giải trí của người dân cũng tăng lên nhanh chóng. Trong đó truyền hình trả tiền trở thành một ngành kinh doanh có tốc độ nhanh nhất hiện nay. Nếu như tháng 9/2002, lượng thuê bao truyền hình trả tiền mới chỉ đạt hơn 25.000 thuê bao thì đến năm 2011 con số này đã tăng lên tới 2,5 triệu thuê bao. Lượng thuê bao tăng gấp gần 100 lần trong 10 năm, chưa có nước nào phát triển nhanh đến vậy. Lượng thuê bao hầu hết ở khu vực thành thị
Bảng 3.1: Kết quả phát triển thuê bao PayTV tại Việt Nam
Năm |
2008 |
2009 |
2010 |
2011 |
Analog |
700.000 |
1.200.000 |
1.600.000 |
2.000.000 |
DTH |
100.000 |
150.000 |
200.000 |
250.000 |
MMDS |
800 |
600 |
500 |
400 |
My TV |
50.000 |
110.000 |
200.000 |
300.000 |
IPTV |
2.000 |
4.000 |
7000 |
10.000 |
Hiện nay, số lượng thuê bao truyền hình trả tiền khoảng 9,9 triệu, trong đó số lượng thuê bao truyền hình cáp chiếm 80,8%. Tổng doanh thu dịch vụ truyền hình trả tiền là 9.624 tỷ đồng, thu hút khoảng 9.500 lao động
Trong số các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đó về cơ bản các doanh nghiệp đã có trách nhiệm tuân thủ đúng các quy định của Luật, hướng tới việc tôn trọng quyền và lợi ích của người tiêu dùng. Theo đó, đã có các doanh nghiệp thực hiện việc đăng ký hợp đồng theo mẫu, thông qua quá trình đăng ký đã phần nào loại bỏ các điều khoản gây bất lợi cho người tiêu dùng trong quá trình xây dựng và thực hiện hợp đồng theo mẫu
Hiện nay cả nước đã có 10 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ thực hiện việc đăng ký hợp đồng theo mẫu tại Cục Quản lý cạnh tranh. Bên cạnh đó, trong quá trình soạn thảo hợp đồng, các doanh nghiệp đã tham khảo những nội dung quy định về quyền nghĩa vụ của các bên được quy định chi tiết tại Quy chế Quản lý hoạt động truyền hình trả tiền (
Ban hành kèm theo Quyết định số 20/2011/QĐ-TTg ngày 24 tháng 3 năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ) và sau khi quy chế này hết hiệu lực thì các doanh nghiệp bám sát vào các quy định tại Điều 10 và Điều 11 Nghị định số 06/2016 NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 18 tháng 01 năm 2016 quy định về việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình trong quá trình xây dựng hợp đồng theo mẫu của mình.
- Về phía người sử dụng dịch vụ:
Trong thời gian qua, chất lượng sử dụng dịch vụ ngày càng tăng cao. Có thể thấy, với tốc độ tăng trưởng thuê bao gần 100% mỗi năm, thị trường Truyền hình trả tiền VN được coi là có tiềm năng nhất khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Với hơn 86 triệu người, khoảng 20 triệu hộ gia đình, số thuê bao truyền hình trả tiền khoảng gần 2,5 triệu hộ gia đình chỉ chiếm trên 10% tiềm năng sẵn có. Với dẫn chứng trên thì thị trường VN còn đầy tiềm năng, mức độ sẵn sàng của hộ gia đình được đánh giá là khả quan cho truyền hình trả tiền khi chiếm từ 30%-40% số hộ [9]. Nắm bắt được xu thế này, các nhà cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền sẽ đua nhau cho ra đời một cuộc cách mạng về công nghệ. Đưa đến cho người sử dụng chất lượng cung cấp dịch vụ tốt nhất. Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nào cũng sẽ có “chiêu” riêng của mình. Điều này mang lại cho khách hàng nhiều sự lựa chọn và khách hàng sẽ được hưởng lợi từ những cuộc cách mạng này.
Trong thời gian tới theo ông Đỗ Quý Doãn, nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông, tới đây, Bộ Thông tin và truyền thông sẽ hoàn thiện quy hoạch truyền hình, thống nhất áp dụng các yêu cầu về kỹ thuật công nghệ để đảm bảo không có những công nghệ cũ lạc hậu được nhập vào VN, nâng cao chất lượng tín hiệu cũng như nội dung chương trình. Đây cũng là cơ sở pháp lý để người tiêu dùng có thể khởi kiện nhà doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nếu họ vi phạm hợp đồng.
Việc giao kết hợp đồng theo mẫu mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng. Sự ra đời của hợp đồng theo mẫu đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ giữa tổ chức, cá nhân cung ứng hàng hóa, dịch vụ với người tiêu dùng. Hợp đồng sử dụng dịch vụ điện thoại, hợp đồng cung ứng dịch vụ truyền hình trả tiền, hợp đồng sử dụng nước sinh hoạt,… là những ví dụ thường gặp và sự thuận tiện của loại hợp đồng theo mẫu này là không thể phủ nhận, không chỉ đối với doanh nghiệp mà cả với người tiêu dùng. Giúp giảm thiểu chi phí và thời gian cho người sử dụng khi giao kết với doanh nghiệp cung cấp dịch vụ.
Cơ chế kiểm soát hợp đồng mẫu phần nào giảm thiểu rủi ro cho người tiêu dùng: mặc dù sự thuận tiện của hợp đồng theo mẫu là không thể bàn cãi, tuy nhiên điểm bất lợi lớn của việc giao kết hợp đồng theo mẫu nói chung và hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền nói riêng đối với người tiêu dùng là ở chỗ người tiêu dùng không trực tiếp đàm phán, thỏa thuận các điều khoản trong các hợp đồng mẫu nên trong nhiều trường hợp người tiêu dùng gặp những rủi ro nhất định. Tuy nhiên, với các biện pháp giúp kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền thì hiện nay, người tiêu dùng sử dụng dịch vụ truyền hình trả tiền đã không còn phải đối mặt với nhiều rủi ro như trước nữa.
Cũng cần phải lưu ý những nội dung cơ bản trong hợp đồng truyền hình trả tiền đối với người tiêu dùng cần phải kiểm soát để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng bao gồm hai nội dung sau:
Thứ nhất là chất lượng dịch vụ, dịch vụ truyền hình trả tiền là một loại hình dịch vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng thông qua hệ thống hình ảnh, các chương trình truyền hình. Vì vậy, cái mà người tiêu dùng quan tâm hàng đầu khi giao kết với bên cung ứng dịch vụ đó là chất lượng cung ứng dịch vụ. Theo đó, trong hợp đồng giao kết giữa hai bên, chất lượng phục vụ của bên cung ứng dịch vụ như thế nào? Số lượng các kênh trong gói thuê bao mà người tiêu dùng đăng ký bao gồm những kênh gì? Khả năng cập nhật các chương trình của bên cung ứng dịch vụ như thế nào có đảm bảo được tính mới hay không? Và người tiêu dùng có gặp phải những trường hợp phải xem đi xem lại các nội dung đã được phát sóng trước đó hay không?
Thứ hai là phí thuê bao.Với những nội dung, chương trình mà bên cung ứng dịch vụ cung cấp có phù hợp với chi phí mà người tiêu dùng bỏ ra hay không? Hay trong trường hợp bên cung ứng dịch vụ không cung cấp dịch vụ như đã thỏa thuận thì người tiêu dùng có phải trả toàn bộ chi phí hay chỉ phải chi trả một phần chi phí thuê bao đã thỏa thuận. Và đặc biệt trong trường hợp thay đổi phí thuê bao, tăng hoặc giảm thì bên cung ứng dịch vụ có cần thỏa thuận lại hay cần có sự đồng ý của người tiêu dùng hay không ?
- Về phía các cơ quan quản lý nhà nước
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 đã chỉ ra các trường hợp điều khoản của hợp đồng không có hiệu lực, thông qua cơ chế đăng ký hợp đồng theo mẫu tại cục Quản lý cạnh tranh, Bộ Công Thương đã giúp hạn chế đến mực tối đa các trường hợp điều khoản của hợp đồng không có hiệu lực, kiểm soát các nội dung của hợp đồng, tránh những điều khoản lạm dụng, điều khoản quy định làm hạn chế quyền lợi người tiêu dùng như (điều khoản hạn chế quyền khiếu nại, tố cáo của người tiêu dùng; điều khoản loại trừ trách nhiệm của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đối với người tiêu dùng theo quy định của pháp luật…).
3.2. Những mặt hạn chế, tồn tại và nguyên nhân
3.2.1. Những mặt hạn chế, tồn tại
Ngoài những mặt tích cực nêu trên thì trong quá trình thực thi pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền vẫn gặp phải những hạn chế nhất định.
Thứ nhất, về công tác đăng ký hợp đồng theo mẫu
Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng đã có hiệu lực từ lâu, một trong những biện pháp để bảo vệ người tiêu dùng là yêu cầu những nhóm dịch vụ phải đăng ký các hợp đồng theo mẫu với cơ quan chức năng. Truyền hình trả tiền là một trong những lĩnh vực bắt buộc phải đăng ký hợp đồng mẫu, tính đến thời điểm năm 2014, mặc dù có tới 30 nhà đài cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền nhưng tại thời điểm đó thì Cục Quản lý cạnh tranh mới chỉ tiếp nhận 15 hồ sơ đăng ký và chấp thuận 05 hồ sơ của các doanh nghiệp sau:
1. CTCP Nghe nhìn Toàn Cầu (AGV);
2. CT TNHH Truyền hình số vệ tinh VN (K+);
3. CT Công nghệ phát thanh và truyền hình Đông Đô
4. Công ty cổ phần viễn thông FPT
5. Tập đoàn bưu chính viễn thông Việt Nam
Tính đến thời điểm tháng 3 năm 2016, Cục Quản lý cạnh tranh cũng chỉ xác nhận có tổng số 10 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền là đã đăng ký hợp đồng theo mẫu và được Cục Quản lý cạnh tranh chấp thuận. Ngoài 5 doanh nghiệp nêu trên còn có thêm các doanh nghiệp sau:
6. Công ty TNHH một thành viên Tổng công ty truyền hình cáp Việt Nam (VTVCab)
7. Tập Đoàn Viễn Thông Quân Đội
8. Công ty cổ phần truyền hình cáp NTH
9. Công ty TNHH Truyền hình Cáp Saigon Tourist
10. Công ty TNHH MTV Dịch vụ Kỹ thuật Truyền thông HTV (HTV-TMS)
Mặc dù tồn tại những thực trạng đó, tuy nhiên thì cũng vẫn chưa có trường hợp nào được thông báo bị xử lý.
Thứ hai, trong hợp đồng cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền vẫn còn tồn tại những điều khoản quy định nhằm buộc người tiêu dùng phải gánh chịu những rủi ro bất hợp lý. Đặc biệt là hiện nay trong hợp đồng quy định những nội dung cho phép doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền được đơn phương ấn
dđịnh điều kiện của hợp đồng (thay đổi giá, chấm dứt hợp đồng, giải thích thuật ngữ…) gây bất lợi cho người tiêu dùng.
Tại Hội thảo Cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực truyền hình trả tiền, tổ chức ngày 10/9/2013, ông Nguyễn Phương Nam đã từng có báo cáo tổng kết liên quan đến một số trường hợp, trong các hợp đồng theo mẫu mà các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền còn tồn tại những điều khoản mang tính chất là những điều khoản lạm dụng, bao gồm:
Một là, loại trừ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đối với người tiêu dùng theo quy định của pháp luật. Theo đó, bên cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền có thể soạn thảo một điều khoản như: Bên cung cấp dịch vụ có quyền tạm người hoặc chấm dứt cung cấp dịch vụ mà không phải bồi thường cho người tiêu dùng trong một số trường hợp như cần duy trì, sửa chữa hoặc cải thiện dịch vụ, cải thiện hệ thống.
Hai là, hạn chế, loại trừ quyền khiếu nại, khởi kiện của người tiêu dùng. Hiện nay không chỉ trong hợp đồng cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền mà rất nhiều hợp đồng theo mẫu khác cũng tồn tại những điều khoản này. Nếu trong hợp đồng cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền có quy định ngăn cản khách hàng nộp đơn khởi kiện vụ tranh chấp ra toàn án, ép buộc khách hàng thỏa thuận lựa chọn cơ quan xét xử vụ kiện hoặc buộc khách hàng có nghĩa vụ cung cấp bằng chứng nếu không có lý do chính đáng đều sẽ không có hiệu lực và giá trị pháp lý.
Ba là, cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đơn phương thay đổi điều kiện của hợp đồng đã thoả thuận trước với người tiêu dùng hoặc quy tắc, quy định bán hàng, cung ứng dịch vụ áp dụng đối với người tiêu dùng khi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ không được thể hiện cụ thể trong hợp đồng. Trên thực tế, hợp đồng cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền thuộc danh mục hàng hóa, dịch vụ thiết yếu phải đăng ký hợp đồng theo mẫu theo quy định tại Quyết định số 02/2012/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Vì vậy, nếu điều khoản cho phép bên cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền được phép thay đổi điều khoản hoạt động thì điều khoản này sẽ không có hiệu lực pháp lý.
Bốn là, cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ quy định hoặc thay đổi giá tại thời điểm giao hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Hiện nay, giá cước cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền của nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ thường xuyên thay đổỏi, và bên cung cấp dịch vụ thường quy định trong hợp đồng quyền tự thay đổi phí thuê bao va các loại phí khác trong quá trình cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng có nghĩa vụ phải thay toán đầy đủ các loại chi phí đó theo thông báo của bên thứ ba.
Năm là, bắt buộc người tiêu dùng phải tuân thủ các nghĩa vụ ngay cả khi tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không hoàn thành nghĩa vụ của mình.
Ví dụ như những quy định trong hợp đồng như sau:
Hợp đồng theo mẫu quy định: “Trước ngày 10 hàng tháng, Bên B sẽ gửi thông báo thanh toán cước đến địa chỉ đăng ký nhận thông báo cước của Bên A. Trong thời gian từ ngày 10 đến 20 hàng tháng, nếu Bên A chưa nhận được thông báo thanh toán cước, Bên A phải liên hệ với Bên B để được cung cấp thông tin. Sau thời hạn nêu trên (từ ngày 21 trở đi), nếu Bên B không nhận được phản hồi từ Bên A, thì được coi là Bên A đã chấp nhận và đồng ý với nội dung của thông báo thanh toán cước”.
Sáu là, cho phép tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chuyển giao quyền, nghĩa vụ cho bên thứ ba mà không được người tiêu dùng đồng ý:
Ví dụ: "Bên A đồng ý rằng Bên B có quyền chuyển nhượng Hợp đồng hoặc bất kỳ quyền và nghĩa vụ liên quan của Bên B, một phần hoặc toàn bộ, cho bất kỳ cá nhân, tổ chức do Bên B lựa chọn sau khi đã thông báo cho Bên A trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của Bên A".
Ví dụ trong hợp đồng tồn tại điều khoản sau: “Mọi tranh chấp giữa các bên đều được giải quyết thông quan thương lượng hoà giải, các bên không được khởi kiện ra Toà án, hay khiếu nại đến cơ quan Nhà nước có thẩm quyền”.
Từ những ví dụ nêu trên có thể thấy nội dung cơ bản của những điều khoản lạm dụng tạo điều kiện cho doanh nghiệp trốn tránh trách nhiệm cũng như đẩy rủi ro cho người tiêu dùng.
Thực tế đã chứng kiến nhiều doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền tự ý thay đổi quy định chung, điều khoản trong hợp đồng và thông báo tới khách hàng bằng phương tiện thông tin đại chúng, trên website, qua tin nhắn mà không hề mời khách hàng đến làm lại hợp đồng hay bổ sung điều khoản đã thay đổi. Khi họ thông báo như vậy, khách hàng nghiễm nhiên buộc phải chấp nhận điều khoản thay đổi dù có đồng ý hay không. Rõ ràng với việc tự soạn thảo hợp đồng và có quyền thay đổi điều khoản, chính sách nếu muốn, doanh nghiệp đang ở thế trên cơ và có thể “ép” người tiêu dùng qua hợp đồng mẫu.
Thứ ba, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền cố tình cản trở việc tiếp cận hợp đồng theo mẫu bằng việc đưa ra các hợp đồng này dưới những hình thức không thuận tiện cho người tiêu dùng.
Nhiều người phàn nàn khi họ phải ký kết các hợp đồng theo mẫu mà trong đó cỡ chữ cũng như cách trình bày rất khó đọc đặc biệt là đối với những người có thị lực kém. Các hợp đồng này thường là rất dài có khi lên đến 5,6 trang vì vậy trong nhiều trường hợp không thể đọc hết hợp đồng hoặc không đủ “kiên nhẫn” để đọc kết hợp đồng vì hợp đồng cần phải được ký ngay. Trong trường hợp này rõ ràng người tiêu dùng có nguy cơ chịu rủi ro rất lớn nếu có tranh chấp phát sinh. Cỡ chữ tối thiểu mà một hợp đồng nêu sử dụng là 12. tuy nhiên, trên thực tế không khó để gặp các hợp đồng mà cỡ chữ thậm chí chỉ khoảng 8 hoặc 9. Nhiều doanh nghiệp cho rằng h́nh thức của hợp đồng không ảnh hưởng gì đến việc giao kết hợp đồng, bởi nội dung của hợp đồng mới là yếu tố quyết định. Tuy nhiên, nếu gặp khó khăn ngay từ việc tiếp cận hợp đồng thì tâm lý khó chịu hoặc e ngại của người tiêu dùng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc tìm hiểu nội dung và quyết định ký kết hợp đồng.
Thứ tư, thực trạng đăng ký hợp đồng theo mẫu của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền vẫn còn rất chậm chạp. Trên thực tế với hơn 30 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền, chỉ mới có khoảng trên 10 doanh nghiệp đã tham gia đăng ký hợp đồng theo mẫu tại Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương.
Thứ năm, chất lượng dịch vụ, hiện nay nhiều người tiêu dùng phản ánh, chất lượng dịch vụ họ nhận được không theo đúng cam kết của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ. Nhiều đơn vị cung cấp dịch vụ ngoài chuyện một số chương trình tự dựng na ná nhau thì ngay cả các kênh phải mua lại bản quyền từ nước ngoài cũng trùng lặp như Cartoon Network, Discovery, Star Sport, MTV, HBO, CNN, Star Movies. Bên cạnh đó, việc chèn quảng cáo cũng làm nhiều người tiêu dùng bức xúc. Trên thực tế, họ phải trả tiền cho việc sử dụng dịch vụ truyền hình, nhưng vẫn bị chèn quảng cáo thường xuyên.
Thứ sáu, pháp luật hiện nay cũng chưa có những điều khoản cụ thể quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng hay thời gian để người tiêu dùng nghiên cứu về nội dung của hợp đồng. Tâm lý chung của người tiêu dùng là thường vội vàng khi mua hàng hóa hoặc ký kết các hợp đồng cung ứng dịch vụ. Nếu pháp luật không quy định rõ một khoảng thời gian cụ thể để người tiêu dùng nghiên cứu hợp đồng thì vô hình chung cũng là một nguyên nhân làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
Việc quy định nghĩa vụ của đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền dành cho người tiêu dùng thời gian hợp lý để nghiên cứu hợp đồng dường như không phát huy được tác dụng đối với dạng hợp đồng theo mẫu, bởi các giao dịch tiêu dùng được tiến hành hàng loạt với hàng triệu người và diễn ra liên tục.
Thứ bảy, việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kiểm soát hợp đồng theo mẫu và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng còn nhiều hạn chế. Theo ông Phan Thế Thắng, Phó trưởng phòng Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Cục Quản lý cạnh tranh, trên phạm vi cả nước, số lượng vụ việc vi phạm quyền lợi người tiêu dùng có xu hướng ngày càng gia tăng. Năm 2014, số lượng khiếu nại của người tiêu dùng gửi về Cục Quản lý cạnh tranh tăng hơn 4 lần so với năm 2013 (cụ thể có hơn 1.000 khiếu nại). Các khiếu nại chủ yếu nhằm vào ngành viễn thông, truyền hình, mua bán qua mạng... Tuy nhiên, công tác xử lý tình trạng nêu trên còn hạn chế, quyền lợi của người tiêu dùng vẫn bị xâm phạm. Nguyên nhân của thực trạng này một phần lý do là do công tác thực hiện chức năng của cơ quan nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Các cơ quan này chưa phát huy hết chức năng là cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Về vấn đề này, cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ người tiêu dùng của Việt Nam có thể học hỏi Hàn Quốc trong quá trình thực hiện chức năng của mình.
Tại Hàn Quốc, cơ quan trung tâm thực hiện công tác bảo vệ người tiêu dùng ở Hàn Quốc là Cơ quan người tiêu dùng Hàn Quốc, với tên viết tắt là KCA (Korea Consumer Agency). Đây là một tổ chức chính phủ thành lập năm 1987 theo quy định của Luật Bảo vệ người tiêu dùng để thực hiện có hiệu quả các chính sách bảo vệ người tiêu dùng Hàn Quốc. Cơ quan này thực hiện các nhiệm vụ chính như: 1) tiến hành nghiên cứu các chính sách và hệ thống liên quan đến quyền lợi người tiêu dùng; 2) điều tra các vấn đề liên quan đến người tiêu dùng; 3) thu thập thông tin về bảo vệ người tiêu dùng; 4) cung cấp giáo dục và thông tin về bảo vệ người tiêu dùng; và 5) giải quyết các vấn đề liên quan đến an toàn và thiệt hại của người tiêu dùng. KCA mặc dù là một đơn vị được thành lập theo quyết định của chính phủ nhưng chịu sự giám sát và chỉ đạo của Ủy ban thương mại công bằng Hàn Quốc (KFTC). KFTC trong trong trường cần thiết có thể đưa ra hướng dẫn, yêu cầu báo cáo với các vấn đề có liên quan đến hoạt động, chi tiêu, tài sản, hoặc lệnh thực hiện, thanh tra đối với KCA (trong đó bao gồm cả Trung tâm An toàn Người tiêu dùng). KCA có thể thành lập các chi nhánh tại những nơi cần thiết với sự chấp thuận của Ủy ban Thương mại lành mạnh. Một điểm đáng lưu ý nữa trong Luật bảo vệ người tiêu dùng Hàn Quốc là việc trao cho KCA thẩm quyền yêu cầu các cơ quan nhà nước có liên quan hợp tác thực hiện, cụ thể: khi Chủ tịch của KCA xét thấy cần thiết để thực hiện các hoạt động thử nghiệm, kiểm tra hàng hóa, dịch vụ, giải quyết khiếu nại và đưa ra biện pháp khắc phục thiệt hại cho người tiêu dùng, KCA có quyền yêu cầu cơ quan thử nghiệm quốc gia hoặc công ích tiến hành thử nghiệm, cũng như yêu cầu các tổ chức kiểm tra, thanh tra để kiểm tra, thanh tra đối với hàng hóa, dịch vụ, tổ chức gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Bất kỳ tổ chức nào đã nhận được yêu cầu nêu trên cần ưu tiên thực hiện trừ khi có lý do đặc biệt. Có thể thấy, thiết chế thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Hàn Quốc thực hiện rất hiệu quả và Việt Nam chúng ta cũng nên học hỏi để thực hiện tốt hơn chức năng quản lý nhà nước của mình trong công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
3.2.2. Nguyên nhân
Hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền trở thành một công cụ hữu ích bởi những lợi ích mà nó mang lại cho cả doanh nghiệp cung cấp dịch vụ và người tiêu dùng, tuy nhiên, hiện nay sự vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thông qua hình thức hợp đồng này vẫn chưa có biểu hiện giảm. Và cơ chế kiểm soát hợp đồng này dường như vẫn chưa thực sự hiệu quả. Thực tế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, có thể kể đến một số lý do chủ yếu như sau:
Thứ nhất, về nguyên nhân chủ quan
- Ý thức của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ truyền hình trả tiền trong việc đăng ký hợp đồng theo mẫu với Cục quản lý cạnh tranh, Bộ Công thương còn hạn chế.
- Sự lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền của doanh nghiệp trên thị trường liên quan. Điều này xảy ra nhiều nhất là ở các khu nhà Chung cư, khu nhà tập thể… các đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền thường ký kết hợp đồng cung ứng dịch vụ với cả Tòa nhà, vì vậy, các hộ gia đình sống tại những khu nhà này về cơ bản cũng ký kết sử dụng dịch vụ của các đơn vị cung cấp đó.
- Chất lượng cung cấp dịch vụ của một số đơn vị còn nhiều hạn chế không theo đúng cam kết trong hợp đồng với người tiêu dùng, xuất phát từ một số tồn tại: (1) các cơ quan hữu quan mới chỉ quản lý về nội dung là chủ yếu, trong khi đó, vấn đề hạ tầng kỹ thuật và năng lực của mạng lại đang bị sao lãng. Quả thật, trên rất nhiều đơn vị phát sóng truyền hình trả tiền trên cả nước, không phải nơi nào cũng hội đủ yếu tố về tài chính, hạ tầng mạng và chất lượng cung cấp dịch vụ. (2) do truyền hình trả tiền là một lĩnh vực còn quá mới nên việc quản lý chưa thể theo kịp thực tế. Nhiều đơn vị được cấp phép hoạt động truyền hình cáp - các đài phát thanh, truyền hình địa phương do hạn chế về kinh phí, nhân lực nên đã "khoán trắng" cho các đối tác liên kết, thay vì trực tiếp sản xuất chương trình và cung cấp dịch vụ truyền hình cáp. (3) Bên cạnh đó, người ta còn quan ngại về sự phân tán và bất cập ở khâu biên tập, khai thác các nội dung nước ngoài. Điều đó đã dẫn tới nhiều sự cố đáng tiếc, mà nguyên nhân chủ chốt là do chương trình đã không được biên tập chặt chẽ. Ngoại trừ các đài truyền hình lớn như Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình TP Hồ Chí Minh, Đài Phát thanh & Truyền hình Hà Nội có tổ chức biên tập một số kênh nước ngoài chủ lực, còn lại, việc biên tập chương trình truyền hình quốc tế gần như đang bị bỏ ngỏ. (4) Quản lý hoạt động quảng cáo trên truyền hình trả tiền cũng là một mối bức xúc của dư luận trong thời gian qua. Rất nhiều người dân đã phàn nàn về việc họ trả tiền để xem "kênh truyền hình sạch", nhưng vẫn bị nhà đài chèn quảng cáo một cách phản cảm. Tín hiệu sóng nhiều lúc phập phù, đài truyền hình đột ngột cắt bớt hoặc thay kênh mà không thông báo hoặc xin phép các thuê bao của mình...
Thứ hai, về nguyên nhân khách quan
Có thể nhận thấy, các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền về cơ bản đã tiếp cận được xu hướng điều chỉnh pháp luật trên thế giới, như quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin, quy định về các điều khoản đương nhiên không có hiệu lực, quy định về cơ chế đăng ký hợp đồng mẫu, quy định về việc xử lý các vi phạm liên quan đến hợp đồng… Tuy nhiên, về cơ chế kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền vẫn giới hạn ở mức độ liệt kê các điều khoản đương nhiên được coi là vô hiệu trong hợp đồng theo mẫu. Vậy, những điều khoản khác có khả năng làm ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng mà các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền đưa ra không nằm trong những điều khoản đương nhiên được coi là vô hiệu mà pháp luật đã quy định thì sẽ không bị vô hiệu.
Ngoài ra, pháp luật hiện nay cũng chưa có những điều khoản cụ thể quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng hay thời gian để người tiêu dùng nghiên cứu về nội dung của hợp đồng. Tâm lý chung của người tiêu dùng là thường vội vàng khi mua hàng hóa hoặc ký kết các hợp đồng cung ứng dịch vụ. Nếu pháp luật không quy định rõ một khoảng thời gian cụ thể để người tiêu dùng nghiên cứu hợp đồng thì vô hình chung cũng là một nguyên nhân làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền
4.1. Hoàn thiện chế định hợp đồng theo mẫu
Cần phải hoàn thiện lại chế định hợp đồng theo mẫu để tạo nên sự thống nhất giữa hệ thống pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng và Bộ luật dân sự 2015 để tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiện nay Bộ luật Dân sự 2015 cũng có quy định tại Điều 405 về hợp đồng theo mẫu như sau:
Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra. Hợp đồng theo mẫu phải được công khai để bên được đề nghị biết hoặc phải biết về những nội dung của hợp đồng. Trình tự, thể thức công khai hợp đồng theo mẫu thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trong khi đó LBVQLNTD năm 2010, tại khoản 5 Điều 3 quy định: “
Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng”.
Từ việc phân tích pháp luật của các quốc gia có thể thấy hầu hết các quốc gia, vùng lãnh thổ đã đưa ra được khái niệm đầy đủ về hợp đồng theo mẫu. Tuy nhiên, các khái niệm này không hoàn toàn giống nhau. Ví dụ như, Luật về các điều kiện thương mại chung của Đức coi các điều khoản của hợp đồng là một loại điều kiện giao dịch chung, loại điều kiện giao dịch chung này là do một bên đưa ra để áp dụng hàng loạt đối với một bên còn lại. Luật hợp đồng gia nhập của Hàn Quốc thì lại đưa ra một khái niệm khác, đó là: các điều kiện và điều khoản chung của hợp đồng, ngoại trừ tên, loại hoặc phạm vi hợp đồng, được chuẩn bị trước bởi một bên tham gia hợp đồng trong một hình thức nhất định cho mục đích để giao kết với một lượng đối tác lớn. Theo quy định này thì pháp luật của Hàn Quốc có nét tương đồng với pháp luật của Đức về yếu tố do một bên soạn thảo và áp dụng với số lượng lớn. Tuy nhiên, Luật hợp đồng gia nhập của Hàn Quốc còn có điểm khác với pháp luật của Đức đối với điều kiện, điều khoản về loại hợp đồng, phạm vi hợp đồng là căn cứ để xác định hợp đồng theo mẫu. Đây là một yếu tố rất quan trọng, theo quy định của pháp luật về hợp đồng theo mẫu của nhiều nước trên thế giới (và cả Việt Nam) thì hợp đồng theo mẫu do một bên đơn phương quy định các điều kiện và điều khoản trong đó. Tuy nhiên, mỗi hợp đồng lại giao kết với một đối tượng khác nhau và do đó có nhiều nội dung trong hợp đồng trong nhiều trường hợp là không giống nhau như tên gọi hợp đồng, phạm vi hợp đồng, bên giao kết hợp đồng theo mẫu (thông thường là người tiêu dùng)..Vì vậy, nếu khái niệm về hợp đồng theo mẫu chỉ quy định một cách chung chung thì trong nhiều trường hợp doanh nghiệp sẽ lợi dụng chính khái niệm của pháp luật để cho rằng hợp đồng của mình không phải là hợp đồng theo mẫu (vì có nhiều quy định đặc thù đối với từng người tiêu dùng khác nhau). Khoản 5, Điều 3 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam quy định: “Hợp đồng theo mẫu là hợp đồng do tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ soạn thảo để giao dịch với người tiêu dùng”. Nếu căn cứ vào hai tiêu chí nói trên thì có thể thấy rằng quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng theo mẫu cũng đã có những nét tương đồng với pháp luật của các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn có những tồn tại, bất cập, cụ thể là: khái niệm của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không chỉ rõ về một hợp đồng theo mẫu là một hợp đồng mà toàn bộ điều khoản được một bên đơn phương soạn thảo hay chỉ cần một phần hợp đồng hoặc các điều khoản cơ bản do một bên soạn sẵn. Ngoài ra, khái niệm của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng không thể hiện yếu tố “áp dụng cho nhiều người” như quy định của các nước và người tiêu dùng có quyền được thương lượng, thỏa thuận nội dung của hợp đồng hay không. Theo tác giả, đây thực sự là một “lỗ hổng” pháp lý rất quan trọng, vì vậy cần sớm hoàn thiện lại chế định này cho phù hợp với hệ thống pháp luật các quốc gia trên thế giới và sự đồng bộ hệ thống pháp luật trong nước.
4.2. Hoàn thiện cơ chế kiểm soát hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền
Một khi các điều khoản mẫu đã thỏa mãn các điều kiện để trở thành một phần của hợp đồng, rất nhiều hệ thống pháp luật thường đưa ra một cơ chế kiểm soát tính công bằng đối với nội dung của các điều khoản mẫu đó. Về cơ bản, có hai mô hình chủ yếu được áp dụng để lý giải nguyên nhân tại sao cần phải kiểm soát tính công bằng trong hợp đồng theo mẫu: học thuyết về chi phí giao dịch và học thuyết về lạm dụng vị thế.
Học thuyết về chi phí giao dịch: Học thuyết này nhấn mạnh đến bản chất của hợp đồng mẫu khi có sự bất cân xứng về chi phí giao dịch (transaction costs) giữa bên ban hành điều khoản mẫu và bên còn lại. Vì điều khoản mẫu có thể được sử dụng lặp đi lặp lại cho nhiều giao dịch khác nhau, bên ban hành điều khoản mẫu có thể phân tán chi phí đầu tư cho việc soạn thảo hợp đồng. Trong khi đó, do chỉ tham gia giao dịch một lần, bên còn lại sẽ không có động cơ để trả chi phí tương ứng với phía bên kia nhằm thu thập những thông tin cần thiết cho quá trình thương lượng hợp đồng. Vì nguyên nhân đó, luôn tồn tại sự bất cân xứng về thông tin giữa bên ban hành điều khoản mãi và bên đối tác. Do đó, việc sử dụng điều khoản mẫu thường dẫn đến hệ quả là người tiêu dùng sẽ dần dần hình thành tâm lý bỏ mặc, không quan tâm đọc, tìm hiểu nội dung của điều khoản đó nữa. Hậu quả kéo theo của hiện tượng này là, nếu người tiêu dùng không có thói quen đọc điều khoản mẫu, bên cung cấp điều khoản mẫu cũng không có động lực cạnh tranh để thiết kế điều khoản mẫu tốt hơn, hấp dẫn hơn đối với người tiêu dùng. Các doanh nghiệp khác, ban đầu cung cấp các điều khoản mẫu tương đối tốt, chứng kiến hiện tượng đó, sẽ dần dần loại bỏ điều khoản công bằng, thay vào đó là điều khoản bất công cho người tiêu dùng. Tình trạng này nếu kéo dài sẽ mở rộng ra toàn bộ thị trường, dẫn đến sự
“thất bại của thị trường” theo một hiện tượng mà George Arthur Akerlof-kinh tế gia đoạt giải Nobel năm 2001 - gọi là “market for lemons” , trong đó chất lượng điều khoản mẫu tiếp tục giảm đi theo hướng bất lợi cho người tiêu dùng. Chính điều đó là lý do tại sao cần phải có sự kiểm soát từ phía nhà nước để bảo đảm tính công bằng trong nội dung điều khoản mẫu.
Học thuyết về lạm dụng vị thế: học thuyết này dựa trên khái niệm về sự chênh lệch vị thế thương lượng giữa các bên. Theo đó, trái với học thuyết về chi phí giao dịch, nguyên nhân sâu xa đằng sau việc kiểm soát tính công bằng của các điều khoản mẫu không nằm ở bản chất của hợp đồng mẫu mà nhấn mạnh đến nhu cầu bảo vệ một nhóm người cụ thể - người tiêu dùng là bên thường được coi là bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng với doanh nghiệp. Do đó, lợi thế hơn về mặt vị thế kinh tế, xã hội và tâm lý, doanh nghiệp thường có khả năng đơn phương áp đặt các điều khoản do mình soạn thảo gây bất lợi cho ngýời tiêu dùng. Các ðạo luật về kiểm soát tính công bằng của hợp ðồng ðýợc thiết kế dựa trên một nguyên tắc mới của luật hợp ðồng hiện ðại - nguyên tắc bảo vệ bên yếu thế trong quan hệ hợp đồng.
Ở Việt Nam, với sự tồn tại của các quy tắc điều chỉnh điều khoản mẫu trong Bộ luật dân sự và Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010, dường như có bóng dáng của cả hai cách tiếp cận trên. Điều 16 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 đã liệt kê chín loại điều khoản mẫu sẽ đương nhiên không có hiệu lực nếu được áp dụng với người tiêu dùng. Mặt khác, Bộ luật dân sự 2005 hay Bộ luật dân sự 2015 hiện mới chỉ giới hạn sự kiểm soát đối với một số điều khoản mẫu rất hạn hữu, theo đó bất cứ điều khoản mang tính “loại trừ trách nhiệm” nào được đưa ra trong hợp đồng theo mẫu sẽ đều bị vô hiệu, trừ khi các bên có thỏa thuận khác. Đối với Bộ luật dân sự 2015 mặc dù lần đầu tiên đưa ra một điều khoản tương tự liên quan đến điều kiện giao dịch chung. Tuy nhiên, quy định này cũng chỉ được áp dụng cho các điều khoản mang tính loại trừ trách nhiệm. Do đó, đây không thể coi là một bước tiến quan trọng về điều chỉnh điều khoản mẫu trong luật hợp đồng Việt Nam.
Có thể thấy, pháp luật Việt Nam hiện nay đang duy trì hai đạo luật độc lập điều chỉnh các vấn đề về kiểm soát hợp đồng theo mẫu nói chung và hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền nói riêng, tuy nhiên, với tư cách là đạo luật gốc của hệ thống luật tư, Bộ luật dân sự 2015 cần phải quy định một cơ chế kiểm soát hiệu quả hơn, có thể dựa trên kinh nghiệm của Chỉ thị 93/13/EEC về các điều khoản không công bằng để thiết lập một điều khoản chung trong Pháp luật Việt Nam cho phép Tòa án có thể can thiệp vào các tranh chấp cụ thể nằm ngoài phạm vi danh mục các điều khoản được coi là không công bằng được quy định trong Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng 2010 hay trong Bộ luật dân sự 2015.
Bên cạnh đó từ kinh nghiệm nghiên cứu luật so sánh cho thấy, cơ chế kiểm soát gồm 3 giai đoạn nên thiết lập trong Bộ luật dân sự 2015 để đảm bảo tính công bằng của hợp đồng theo mẫu nói chung và hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền nói riêng:
Thứ nhất, cần thiết lập quy tắc coi nhiệm vụ cung cấp thông tin là điều kiện tiên quyết để điều khoản mẫu trở thành nội dung hợp đồng,
Thứ hai, cần thiết lập quy tắc kiểm soát tính công bằng trong nội dung của điều khoản mẫu có thể thiết kế theo mô hình kết hợp giữa điều khoản chung quy định các tiêu chí để đánh giá tính công bằng và một danh mục các điều khoản được xem như là không công bằng.
Thứ ba, cần thiết lập quy tắc giải thích hợp đồng nhấn mạnh việc điều kiện mẫu sẽ được giải thích theo hướng bất lợi cho phía bên soạn thảo điều kiện đó.
4.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng
Hiện nay, một trong những vấn đề bất lợi lớn mà người tiêu dùng phải đối mặt khi sử dụng dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền cung ứng đó là về giá cả và chất lượng của dịch vụ. Hơn nữa, người tiêu dùng thường không hiểu biết về chuyên môn, kỹ thuật, không có khả năng đánh giá về độ tương xứng giữa chất lượng của loại hình dịch vụ này so với giá cả do doanh nghiệp cung cấp đưa ra, tất yếu dẫn đến việc người tiêu dùng gánh chịu sự thua thiệt do không thể nắm quyền chủ động trong giao kết và thực hiện hợp đồng. Chính vì vậy mà pháp luật cần có những quy định cụ thể điều chỉnh các vấn đề liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin cho người tiêu dùng.
Ngoài ra, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cần quy định thêm thời gian để người tiêu dùng nghiên cứu nội dung hợp đồng trước khi ký kết. Thực tiễn cho thấy, để đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng trong giao kết và thực hiện hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền, thì việc quy định thời gian cần thiết để người tiêu dùng nghiên cứu nội dung hợp đồng trước khi ký kết là rất cần thiết. Tuy nhiên, hiện nay, pháp luật không quy định cụ thể khoảng thời gian này là bao lâu mà chỉ quy định rất chung chung tại khoản 1 Điều 17 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, đó là: “
Khi giao kết hợp đồng theo mẫu, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ phải dành thời gian hợp lý để người tiêu dùng nghiên cứu hợp đồng”. Việc Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 quy định chung như vậy, trong khi văn bản dưới luật chưa cụ thể hóa về vấn đề này có thể dẫn đến việc doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tự ấn định một khoảng thời gian ngắn để người tiêu dùng nghiên cứu hợp đồng và lập luận rằng đó là thời gian hợp lý, vậy lấy cơ sở gì để xác định doanh nghiệp cung cấp dịch vụ có vi phạm hay không? Do đó, để đảm bảo cho người tiêu dùng có thời gian hợp lý nghiên cứu hợp đồng, pháp luật cần quy định là thương nhân phải dành một khoảng thời gian nhất định để người tiêu dùng nghiên cứu hợp đồng. Khi quy định khoảng thời gian này trong luật, cần căn cứ vào các tiêu chí như số trang của hợp đồng theo mẫu; lĩnh vực hàng hóa, dịch cung cấp; mức độ phức tạp của hợp đồng… để từ đó xác định số ngày phù hợp.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp mặc dù có thời gian nghiên cứu hợp đồng kỹ lưỡng hoặc được cung cấp thông tin liên quan đến dịch vụ truyền hình trả tiền đầy đủ nhưng người tiêu dùng vẫn không hiểu được những điều khoản cơ bản cũng như những đặc điểm cơ bản của dịch vụ mà bên cung cấp dịch vụ đưa ra. Nghiên cứu kinh nghiệm lập pháp của Canada (Bang Québec), cụ thể là tại Điều 28 của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Québec năm 1971 có quy định người tiêu dùng phải
“hiểu được các điều khoản cũng như mục tiêu của hợp đồng trước khi chính thức ký kết” có thể thấy pháp luật của nước này quan tâm đến kết quả của hành vi cung cấp thông tin có đạt được mục đích bảo vệ người tiêu dùng không, với cách quy định làm nổi bật được bản chất của vấn đề thì quyền lợi của người tiêu dùng mới đảm bảo được tối đa.
4.4. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát hình thức của hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền
Pháp luật Việt Nam cũng quy định khá chi tiết về mặt kỹ thuật, hình thức của Hợp đồng theo mẫu. Tại Điều 7 Nghị định số 99/2011/NĐ-CP, các nhà làm luật yêu cầu tất cả các hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải được lập thành văn bản và được soạn thảo bằng tiếng Việt, với phông chữ tiếng Việt, màu chữ và nền giấy tương phản dễ đọc, ngôn ngữ dễ hiểu... Các quy định này cho thấy pháp luật Việt Nam đã tiếp thu và vận dụng khá tốt kinh nghiệm lập pháp của các nước tiên tiến. Tuy nhiên, quy định này cũng vẫn có những hạn chế bởi dường như các nhà làm luật Việt Nam đã khá cứng nhắc khi bắt buộc tất cả các hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung phải soạn thảo bằng tiếng Việt. Điều này sẽ hạn chế quyền lựa chọn của người tiêu dùng.
Bên cạnh đó, thì quy định này của pháp luật Việt Nam còn bộc lộ sự không thống nhất. Theo quy định tại Nghị định 99/2011/NĐ-CP yêu cầu hình thức hợp đồng theo mẫu phải bằng tiếng Việt, trong khi đó, Điều 69 Nghị định 185/2013/NĐ-CP quy định về các hành vi vi phạm hình thức hợp đồng theo mẫu lại có cách hiểu khác, các hành vi vi phạm hình thức hợp đồng theo mẫu bao gồm: Có cỡ chữ nhỏ hơn quy định; Ngôn ngữ hợp đồng phải là tiếng Việt, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy đinh khác…Như vậy, có hai câu hỏi đặt ra, một là hợp đồng theo mẫu có nhất thiết phải bằng tiếng Việt và hai là, hợp đồng theo mẫu bằng tiếng Việt thì có đảm bảo được quyền lợi cho tất cả những người tiêu dùng trong xã hội hay không khi mà “người tiêu dùng trong nước đâu chỉ có Việt Nam”. Đặc biệt là khi đối tượng áp dụng của Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 là “
người tiêu dùng, tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa, dịch vụ; cơ quan, cá nhân có liên quan đến hoạt động bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam”, như vậy, liệu với quy định sử dụng ngôn ngữ bằng tiếng Việt có đảm bảo đúng tinh thần “bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trên lãnh thổ Việt Nam”.
Nghiên cứu, tiếp thu những quy định pháp luật của các nền tư pháp tiến bộ trên thế giới, trong thời gian tới nếu Quốc hội xem xét sửa đổi luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, có thể tham khảo quy định tại luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Québec năm 1971. Cụ thể, về ngôn ngữ trong hợp đồng, Điều 26 luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Québec năm 1971 quy định:
Hợp đồng và những văn bản kèm theo nó phải được lập bằng tiếng Pháp, ngoài ra, các bên có thể thỏa thuận thống nhất lựa chọn một ngôn ngữ khác để sử dụng soạn thỏa hợp đồng. Nếu hợp đồng được soạn thảo bằng tiếng Pháp và một ngôn ngữ khác, trong trường hợp có sự khác biệt giữa hai ngôn ngữ, phải lựa chọn theo hướng có lợi cho người tiêu dùng.
Như vậy, trong trường hợp này, các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận lựa chọn ngôn ngữ cho phù hợp với điều kiện cũng như là nhu cầu của mình. Bên cạnh đó, luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Québec năm 1971 cũng tiên liệu được trường hợp cùng một nội dung nhưng bằng hai ngôn ngữ khác nhau, nếu xảy ra trường hợp nội dung quy định khác nhau thì ưu tiên lựa chọn theo hướng có lợi cho người tiêu dùng.
Trên thực tế, tại Việt Nam nhu cầu sử dụng dịch vụ truyền hình trả tiền ngày càng tăng mạnh, người tiêu dùng không chỉ là người Việt Nam mà còn là người nước ngoài. Chính vì thế mà những quy định pháp luật về ngôn ngữ trong hợp đồng của luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Québec năm 1971 là những điểm mà pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Việt Nam nên tiếp thu và có chỉnh lý cho phù hợp để việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng được mở rộng phạm vi một cách tối đa.
4.5. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát nội dung của hợp đồng trong lĩnh vực truyền hình trả tiền
Thứ nhất, nội dung hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền phải rõ ràng, đầy đủ
Thông thường một bản hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền chỉ được soạn trong 2 trang. Điều này dẫn đến nhiều nội dung trong hợp đồng không rõ ràng. Đặc biệt là điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Điều khoản này thường rất ngắn gọn, không chỉ rõ quyền và nghĩa vụ của các bên trong khi quy định tại nghị định số 06/2016 NĐ-CP về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ phát thanh, truyền hình quy định quyền và nghĩa vụ của các bên rất rõ ràng
Ví dụ: trong hợp đồng cung cấp và sử dụng dịch vụ truyền hình cáp của VCTC chỉ đưa ra điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ rất chung chung:
- Hai bên cam kết thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng. Bên nào vi phạm sẽ phải chịu mọi chi phí về thiệt hại do mình gây ra. Trong quá trình thực hiện hợp đồng nếu có tranh chấp, hai bên sẽ chủ động thương lượng, khi không thương lượng được sẽ đưa ra cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
- Bên B có thể thay đổi các chương trình trong trường hợp Chương trình có phương hại đến an ninh, chính trị Quốc gia.
- Những trường hợp sau đây được coi là bất khả kháng (không thuộc lỗi của bên B):
+ Quyết định thay đổi kênh chương trình vì có phương hại đến an ninh, chính trị từ cấp có thẩm quyền của Nhà nước Việt Nam;
+ Mất điện lưới cung cấp cho các thiết bị đặt tại các khu vực có liên quan;
+ Đường truyền tín hiệu thu vệ tinh bị sự cố, hoặc thiên tai, chiến tranh.
- Hợp đồng này có thể được thay đổi, bổ sung, thanh lý theo sự thỏa thuận giữa hai bên hoặc theo quyết định của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Bên A có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu không có nhu cầu sử dụng. Trong trường hợp này Bên A phải đến bộ phận Dich vụ Khách hàng của Chi nhánh để làm thủ tục. Việc chấm dứt hợp đồng có giá trị từ thời điểm hai bên ký vào biên bản chấm dứt hợp đồng.
Có thể thấy, điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền của VCTC rất chung chung, không rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên. Việc quy định không rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong trường hợp xảy ra mẫu thuẫn phát sinh trên thực tiễn, hai bên không thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng dẫn đến khó xử lý. Ngoài ra thì việc quy định không rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các bên còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền sẽ gây ra những khó khăn, bất lợi làm ảnh hưởng đến quyền lợi người tiêu dùng.
Khắc phục hạn chế này, Cục quản lý cạnh tranh trong quá trình làm thủ tục đăng ký hợp đồng theo mẫu cho các đơn vị cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền cần phải đọc kỹ những nội dung quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên. Từ đó, hạn chế đến mức tối đa những sai phạm làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng.
Thứ hai, pháp luật cần dự liệu về một số nội dung bắt buộc với các hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền
Đối với các hợp đồng đã được đăng ký theo đúng quy định pháp luật, trong nội dung của hợp đồng sẽ có phần quy định rằng “Hợp đồng này đã được đăng ký tại…. theo quy định của Luật bảo vệ người tiêu dùng 2010” đây là một điều khoản giúp người tiêu dùng nhận ra được rằng hợp đồng này đã được đăng ký hay chưa, đối với những hợp đồng đã đăng ký người tiêu dùng cũng yên tâm hơn trong giao kết hợp đồng, đối với hợp đồng chưa đăng ký thì người tiêu dùng cần xem xét kỹ lưỡng tránh tình trạng hợp đồng chưa qua đăng ký chứa đựng những điều khoản ảnh hưởng đến quyền lợi của mình; hoặc đối với hợp đồng theo mẫu bắt buộc phải tích hợp nội dung “Trong trường hợp có bất kỳ thắc mắc, khiếu nại liên quan đến hợp đồng này, khách hàng vui lòng liên hệ… [địa chỉ/điện thoại của doanh nghiệp] hoặc … [địa chỉ/điện thoại của Hiệp hội bảo vệ người tiêu dùng địa phương]”… Các điều khoản này vừa giúp tăng cường trách nhiệm, uy tín của doanh nghiệp và cũng nhằm phát huy vai trò của các tổ chức xã hội trong việc bảo vệ người tiêu dùng.
Thứ ba, kiểm soát những điều khoản không công bằng trong hợp đồng
Như đã trình bày tại Chương 2 về những điều khoản không công bằng trong hợp đồng, hiện nay trong hợp đồng mà các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền ký kết với người tiêu dùng vẫn còn tồn tại rất nhiều các điều khoản không công bằng. Có những điều khoản trong các hợp đồng cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền quy định về việc thay đổi giá cước thuê bao hàng tháng sẽ được cập nhật tại website của đơn vị cung cấp dịch vụ đó. Về cơ bản đây là một điều khoản không thuộc một trong các điều khoản quy định tại điều 16 Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, việc người tiêu dùng có theo dõi thường xuyên website của đơn vị cung cấp dịch vụ để kịp thời phản ánh việc thay đổi giá cước đó không lại là câu chuyện khác. Đây chỉ là một ví dụ rất nhỏ của sự tồn tại những điều khoản lạm dụng trên thực tế. Vì vậy pháp luật cần phải có một cơ chế rõ ràng hơn trong việc kiểm soát những điều khoản lạm dụng.
Thứ tư, pháp luật không nhất thiết phải liệt kê quá chi tiết các điều khoản cần bắt buộc phải có trong hợp đồng làm giảm đi hiệu quả điều chỉnh của các quy định pháp luật, bên cạnh đó, pháp luật nên quy định về hậu quả pháp lý đối với các nội dung hợp đồng.
4.6. Hoàn thiện pháp luật về việc xử lý hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền
Về cơ bản những hành vi vi phạm pháp luật về hợp đồng theo mẫu trong lĩnh vực truyền hình trả tiền được quy định tại nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động sản xuất thương mại, hàng giả, hàng cấm và bảo vệ người tiêu dùng là rõ ràng và cụ thể, tuy nhiên với mức phạt như hiện tại rất khó để răn đe các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền, đặc biệt là các doanh nghiệp không thực hiện thủ tục đăng ký hợp đồng mẫu. Vì vậy, đề xuất kiến nghị nâng mức phạt để tạo tính răn đe đối với các doanh nghiệp. Đặc biệt là khi các doanh nghiệp không tuân thủ quy định của pháp luật liên quan đến kiểm soát hợp đồng theo mẫu.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Thị Vân Anh (2012), Giáo trình Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
- Nguyễn Thị Ngọc Anh (2011), Pháp luật về hợp đồng dân sự theo mẫu, những kinh nghiệm đối với Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Bộ Tư pháp (2011), “Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ”, Đặc san Pháp luật bảo vệ người tiêu dùng, (06), ngày 26/9/2011.
- Lê Thị Thanh Bình (2012), “Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của một số nước trên thế giới”, Tạp chí Quản lý nhà nước. Học viện Hành chính, (1), tr. 68 - 71.
- Lê Thanh Bình (2012), Thực hiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Cục quản lý cạnh tranh (2006), Sổ tay công tác bảo vệ người tiêu dùng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Cục Quản lý cạnh tranh (VCA) phối hợp với Hiệp hội Truyền hình trả tiền Việt Nam (VNpayTV) (2013), Tài liệu tại Hội thảo “Cạnh tranh và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực truyền hình trả tiền” vào ngày 10/9/2013 tại Hà Nội.
- Đài Truyền hình Việt Nam (2011), Đề án phát triển Đài Truyền hình Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2025, Hà Nội.
- Định Thị Mỹ Loan (chủ biên) (2006), “Hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”, Báo cáo tổng quan đề tài nghiên cứu cấp Bộ.
- Đỗ Giang Nam (2015), Bình luận về các quy định liên quan đến hợp đồng theo mẫu và điều kiện giao dịch chung trong dự thảo bộ luật dân sự (sửa đổi).
- Nguyễn Thị Hằng Nga (2016), Pháp luật về điều kiện thương mại chung - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
- Doãn Hồng Nhung (2013), Pháp luật về hạn chế rủi ro cho người tiêu dùng trong hợp đồng theo mẫu, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Đinh Thị Mai Phương (2008), “Nghiên cứu hoàn thiện cơ chế pháp lý bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, Báo cáo tổng quan đề tài nghiên cứu cấp bộ của Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
- Vũ Thị Thu Thuỳ (2013), Thực trạng vi phạm quyền lợi người tiêu dùng thông qua hợp đồng theo mẫu và nhu cầu hoàn thiện chế định pháp luật về hợp đồng theo mẫu, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.
- Ủy ban Quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin (2014), Sách trắng: Công nghệ thông tin và Truyền thông Việt Nam, Nxb Thông tin và truyền thông.