Luật Lý lịch tư pháp được Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 17/6/2009 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2010. Sau hơn 07 năm thi hành, Luật đã thực sự đi vào cuộc sống, cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp ngày càng tăng của công dân, bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế. Luật Lý lịch tư pháp đặt ra những nhiệm vụ mới, phức tạp và khó khăn trong xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Theo đó, các việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp; cơ chế cung cấp, tiếp nhận, cập nhật, xử lý thông tin lý lịch tư pháp phải được quản lý thống nhất, hiệu quả trong phạm vi cả nước. Do tác động của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mà việc xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đã bắt đầu bộc lộ khá nhiều bất cập, hạn chế. Trước hết, phải kể đến những hạn chế xuất phát ngay từ những quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của cơ quan quản lý nhà nước về cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, việc cung cấp thông tin để xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp theo yêu cầu của Luật Lý lịch tư pháp cũng chưa được thực hiện nghiêm túc trên thực tế ở nhiều địa phương.
Để từng bước nâng cao hiệu quả, chất lượng của hoạt động xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp thì việc đánh giá hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là vấn đề có ý nghĩa thiết thực, vừa làm rõ những ưu điểm, hạn chế của hoạt động này, vừa đề ra những giải pháp nhằm triển khai hữu hiệu các quy định của Luật Lý lịch tư pháp.
- Thực trạng tình hình
Theo quy định thì Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là tập hợp các thông tin lý lịch tư pháp về án tích, thông tin lý lịch tư pháp về cấm đảm nhiệm chức vụ, thành lập, quản lý doanh nghiệp, hợp tác xã được cập nhật và xử lý theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp[1]. Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được xây dựng và quản lý tại Trung tâm lý lịch tư pháp quốc gia thuộc Bộ Tư pháp và tại Sở Tư pháp. Luật Lý lịch tư pháp cũng quy định cụ thể trách nhiệm của Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp trong việc xây dựng, quản lý, sử dụng, khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp; theo đó, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia có nhiệm vụ xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi cả nước, Sở Tư pháp có nhiệm vụ xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Các cơ quan như Tòa án, Kiểm sát, Công an, Quân đội, Thi hành án dân sự…có nhiệm vụ cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp để xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.
Với sự nỗ lực, cố gắng nỗ lực của các Sở Tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và sự phối hợp của các ngành liên quan, công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đã được quan tâm, chú trọng thực hiện và đã dần đi vào nền nếp; nguồn thông tin lý lịch tư pháp đã được khai thông, số lượng thông tin lý lịch tư pháp từ các cơ quan có liên quan cung cấp ngày càng nhiều, thường xuyên và kịp thời hơn và cụ thể trên một số mặt nổi bật đáng chú ý như sau:
- Về công tác phối hợp
Để bảo đảm cho việc cung cấp thông tin được đầy đủ, kịp thời, ngay sau khi Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực, Bộ Tư pháp đã có văn bản đề nghị các Bộ, ngành có liên quan chỉ đạo các đơn vị thuộc Bộ, ngành cung cấp thông tin lý lịch tư pháp cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, các Sở Tư pháp. Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Bộ Tư pháp cũng đã phối hợp với các Cục, Vụ thuộc các Bộ, ngành có liên quan để cùng nhau trao đổi, bàn giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong việc cung cấp thông tin và hàng năm, đều phối hợp với Cục theo dõi thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp (C83), Bộ Công an để đề nghị tháo gỡ khó khăn trong việc phối hợp với các Trại giam, Trại tạm giam, Cơ quan Thi hành án hình sự công an cấp tỉnh trong trao đổi, cung cấp thiếu thông tin. Lãnh đạo Bộ Tư pháp đã thường xuyên làm việc với Lãnh đạo Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong công tác phối hợp với các Bộ, ngành, trong đó có công tác lý lịch tư pháp.
Tại địa phương, ngay sau khi Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực, Ban cán sự Đảng Bộ Tư pháp đã có văn bản gửi Ban Thường vụ Tỉnh ủy, Thành ủy các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về việc đề nghị phối hợp triển khai thực hiện Luật. Nhận thức được tầm quan trọng của công tác triển khai xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, Lãnh đạo thành ủy, tỉnh ủy và UBND của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan của địa phương phối hợp với Sở Tư pháp trong việc cung cấp thông tin lý lịch tư pháp để xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Trên cơ sở chỉ đạo của các Bộ, ngành ở Trung ương và chính quyền địa phương, Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan như Tòa án, Kiểm sát, Công an, Thi hành án dân sự....trên địa bàn tỉnh, thành phố cũng đã thường xuyên phối hợp thông qua nhiều hình thức như ký Quy chế phối hợp cung cấp thông tin, trao đổi bằng văn bản, trao đổi trực tiếp thậm chí còn trực tiếp tham dự cuộc họp giao ban của cơ quan, đơn vị có liên quan. Cho đến nay đã có 49 địa phương có Quy chế phối hợp cung cấp thông tin do UBND tỉnh ban hành hoặc là do các cơ quan liên quan phối hợp ký kết để làm cơ sở cho các cơ quan liên quan tại địa phương trao đổi, xác minh, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp để xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư phápvà cấp Phiếu lý lịch tư pháp.
Để từng bước đưa công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu ý lịch tư pháp đi vào nền nếp, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của địa phương, Bộ Tư pháp đã có Chỉ thị [2] và các văn bản gửi Giám đốc Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo tập trung tăng cường xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Ngoài ra, để trao đổi, thống nhất những vấn đề chưa thực hiện hoặc phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành, Bộ Tư pháp đã chủ trì tổ chức các cuộc họp liên ngành, hoặc làm việc thường xuyên với đại diện lãnh đạo các đơn vị có liên quan thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao, Bộ Lao động Thương bình và Xã hội, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp tháo gỡ vướng mắc trong công tác lý lịch tư pháp nói chung và công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp nói riêng.
- Về việc ứng dụng công nghệ thông tin
Nhận thức được vai trò của công nghệ thông tin trong lĩnh vực lý lịch tư pháp, ngay từ những ngày đầu khi Luật Lý lịch tư pháp được ban hành và triển khai, Bộ Tư pháp đã quan tâm, chú trọng đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác này. Từ năm 2012, Bộ Tư pháp đã thực hiện triển khai Phần mềm Quản lý lý lịch tư pháp dùng chung cho các Sở Tư pháp. Cho đến thời điểm hiện tại, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp đã hoàn toàn thống nhất sử dụng phần mềm để hỗ trợ cho công tác xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu và cấp Phiếu lý lịch tư pháp, về cơ bản đã đáp ứng được các yêu cầu. Từ tháng 5/2015, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia phối hợp Cục Công nghệ thông tin nghiên cứu, đưa vào sử dụng giải pháp trao đổi thông tin lý lịch tư pháp điện tử giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp thay thế việc gửi thông tin lý lịch tư pháp bằng văn bản giấy và hạn chế thông tin phải nhập lại nhiều lần, đến nay việc trao đổi thông tin lý lịch tư pháp giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và Sở Tư pháp 63 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đã được thực hiện hoàn toàn qua đường điện tử. Bên cạnh đó, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia cũng tiếp tục nghiên cứu, xây dựng những giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin khác vào hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp như “Giải pháp tự động hóa công tác xây dựng, quản lý, vận hành và khai thác cơ sở dữ liệu” nhằm giải quyết cơ bản khó khăn về nguồn nhân lực xây dựng cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và chất lượng thông tin lý lịch tư pháp.
Tại các địa phương, ngay từ khi Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực thi hành, một số Sở Tư pháp đã chủ động tiến hành xây dựng Phần mềm riêng để xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và thực hiện cấp Phiếu lý lịch tư pháp. Điển hình, Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những Sở Tư pháp tiến hành ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý lý lịch tư pháp sớm nhất và hiệu quả nhất. Bên cạnh việc Sở Tư pháp đang sử dụng Phần mềm quản lý lý lịch tư pháp dùng chung, một số Sở Tư pháp đã áp dụng nhiều giải pháp công nghệ thông tin khác như: Thí điểm ứng dụng công nghệ thông tin trong tiếp nhận và xử lý hồ sơ “Một cửa điện tử”; xây dựng Đề án và thực hiện mua sắm thiết bị, phần mềm... qua đó tạo điều kiện cho việc kết nối, trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp giữa Sở Tư pháp với Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp khác được nhanh chóng, thuận lợi, dễ dàng, giảm thời gian xử lý thông tin.
- Một số kết quả cụ thể
Sau 7 năm triển khai thi hành Luật, có thể thấy hầu hết các Sở Tư pháp đã quan tâm, chú trọng thực hiện nhiệm vụ xây dựng, quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Một số Sở Tư pháp chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan thiết lập hệ thống cán bộ đầu mối thực hiện công tác cung cấp, tiếp nhận thông tin lý lịch tư pháp cho Sở Tư pháp; tăng cường trao đổi thông tin dưới nhiều hình thức, phương thức như: trực tiếp, qua bưu điện, qua mạng Internet hoặc qua mạng máy tính. Theo con số thống kê sơ bộ cho đến ngày 30/12/2016 thì Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia và các Sở Tư pháp đã tiếp nhận được 3.376.469 thông tin lý lịch tư pháp (trong đó có trên 1.000.000 thông tin do Sở Tư pháp gửi cho Trung tâm và ngược lại). Riêng tại các Sở Tư pháp đã nhận được 2.542.235 thông tin LLTP (75%) và tại Trung tâm nhận được 834.234 thông tin LLTP (25%). Ngoài ra, Trung tâm và các Sở Tư pháp còn nhận được gần 500.000 thông tin về hộ tịch (Sở Tư pháp 436.300 và Trung tâm 59.081thông tin chứng tử, cải chính hộ tịch)[3].
Với nhiệm vụ xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi cả nước, trên cơ sở số lượng thông tin nhận đượcTrung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã thực hiện nhiệm vụ xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, cụ thể đến hết tháng 10/2017 đã kiểm tra, phân loại, lập 5.511 Lý lịch tư pháp, tích hợp 406.984 Lý lịch tư pháp (271.945 Lý lịch tư pháp điện tử) và cung cấp 415.193 thông tin là giấy chứng nhận các loại cho các Sở Tư pháp. Đồng thời, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã lập và đưa vào lưu trữ trên 300.000 hồ sơ lý lịch tư pháp bằng giấy.
Bên cạnh đó, để bảo đảm số lượng thông tin do các cơ quan cung cấp được đầy đủ, thời gian qua,Trung tâm LLTP quốc gia đã tiến hành 07 đợt rà soát với tổng số 1.140.184 thông tin với 1.381 lượt đơn vị cung cấp thông tin[4].
Với nhiệm vụ xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trên cơ sở số lượng thông tin nhận được tính đến hết tháng 10/2017 các Sở Tư pháp trên toàn quốc đã lập 638.607 Lý lịch tư pháp cung cấp cho Trung tâm 576.286 Lý lịch tư pháp (90%), đưa vào lưu trữ 407.156 (63,7%) hồ sơ lý lịch tư pháp bằng giấy.
1.4. Một số khó khăn, tồn tại
Trong thời gian qua, công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đã đạt được những kết quả nhất định và đã được quan tâm, từng bước được hình thành và kiện toàn. Bên cạnh đó, công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp còn một số hạn chế, tồn tại như: công tác xây dựng thể chế; công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Lý lịch tư pháp; công tác phối hợp liên ngành, việc đầu tư kinh phí, cơ sở vật chất, kỹ thuật và ứng dụng công nghệ thông tin…..Tuy nhiên, công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong bối cảnh hiện nay thì chúng ta cần chú ý đến một số tồn tại, khó khăn chủ yếu trong khâu tổ chức thực hiện thời gian qua như sau:
Thứ nhất: Việc Luật Lý lịch tư pháp quy định xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp theo hai cấp tại Sở Tư pháp và Bộ Tư pháp đã bộc lộ những bất cập và lãng phí nguồn lực. Bên cạnh đó, mặc dù Luật Lý lịch tư pháp đã quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, cơ quan có liên quan trong quân đội, Thi hành án dân sự… trong việc cung cấp thông tin cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp để xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và các cơ quan này đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ nhưng tình trạng chậm gửi hoặc không gửi đúng thời hạn vẫn còn xảy ra dẫn đến tình trạng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp không đầy đủ, kịp thời, trong khi chưa có quy định về cơ chế giám sát, bảo đảm cũng như biện pháp chế tài.
Thứ hai: Việc phối hợp cung cấp, rà soát thông tin giữa các cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin và Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp chưa thực sự chặt chẽ. Số lượng thông tin được cung cấp chưa đầy đủ, kịp thời và có sự chênh lệch khá lớn giữa số lượng thông tin được cung cấp với số lượng thông tin do cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư phápnhận được. Bên cạnh đó, hình thức thông tin được cung cấp chậm được đổi mới, hầu hết thông tin được cung cấp trong thời gian qua vẫn dưới dạng văn bản giấy qua đường bưu điện.
Thứ ba: Một số địa phương chưa thực sự quan tâm, chăm lo đến công tác lý lịch tư pháp, đặc biệt là hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp; không biết được số lượng của các cơ quan cung cấp đã đầy đủ chưa, số lượng thông tin huy động được còn tồn đọng, chưa được xử lý tại các Sở Tư pháp còn khá lớn (khoảng 30%)[5]; dữ liệu lý lịch tư pháp điện tử được tạo lập vẫn còn có sai sót, thiếu chính xác, thiếu đồng bộ đã phần nào gây ảnh hưởng đến chất lượng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp;việc xây dựng, tích hợp, chia sẻ thông tin giữa các cơ sở dữ liệu khác nhau chưa được thực hiện.Thực tế này dẫn đến việc tra cứu, xác minh thông tin lý lịch tư pháp, phục vụ công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp phần lớn vẫn còn dựa trên cơ sở thông tin của cơ quan Công an và các cơ quan khác cung cấp.
Thứ tư: Do thông tin lý lịch tư pháp phải thường xuyên phải trao đổi giữa các cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu ở Trung ương và địa phương nên mất nhiều chi phí và thời gian. Mô hình hai cấp cũng khó bảo đảm yêu cầu về an toàn, tính chính xác và đồng bộ của dữ liệu thông tin. Công tác lưu trữ hồ sơ lý lịch tư pháp bằng văn bản giấy tại các địa phương hầu như chưa được thực hiện theo đúng yêu cầu. Việc đầu tư kinh phí, trang thiết bị làm việc, bố trí kho lưu trữ và các trang thiết bị lưu trữ, bảo quản hồ sơ lý lịch tư pháp bằng văn bản giấy còn rất hạn chế.
Thứ năm: Mức độ ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp vẫn còn hạn chế, và chưa đồng đều giữa các cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Tại hầu hết cơ quan đầu mối phối hợp cung cấp thông tin, việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động cung cấp thông tin để xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp chưa được quan tâm đúng mức. Hiện nay, thông tin được cung cấp đều dưới dạng văn bản giấy và chưa có giải pháp đồng bộ nhằm chuẩn hóa nguồn thông tin đầu vào dưới dạng điện tử. Hạ tầng kỹ thuật ứng dụng công nghệ thông tin còn rất khó khăn, chưa đáp ứng được yêu cầu trước mắt cũng như lâu dài của công tác xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp...
2. Nguyên nhân của một số tồn tại, hạn chế
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên thì có nhiều, bao gồm cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan, tuy nhiên ở góc độ trực tiếp liên quan đến công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp thì bao gồm một số nguyên nhân chủ yếu như sau:
2.1. Nguyên nhân chủ quan
Nguyên nhân chủ quan của các tồn tại, hạn chế của công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hiện nay thì có nhiều nhưng nguyên nhân chủ yếu, quan trọng nhất là một số nguyên nhân trong khâu tổ chức thực hiện, cụ thể:
Một là: Nhận thức, quan điểm của con người là chính, đặc biệt nổi lên là đó là nhận thức, quan điểm của một số lãnh đạo Sở Tư pháp về vị trí, vai trò, ý nghĩa của công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp còn hạn chế, chưa đầy đủ và đúng mức và chưa ý thức được nguy cơ phải đối mặt nếu Cơ sở dữ liệu Lý lịch tư pháp yếu kém. Bên cạnh đó, nhận thức của cán bộ, công chức, kể cả những người làm công tác tư pháp còn chưa đầy đủ và đúng mức về vai trò, ý nghĩa của lý lịch tư pháp trong quản lý nhà nước, trong đời sống xã hội.
Một số địa phương chưa thực sự quan tâm, chú trọng và chưa nhận thức hết tầm quan trọng của công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, nguy cơ yếu kém của Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hoặc đã nhận thức được nguy cơ, đã quan tâm nhưng chưa đúng mức, chưa năng động, tranh thủ sự ủng hộ và chưa kịp thời phản ánh những khó khăn, vướng mắc, bất cập cho các cấp Ủy đảng, chính quyền của địa phương. Hầu hết các địa phương yếu kém về công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp thì Lãnh đạo đơn vị đều nêu lên khó khăn về biên chế, kinh phí... Thực tế cho thấy, cùng một điều kiện hoàn cảnh như nhau nhưng việc tổ chức thực hiện tại các địa phương có kết quả khác nhau, ở địa phương nào Lãnh đạo quan tâm thì kết quả rất khá, nhưng cũng cũng có nhiều địa phương làm kém thậm chí chỉ làm cho có hình thức. Có một số địa phương đã xuất hiện tâm lý ỷ lại, trông chờ vào thiện chí của các cơ quan liên quan hoặc các giải pháp do từ trên đưa xuống mà chưa chú trọng vận động, tìm tòi các giải pháp để tích cực xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Nhiều địa phương cho rằng do có mối quan hệ tốt với các ngành, nhất là ngành công an nên không chăm lo công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư phápvì khi cần cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì đã có nguồn xác minh từ cơ quan công an, thậm chí có địa phương đã ký kết Quy chế có điều khoản là cơ quan công an tiếp tục xác minh cho đến bao giờ (không có giới hạn) Sở Tư pháp xây dựng được Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp của mình thì mới thôi hợp tác...
Hai là: Công tác phối hợp tra cứu, xác minh, trao đổi, cung cấp thông tin để xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cấp Phiếu lý lịch tư pháp giữa các cơ quan hữu quan chưa thực sự chặt chẽ, đúng quy định của Luật Lý lịch tư phápvà các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Đến nay vẫn còn 14/63 địa phương chưa có Quy chế phối hợp. Một số địa phương mặc dù đã có Quy chế phối hợp trong việc trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp nhưng việc thực hiện chưa được nghiêm túc, chưa đôn đốc, chậm rà soát, sửa đổi cho phù hợp tình hình thực tế. Bên cạnh đó thì Sở Tư pháp là cơ quan chủ động thì lại thụ động trong việc đôn đốc các cơ quan có nhiệm vụ cung cấp thông tin, rất nhiều Sở Tư pháp chỉ ngồi chờ thông tin đến, nếu có đôn đốc thì chỉ là hình thức như ban hành công văn, điện thoại...chung chung.
Ba là: Do hạn chế nguồn lực con người nên cán bộ được phân công làm công tác lý lịch tư pháp rất hạn chế, nếu có thì các địa phương lại chủ yếu tập trung vào công tác cấp Phiếu lý lịch tư pháp cho công dân,nên cán bộ trực tiếp làm công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp rất hạn chế. Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng, hướng dẫn nghiệp vụ lý lịch tư pháp chưa được thực hiện thường xuyên; trong khi đó, tại nhiều địa phương, cán bộ sau khi tham gia khóa đào tạo về nghiệp vụ lý lịch tư pháp, khi trở lại địa phương công tác thì không được bố trí làm công tác lý lịch tư pháp mà lại điều chuyển sang làm công việc khác theo chính sách luân chuyển cán bộ.
Bốn là: Kinh phí đặc thù cho công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp không có, trong khi đó kinh phí thu được từ hoạt động cấp Phiếu lý lịch tư pháp cũng rất khiêm tốn nhất là các địa phương có số lượng cấp Phiếu lý lịch tư pháp ít cho nên việc hỗ trợ kinh phí cho công tác xây dựng Cơ sở dữ liệulý lịch tư pháp rất hạn chế. Hiện nay, đa số các địa phương chỉ hỗ trợ bằng hình thức làm thêm giờ, bồi dưỡng thêm...nhưng cũng rất hạn chế và thực chất gần như không hỗ trợ công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, tình trạng này dẫn đến công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp rất khó khăn.
2.2. Nguyên nhân khách quan
Một số nguyên nhân khách quan xuất phát từ vấn đề về thể chế, như: Một số nội dung cải cách tư pháp liên quan đến hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự, cải cách mô hình tổ chức hệ thống tòa án đang trong quá trình hoàn thiện. Luật Lý lịch tư pháp được ban hành trong bối cảnh thể chế hóa các chủ trương, quan điểm đề ra tại Nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 1992 cũng như phù hợp, đồng bộ với các đạo luật cơ bản vào thời điểm đó như Bộ luật Dân sự 2005, Bộ luật Hình sự 1999, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 ... Tuy nhiên, sau hơn 07 năm thi hành, hiện nay, tình hình đất nước đã có nhiều chuyển biến lớn về chính trị, kinh tế - xã hội. Đặc biệt, các đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đã từng bước được cụ thể hóa mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp 2013; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam cũng được thể hiện ở các văn kiện, hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đã có nhiều thay đổi nên Luật Lý lịch tư pháp chưa cập nhật được những nội dung, tư tưởng mới theo Hiến pháp năm 2013 cũng như những quy định mới có liên quan của Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Bên cạnh đó, việc xây dựng, quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là nhiệm vụ hoàn toàn mới được giao cho ngành Tư pháp từ khi Luật Lý lịch tư pháp có hiệu lực thi hành nên việc triển khai thực hiện thời gian đầu còn nhiều khó khăn, lúng túng. Luật Lý lịch tư pháp được triển khai trong bối cảnh việc mua sắm tài sản và bố trí biên chế được thắt chặt theo tinh thần Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 24/02/2011 của Chính phủ về những giải pháp chủ yếu tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và Nghị quyết số 39 – NQ/TW ngày 17/4/2015 của Ban Chấp hành Trung ương về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nên vô hình chung đã tạo ra nhiều thách thức, khó khăn.
Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác bao gồm cả chủ quan lẫn khách quan như: Luật Lý lịch tư pháp đã quy định cụ thể về trách nhiệm của các cơ quan Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, cơ quan có liên quan trong quân đội, Thi hành án dân sự… trong việc cung cấp thông tin cho Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, Sở Tư pháp để xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư phápvà các cơ quan này đã có nhiều cố gắng thực hiện nhiệm vụ nhưng do chưa có quy định về cơ chế bảo đảm, cũng như biện pháp chế tài nên tình trạng chậm gửi hoặc không gửi đúng thời hạn vẫn còn xảy ra…
3. Một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp
Để tăng cường hiệu quả công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, giải quyết được những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn triển khai, ngoài một số giải pháp lâu dài giải quyết đồng bộ các tồn tại, vướng mắc về thể chế, nhân sự, kinh phí ...thì trước mắt chúng ta cần tập trung vào một số nội dung cấp bách trong việc tổ chức thực hiện hiện tại như sau:
Một là: Tăng cường hoạt động tuyên truyền nâng cao nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức về lý lịch tư pháp: Có thể khẳng định là cho đến nay về công tác xây dựng thể chế mặc dù còn một số bất cập nhưng về cơ bản đã đầy đủ, đáp ứng căn bản yêu cầu của việc thực hiện, triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp tại các địa phương. Công tác phối hợp chỉ đạo của các cơ quan liên quan ở cấp trung ương đã đầy đủ, kịp thời…Vấn đề chính còn lại ở đây là công tác triển khai thi hành, phối hợp thực hiện tại các địa phương. Vì vậy, quan trọng nhất hiện nay là vấn đề nhận thức của Lãnh đạo các địa phương để có giải pháp tổ chức thực hiện công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại địa phương để được đầy đủ, kịp thời để đáp ứng yêu cầu khai thác cấp Phiếu lý lịch tư pháp hay nói cách khác là để được tự đứng vững trên đôi chân của mình. Đó là việc tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật Lý lịch tư pháp và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm nâng cao nhận thức của cá nhân, cơ quan, tổ chức về vị trí, vai trò của cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong đời sống xã hội, trong quản lý nhà nước và trong hỗ trợ hoạt động tố tụng hình sự. Tại các Sở Tư pháp cần quán triệt nhất quán về vị trí, vai trò của Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cũng như những thách thức của ngành trong thời gian tới.
Hai là: Tăng cường phối hợp với các cơ quan có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp: Tăng cường sự phối hợp giữa Bộ Tư pháp và Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng để chủ động hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn trong thi hành Luật Lý lịch tư pháp và các quy định có liên quan của Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự, v.v, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, cơ sở áp dụng thống nhất, bảo đảm thực hiện có hiệu quả hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Khuyến khích xây dựng quy chế phối hợp liên ngành trong trao đổi, cung cấp thông tin lý lịch tư pháp tại các địa phương nhằm thiết lập, tăng cường cơ chế thông tin, phối hợp thường xuyên giữa Sở Tư pháp và Tòa án, Viện Kiểm sát, cơ quan Công an, Thi hành án dân sự trong triển khai thi hành Luật Lý lịch tư pháp.
Ba là: Nâng cao hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp: Các cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp thường xuyên tiếp nhận một số lượng lớn thông tin lý lịch tư pháp do các cơ quan liên quan như Công an, Tòa án, Viện Kiểm sát nhân dân, v.v cung cấp. Giữa các cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cũng có sự trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau. Số lượng thông tin lý lịch tư pháp tiếp nhận cần phải được cập nhật một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Việc cấp Phiếu lý lịch tư pháp đòi hỏi phải nhanh chóng, chính xác, để làm được điều đó thì cần phải có một Cơ sở dữ liệu về lý lịch tư pháp mà trong đó phục vụ tra cứu ban đầu đó chính là Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp điện tử. Dữ liệu lý lịch tư pháp điện tử cần được xây dựng, tổ chức bài bản, tập trung và công cụ tìm kiếm nhanh chóng, chính xác.
Trên cơ sở thiết lập, tăng cường cơ chế phối hợp đồng bộ, toàn diện, hiệu quả giữa cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và cơ quan có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin, hướng tới xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp quốc gia tập trung, thống nhất tại Bộ Tư pháp. Gắn việc xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp với cấp Phiếu lý lịch tư pháp, đáp ứng tốt nhất yêu cầu của cá nhận, cơ quan, tổ chức. Ứng dụng công nghệ thông tin trong xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là một trong những giải pháp rất quan trọng và cần thiết đối với hoạt động xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Mặt khác, để có thể xây dựng, chuyển đổi cơ sở dữ liệu theo mô hình 01 cấp như mục tiêu đã đề ra, đồng thời nhằm giải quyết những khó khăn, hạn chế cơ bản hiện nay trong công tác lý lịch tư pháp, đặc biệt là khó khăn về nguồn nhân lực tại các địa phương hiện nay, cần triển khai ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cụ thể một số vấn đề sau:
Thứ nhất, việc tập trung nguồn lực để xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cần phải được chỉ đạo quyết liệt, nhất quán để phục vụ hiệu quả công tác tra cứu, cấp Phiếu lý lịch tư pháp, bảo đảm từng bước chủ động trong xây dựng, sử dụng, khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp của ngành theo quy định của Luật Lý lịch tư pháp.
Thứ hai, để khắc phục tình trạng tồn đọng thông tin lý lịch tư pháp, hướng tới xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp ngày càng hoàn thiện, góp phần thực hiện có hiệu quả vai trò quản lý nhà nước về Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia đã đề xuất xây dựng, triển khai giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa hoạt động xây dựng, sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp (gọi tắt là giải pháp phần mềm “Khắc nhập, khắc xuất”). Giải pháp này nếu được triển khai sẽ góp phần giảm gánh nặng biên chế cho các Sở Tư pháp, công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp tại các địa phương sẽ bảo đảm sự chính xác của các thông tin.
Thứ ba, cần xúc tiến thiết lập đồng bộ hệ thống cung cấp, trao đổi thông tin lý lịch tư pháp giữa các cơ quan có nhiệm vụ cung cấp thông tin và cơ quan quản lý Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trên môi trường mạng, hướng tới thông tin lý lịch tư pháp được chính thức trao đổi giữa Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia, các Sở Tư pháp và các cơ quan có liên quan được thực hiện dưới dạng điện tử.
Thứ tư, thiết lập và thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin giữa Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu chuyên ngành khác có liên quan (cơ sở dữ liệu của Tòa án, Kiểm sát, Thi hành án dân sự, Thi hành án hình sự, hộ tịch, v.v).
Bốn là: Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện Luật Lý lịch tư pháp: Tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật quản lý nhà nước về Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp, đặc biệt là phối hợp liên ngành kiểm tra hoạt động cung cấp, tiếp nhận, xác minh thông tin lý lịch tư pháp, phục vụ công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp là việc làm hết sức cần thiết.Thực tế cho thấy cứ đơn vị nào được kiểm tra thì sau đó công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp được cải thiện, biến chuyển nâng lên một bước. Có nhiều đơn vị khi được đôn đốc, nhắc nhở thì Sở Tư pháp mong được về kiểm tra để cho Lãnh đạo cấp trên biết được thực chất công việc đã làm và những khó khăn, phức tạp và tầm quan trọng của công việc từ đó nâng cao nhận thức, quan điểm của công tác xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.
Xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp trong thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy vậy, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau. Những tồn tại này xuất phát từ nhiều nguyên nhân đòi hỏi cần phải có những giải pháp kịp thời tháo gỡ. Trong các giải pháp này, có những giải pháp cần thực hiện ngay, có những giải pháp khi thực hiện cần phải có lộ trình, điều kiện, thời gian, không gian khác nhau. Do vậy, khi áp dụng các giải pháp chúng ta cần phải tính toán khách quan, toàn diện, ứng dụng linh hoạt và xác định lộ trình thực hiện cho các giải pháp đã đưa ra để phát huy những thành quả đã đạt được, đồng thời, nâng cao hơn nữa hiệu quả xây dựng Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp và để Luật Lý lịch tư pháp thực sự đi vào cuộc sống, cơ bản đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước và nhu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp ngày càng tăng của công dân, bảo đảm phù hợp với tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nền hành chính chuyên nghiệp, hiện đại và hội nhập quốc tế.
Nguyễn Văn Thắng
Trung tâm Lý lịch tư pháp quốc gia
[1]:Điều 11 Luật Lý lịch tư pháp
[2]:Chỉ thị số 02/CT-BTP ngày 09/3/2015 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp về việc tăng cường xây dựng, quản lý, sử dụng và khai thác Cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp.
[3],[4,[5]:Báo cáo số 173/BC-BTPngày 20 tháng 6 năm 2017của Bộ Tư pháp về tổng kết 6 năm thi hành Luật Lý lịch tư pháp