Biện pháp bảo lĩnh trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và kiến nghị

31/10/2016
Biện pháp bảo lĩnh được quy định từ rất sớm trong pháp luật tố tụng hình sự của Nhà nước ta, dù là biện pháp ưu việt được quy định tại Điều 75[1] BLTTHS năm 1988; Điều 92[2] BLTTHS năm 2003, song thực tiễn áp dụng biện pháp bảo lĩnh của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT), dù chưa có sự tổng kết đánh giá về hiệu quả của biện pháp này, cũng như các nguyên nhân hạn chế ra sao từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Nhưng từ thực tiễn cho thấy, rất ít được các CQTHTT áp dụng do còn thiếu nhiều quy phạm hướng dẫn cụ thể cần làm sáng tỏ xung quanh chế định này, như: Theo quy định có thể thấy bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay cho tạm giam, tuy nhiên, pháp luật chưa quy định cụ thể những loại tội phạm nào thì được bảo lĩnh, vì vậy, việc có được bão lĩnh cho bị can, bị cáo đang bị tạm giam hay không là hoàn toàn tùy thuộc vào ý chí chủ quan của cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Thậm chí bị can, bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và là người già, bệnh nặng; người tàn tật nặng hoặc đặc biệt nặng nhưng vẫn không được cho bảo lĩnh. Mặt khác, do luật không quy định người bảo lĩnh phải đặt tiền, cũng không quy định cụ thể trách nhiệm của cá nhân, tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ cam đoan, nên không phát huy được hiệu lực, hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này. Nhiều trường hợp người nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo trốn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án nhưng chưa có biện pháp xử lý trách nhiệm của người nhận bảo lĩnh.
Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, quy định tại Điều 8 BLTTHS năm 2015, mà theo đó, khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không cần thiết. Đồng thời để khắc phục những hạn chế trên, BLTTHS năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung cơ bản về biện pháp bảo lĩnh, theo hướng hoàn thiện hơn, cụ thể, Điều 121 của Bộ luật này, quy định về bảo lĩnh như sau:
1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
2. Cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Cá nhân là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ và trong trường hợp này thì ít nhất phải có 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập.
Trong giấy cam đoan, cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ quy định tại khoản 3 Điều này. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
3. Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ:
a) Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan;
b) Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội;
c) Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.
4. Những người có thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này, Thẩm phán chủ tọa phiên tòa có quyền ra quyết định bảo lĩnh. Quyết định của những người quy định tại điểm a khoản 1 Điều 113 của Bộ luật này phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành.
5. Thời hạn bảo lĩnh không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử theo quy định của Bộ luật này. Thời hạn bảo lĩnh đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
6. Cơ quan, tổ chức, cá nhân nhận bảo lĩnh để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật.”
Theo quy định vừa nêu, Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Do vậy, chúng ta cần hiểu rằng biện pháp bảo lĩnh được áp dụng khi bị can, bị cáo đang bị tạm giam, nếu có đủ các điều kiện quy định và xét thấy cần thiết thay đổi biện pháp tạm giam thì người có thẩm quyền quyết định áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh. Ở biện pháp này, nhà làm luật đã quy định chặt chẽ, chi tiết hơn nhiều nội dung chưa có trong BLTTHS năm 2003, cụ thể, trong trường hợp bảo lĩnh, nếu người bảo lĩnh là cá nhân thì phải đủ 18 tuổi trở lên; có thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý được người bảo lĩnh; phải là người thân của bị can, bị cáo và trong trường hợp này phải có ít nhất hai người; nội dung cam đoan của bị can, bị cáo trong biện pháp nêu trên cũng được quy định cụ thể, chi tiết. Một nội dung quan trọng đó là quy định bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam. Thời hạn áp dụng các biện pháp nêu trên cũng được quy định đầy đủ hơn, đó là, thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử. Thời hạn áp dụng đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
Mặc dù là một biện pháp thay thế, nhưng biện pháp bảo lĩnh có tính chất ít nghiêm khắc hơn so với tạm giam, nó không làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo, không tách họ ra khỏi cộng đồng.
Qua việc phân tích này, có thể đưa ra một khái niệm về bảo lĩnh như sau: Bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn trong Luật tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có thẩm quyền ở các cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định để thay thế biện pháp tạm giam, nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Từ khái niệm vừa nêu, có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản của biện pháp bảo lĩnh như sau:
Một là, bảo lĩnh là một trong những biện pháp ngăn chặn trong Luật TTHS;
Hai là, bảo lĩnh là một biện pháp ngăn chặn có tính ít nghiêm khắc hơn;
Ba là, bảo lĩnh là một  biện pháp ngăn chặn được áp dụng để thay thế biện pháp tạm giam;
Bốn là, đối tượng  được áp dụng biện pháp bảo lĩnh chỉ có thể là bị can, bị cáo;
Năm là, để áp dụng biện pháp bảo lĩnh, chủ thể tiến hành tố tụng phải dựa vào các căn cứ và điều kiện nhất định;
Sáu là, biện pháp bảo lĩnh phải được tiến hành bởi người có thẩm quyền ở các CQTHTT và theo một trình tự luật định;
Bảy là, mục đích của biện pháp bảo lĩnh là nhằm bảo đảm không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử đồng thời bảo đảm sự có mặt của họ theo giấy triệu tập của các CQTHTT.
Biện pháp bảo lĩnh thể hiện sự gắn kết chặt chẽ ba chủ thể trong hoạt động tố tụng hình sự: CQTHTT - Bị can, bị cáo - Chủ thể đứng ra nhận bảo lĩnh có nghĩa vụ pháp lý từ khi có quyết định cho bảo lĩnh. Tính ưu việt của biện pháp này là tạo điều kiện cho những người khác trong cộng đồng phát huy trách nhiệm cá nhân tham gia vào quản lý, giáo dục bị can, bị cáo.
Song song đó, cũng cần phân biệt biện pháp bảo lĩnh với một số biện pháp ngăn chặn khác được quy định tại Điều 122, Điều 123 BLTTHS năm 2015, đó là:
-Cấm đi khỏi nơi cư trú: Nếu như biện pháp bảo lĩnh không hạn chế các quyền công dân thì biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú làm hạn chế quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo. Bị can, bị cáo không được tự ý rời khỏi nơi cư trú của mình. Trong thời gian bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú bị can, bị cáo phải chịu sự giám sát, quản lý của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi bị can, bị cáo cư trú.
-Đặt tiền để bảo đảm: Bên cạnh các căn cứ để áp dụng giống biện pháp bảo lĩnh thì biện pháp đặt tiền để bảo đảm, còn quy định CQTHTT có quyền tịch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền họ đã đặt nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan. Nếu bị can, bị cáo chấp hành đầy đủ nghĩa vụ đã cam đoan thì CQTHTT có nghĩa vụ trả lại cho họ số tiền đã đặt.
Biện pháp bảo lĩnh cho thấy vai trò mềm dẻo, linh hoạt trong việc thu hút sự tham gia của gia đình, cơ quan, tổ chức giám sát và giáo dục, nhằm hướng cho các bị can, bị cáo lầm đường, lỡ bước, có cơ hội được tái hòa nhập xã hội. Biện pháp bảo lĩnh cho thấy ý nghĩa nhân văn sâu sắc của chính sách pháp luật tố tụng hình sự nước ta, thể hiện một tầm nhìn có tâm của nhà làm luật, cũng chính là hành động bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần thúc đẩy công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm ngày một hiệu quả hơn. Hướng tới các quyền tự do, dân chủ của con người là mục tiêu phấn đấu của mọi quốc gia trên thế giới. Nhà nước cho phép CQTHTT sử dụng các biện pháp ngăn chặn cần thiết, phù hợp với mục đích đề ra nhưng vẫn bảo đảm các quyền cơ bản của công dân.
Nghiên cứu biện pháp bảo lĩnh trong Luật tố tụng hình sự một số nước thấy rằng: Biện pháp bảo lĩnh chỉ áp dụng đối với cá nhân, để bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của các cơ quan tiến hành tố tụng đúng thời gian quy định và không cản trở hoạt động tố tụng đối với vụ án. Người nhận bảo lĩnh phải đặt một khoản tiền; nếu vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì số tiền đã đặt bị sung công quỹ Nhà nước, người nhận bảo lĩnh có thể còn bị phạt. Cụ thể:
-BLTTHS Cộng hòa liên bang Đức được ban hành ngày 07/4/1987. Lần sửa đổi gần đây nhất là sửa đổi Điều 5, Tiểu  mục 4, ngày 10/10/2013. Trong BLTTHS của Đức, biện pháp bảo lĩnh được quy định tại Chương 1, Phần 9, cụ thể: Điều 123, Điều 124 BLTTHS và một số quy định mang tính dẫn chiếu như Điều 112, Điều 113, Điều 116, Điều 120, 125, 126 của Bộ luật này.
+Căn cứ áp dụng: Dựa vào tính chất của vụ án, hình phạt dự kiến, các biện pháp cải tạo và phòng ngừa để xem xét khả năng áp dụng biện pháp bảo lĩnh. Bên cạnh đó, xem xét căn cứ áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, cho thấy bảo lĩnh có thể được áp dụng đối với tội phạm chỉ bị áp dụng mức phạt tù giam đến 6 tháng, hoặc phạt tiền đến một trăm tám mươi đơn vị tính theo ngày (daily units) nếu họ đảm bảo làm giảm đáng kể khả năng gây khó khăn cho việc thu thập chứng cứ.
+Thẩm quyền áp dụng: Thẩm phán quyết định biện pháp áp dụng (Điều 126).
+Đối tượng áp dụng: LTTHS của CHLB Đức quy định đối tượng áp dụng biện pháp bảo lĩnh là bị can. Theo Điều 157 thì bị can là người đã có quyết định truy tố.
+Thủ tục áp dụng: Sau khi Thẩm phán chuyên trách xem xét và ban hành quyết định về việc đình chỉ thi hành lệnh bắt và khi có người nộp tiền bảo lĩnh theo quy định thì bị can có thể được trả tự do.
+Chủ thể nhận bảo lĩnh: Đó có thể là một người họ hàng hoặc người mà bị can tin tưởng.
+Chế độ trách nhiệm: Tiền bảo lĩnh không được trả lại mà sẽ bị tịch thu, chuyển cho Kho bạc nếu bị can trốn tránh, cản trở việc điều tra; khi thi hành hình phạt tù giam hoặc biện pháp cải tạo có giam giữ.
-LTTHS của Cộng hòa Liên bang Nga được Đuma quốc gia thông qua ngày 22/11/2001 và được Quốc hội phê chuẩn ngày 05/12/2001. Biện pháp bảo lĩnh được ghi nhận tại Điều 97, 98, 99 và Điều 103,105 trong BLTTHS.
+Căn cứ áp dụng: Được quy định tại Điều 97, Điều 99 của LTTHS nước này.
+Đối tượng áp dụng: Điều 46 và Điều 47 . Người bị tình nghi; bị can.
+Thẩm quyền áp dụng: Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.
+Chủ thể nhận bảo lĩnh: Theo khoản 2 Điều 103 được hiểu là một cá nhân hoặc một số cá nhân có thể là người nhận bảo lĩnh. Điều luật không có quy định về tiêu chuẩn để cá nhân trở thành người nhận bảo lĩnh cho người bị tình nghi.
+Thủ tục bảo lĩnh: Khi nhận bảo lĩnh thì người nhận bảo lĩnh phải cam đoan bằng văn bản bảo đảm người bị tình nghi hoặc bị can phải thực hiện các nghĩa vụ đã   cam đoan.
+Chế độ  trách  nhiệm: Trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì họ có thể bị phạt một khoản tiền đến 10 lần mức thu nhập tối thiểu theo thủ tục quy định (khoản 4 Điều 103).
-BLTTHS của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, gồm 5 phần, với 290 điều. Biện pháp bảo lĩnh được quy định trong Phần thứ nhất, Chương 6, cụ thể tại Điều 50, Điều 51, 52, 53, 54, 55, 56, 58, 60.
+Căn cứ áp dụng: Có khả năng tuyên phạt quản chế, cải tạo không giam giữ hoặc áp dụng hình phạt bổ sung; có thể bị tuyên phạt tù có thời hạn tối thiểu và sẽ không gây nguy hại cho xã hội; Bị bệnh nặng, không thể tự chăm sóc bản thân, phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú, áp dụng bảo lĩnh sẽ không gây nguy hại cho xã hội (Điều 51).
+Đối tượng áp dụng: Có thể là bị can, bị cáo.
+Thẩm quyền áp dụng: TAND, VKSND hoặc cơ quan công an (Điều 53).
+Chủ thể nhận bảo lĩnh: Có thể áp dụng một trong hai hình thức: Người khác đứng ra bảo lĩnh; hoặc chính bản thân bị can, bị cáo đóng tiền bảo lĩnh cho mình (Điều 52).
+Thủ tục áp dụng: Bị can, bị cáo, người nhận bảo lĩnh của họ phải có đơn đề nghị áp dụng biện pháp bảo lĩnh.
+Thời hạn bảo lĩnh: Tối đa không quá 12 tháng (Điều 58).
+Chế độ trách nhiệm: Nếu bị can, bị cáo có người bảo lĩnh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vi phạm những quy định của đoạn trên, tiền bảo lĩnh đã đặt sẽ bị tịch thu.
-BLTTHS của Nhật Bản được thông qua ngày 10/7/1948, lần sửa đổi gần đây nhất vào năm 2006. Biện pháp bảo lĩnh được quy định tại các Điều 88, 89, 90, 91, 92, 93, 94, 96, 97, 98.
+Căn cứ áp dụng: Tòa án có thể cho phép bảo lĩnh nếu có lý do để tin rằng bị can có nơi ở cố định, bị can không bỏ trốn, không gây cản trở cho quá trình giải quyết vụ án, có đề cập đến việc xem xét bản chất và hoàn cảnh của tội phạm, năng lực chứng minh chứng cứ của bị can và tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chứng cứ của vụ án cũng như nhân thân và tài sản của bị can.
+Thẩm quyền áp dụng: Tòa án ra quyết định hủy việc tạm giam hoặc ra quyết định cho phép bảo lĩnh theo yêu cầu của Công tố viên.
+Chủ thể áp dụng: Có thể là bị can đang bị tạm giam, người bào chữa, người đại diện hợp pháp, người giám hộ, người có quan hệ hôn phối, thân tộc trực hệ, anh chị em ruột của bị can (Điều 82). Họ có quyền yêu cầu tòa án tiết lộ về lý do tạm giam bị can.
+Thủ tục áp dụng: Muốn bảo lĩnh bị can, người nhận bảo lĩnh làm đơn yêu cầu gửi tới tòa án có thẩm quyền.
+Chế độ trách nhiệm: Khi vi phạm nghĩa vụ, Tòa án xem xét và ra quyết định hủy bỏ việc bảo lĩnh, tịch thu toàn bộ hoặc một phần tiền bảo lĩnh. Với bị can thì khi đã hủy bỏ biện pháp bảo lĩnh sẽ  bị áp dụng một  biện pháp ngăn chặn khác nghiêm khắc hơn chẳng hạn như giam bị can tại thiết chế hình sự[3].
Trên cơ sở tham khảo chế định “bảo lĩnh” trong luật tố tụng hình sự của một nước vừa trình bày, nội dung quy định tại Điều 121 BLTTHS năm 2015 về bảo lĩnh, để quy định này thật sự phát huy hiệu quả như mong muốn khi áp dụng vào thực tiễn không gặp phải nhiều vướng mắc như những quy định như trước đây, tác giả đề xuất với các cơ quan tư pháp trung ương xem xét ban hành Thông tư liên tịch hướng dẫn áp dụng chế định này, khi BLTTHS năm 2015 chính thức có hiệu lực thi hành, theo hướng cụ thể hơn, chi tiết hơn mà nhà làm luật chưa thể quy định trong nội dung tại Điều 121 như đã đề cập. Mà theo đó, Thông tư liên tịch nếu được ban hành , theo tác giả cần giải quyết triệt để những vấn đề đặt ra từ thực tiễn nhiều năm qua còn vướng mắc, đó là:
Thứ nhất: Quy định rõ căn cứ áp dụng biện pháp bảo lĩnh: Từ quy định tại Khoản 1 Điều 121 BLTTHS năm 2015, cần làm rõ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi của người bị buộc tội đến đâu thì CQTHTT không giải quyết cho bảo lĩnh. Thực chất của quy định này là hướng đến những loại tội phạm nào thì CQTHTT cho bảo lĩnh và loại tội phạm nào thì không giải quyết cho bảo lĩnh. Bởi theo quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015, căn cứ vào vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được quy định trong Bộ luật này, tội phạm được phân thành bốn loại sau: Tội phạm ít nghiêm trọng; tội phạm nghiêm trọng; tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Theo quan điểm của tác giả, một trong những căn cứ mà chỉ có thể giải quyết cho bảo lĩnh với trường hợp người bị buộc tội bị điều tra, truy tố, xét xử về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng nhưng do lỗi phạm vô ý. Trừ nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia.
Thứ hai: Quy định điều kiện đối với người nhận bảo lĩnh: Người bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải đặt một khoản tiền, và số tiền phải có giá trị ít nhất bằng 10 lần mức lương tối thiểu tại thời điểm bảo lĩnh; bảo lĩnh phải bằng tiền hoặc giấy tờ bảo đảm có giá trị thanh toán bằng tiền (không quy định bảo lĩnh bằng tín chấp hoặc bằng đồ vật). Người nhận bảo lĩnh có thể Luật sư tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa cho bị can, bị cáo.
Là cá nhân cư trú cùng địa phương với bị can, bị cáo được bảo lĩnh để bảo đảm sự giám sát để có thể kịp thời báo cáo ngay đến CQTHTT khi phát hiện người được bảo lĩnh có thể thực hiện hoặc đã thực hiện những hành vi vi phạm mà pháp luật cấm hoặc vi phạm những nội dung mà họ đã cam đoan thực hiện những nghĩa vụ trước đó với CQTHTT đã giải quyết cho bảo lĩnh. Nếu người nhận bảo lĩnh vi phạm các nghĩa vụ đã cam đoan để người được bảo lĩnh thực hiện hành vi vi phạm các quy định pháp luật thì họ bị phạt tiền và số tiền bảo lĩnh bị sung quỹ Nhà nước.
Thứ ba: Quy định hạn chế bảo lĩnh: Chỉ áp dụng biện pháp bảo lĩnh khi có các điều kiện sau: Bị can, bị cáo phạm tội lần đầu; có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người tàn tật nặng hoặc đặt biệt nặng; phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; người già, bệnh nặng, người chưa thành niên. Có căn cứ xác định sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của CQTHTT; việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương.
 Không áp dụng bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; bị can, bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã; là đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; người nghiện ma túy; hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây dư luận trong xã hội.
Tóm lại:
Pháp luật của Nhà nước ta luôn tôn trọng quyền con người trong đó có quyền tự do, dân chủ. Để đảm bảo các quyền được thực hiện, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng nhiều chính sách pháp luật mang tính nhân đạo hướng tới bảo vệ các giá trị con người và pháp luật tố tụng hình sự là một trong số đó. Pháp luật cho phép các CQTHTT sử dụng các biện pháp ngăn chặn trong những trường hợp cần thiết, phù hợp với mục đích của biện pháp nhưng không gây ảnh hưởng tới các quyền cơ bản của công dân. Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời.
Với tư cách là một biện pháp ngăn chặn, biện pháp bảo lĩnh chính là công cụ hỗ trợ đắc lực các CQTHTT thực thi pháp luật, nhưng cũng chính nó là phương tiện bảo vệ đảm bảo bị can, bị cáo được thực hiện các quyền cơ bản mà không bị hạn chế. Biện pháp bảo lĩnh không chỉ xuất phát từ sự tác động các CQTHTT mà nó còn thu hút sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Nó còn là sự gắn kết trách nhiệm, thể hiện tình cảm, sự tin tưởng người nhận bảo lĩnh và quyết tâm cải tạo của bị can, bị cáo.
 
ThS.LS Lê Văn Sua – Đoàn luật sư tỉnh Tiền Giang
 
[1] Điều 75. Bảo lĩnh.
1- Cá nhân hoặc tổ chức có thể nhận bảo lĩnh bị can, bị cáo. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh. Trong trường hợp cá nhân nhận bảo lĩnh thì ít nhất phải có hai người.
2- Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh phải chịu trách nhiệm về vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan.
 
[2] Điều 92. Bảo lĩnh
1. Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.
2. Cá nhân có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của họ. Trong trường hợp này thì ít nhất phải có hai người. Tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức của mình. Khi nhận bảo lĩnh, cá nhân hoặc tổ chức phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội và bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án. Khi làm giấy cam đoan, cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh được thông báo về những tình tiết của vụ án có liên quan đến việc nhận bảo lĩnh.
3. Những người quy định tại khoản 1 Điều 80 của Bộ luật này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có quyền ra quyết định về việc bảo lĩnh.
4. Cá nhân nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải là người có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật. Việc bảo lĩnh phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc. Đối với tổ chức nhận bảo lĩnh thì việc bảo lĩnh phải có xác nhận của người đứng đầu tổ chức.
5. Cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ đã cam đoan và trong trường hợp này bị can, bị cáo được nhận bảo lĩnh sẽ bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
 
[3] Phạm Minh Huấn, Biện pháp bảo lĩnh trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb CTQG, tr. 96-112.