Tập trung kinh tế theo quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 và kiến nghị

28/10/2016
Hiện nay, dưới sức ép của cạnh tranh, nhà kinh doanh luôn tìm cách nâng cao năng lực kinh doanh để có thể tồn tại và phát triển bằng cách tập trung các nguồn lực kinh tế ngay từ thời kỳ phôi thai của thị trường. Hình thức tập trung nguồn lực kinh doanh này đã diễn ra khá phổ biến với những mức độ khác nhau và trở thành một phần quan trọng của quyền tự do kinh doanh. Cùng với đó là những quy định về kiểm soát tập trung kinh tế (TTKT) được xác lập nhằm giới hạn và điều tiết của nhà nước vào hiện tượng kinh tế này. Có thể nói, TTKT là một xu hướng phát triển tất yếu trong nền kinh tế thị trường và luôn cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, hành lang pháp lý đồng bộ để kiểm soát TTKT một cách hữu hiệu nhất. Luật Cạnh tranh năm 2004 (LCT năm 2004) được Quốc hội khóa XI thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2005, cùng với đó, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều nghị định, thông tư quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành nhiều nội dung của Luật này, trong đó có nội dung điều chỉnh hiện tượng TTKT. Hơn 11 năm thực hiện (2004-2015), bên cạnh những ưu điểm, pháp luật về cạnh tranh đã có sự điều chỉnh các quan hệ phát sinh ra sao so với thực tiễn hiện tượng TTKT diễn ra. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ giới hạn đề cập đến quy định của pháp luật hiện hành về TTKT và những bất cập, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh ở nước ta.
1. Khái niệm tập trung kinh tế
Trong khoa học kinh tế và khoa học pháp lý, khái niệm TTKT ở Việt Nam được bình luận ở nhiều góc độ khác nhau. Nhưng tựu trung lại có ba cách tiếp cận cơ bản, đáng quan tâm sau:
Một là, với tư cách là quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi của cấu trúc thị trường, TTKT trên thị trường được hiểu là quá trình mà số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường bị giảm đi thông qua các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất. Cách nhìn nhận này đã làm rõ nguyên nhân và ảnh hưởng của TTKT đối với cấu trúc thị trường cạnh tranh.
Hai là, với tính chất là hành vi của các doanh nghiệp, TTKT (còn gọi là tập trung tư bản) được hiểu là sự gia tăng tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại hoặc một tư bản này thu hút một tư bản khác. Hướng tiếp cận này lại không đưa ra các biểu hiện cụ thể của TTKT, nhưng lại cho thấy bản chất và phương thức của hiện tượng.
Ba là, dưới góc độ pháp luật, Luật Cạnh tranh năm 2004 (LCT năm 2004) không quy định thế nào là tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hành vi được coi là TTKT. Theo đó, khoản 3 Điều 3 Luật này khẳng định TTKT là hành vi hạn chế cạnh tranh; Điều 16 quy định TTKT là hành vi của doanh nghiệp gồm: sáp nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các doanh nghiệp, các hành vi TTKT khác theo quy định của pháp luật.
Như vậy, cho dù được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, TTKT vẫn có 3 đặc điểm cơ bản sau:
i). Chủ thể của TTKT là các doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường. Các doanh nghiệp tham gia TTKT có thể là các doanh nghiệp hoạt động trong cùng hoặc không cùng thị trường liên quan.
ii). Hành vi TTKT được thể hiện dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật.
iii). TTKT đã hình thành nên doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh tổng hợp hoặc liên kết thành nhóm doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế, từ đó làm thay đổi cấu trúc thị trường và tương quan cạnh tranh hiện có trên thị trường.
Theo pháp luật về cạnh tranh, các hình thức tập trung kinh tế bao gồm tập trung theo chiều ngang, tập trung theo chiều dọc hoặc tập trung theo đường chéo (tập trung hỗn hợp).  LCT năm 2004, quy định có 4 hình thức cơ bản tại Điều 16 và Điều 17 LCT, như sau:
Thứ nhất: Sáp nhập doanh nghiệp. Khoản 1 Điều 17 LCT năm 2004 quy định: “Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị sáp nhập”. Theo quy định này, sáp nhập doanh nghiệp là một hình thức TTKT nên bị kiểm soát nhằm ngăn ngừa khả năng hình thành doanh nghiệp có sức mạnh trên thị trường có thể dẫn đến thực hiện hành vi gây cản trở cạnh tranh. 
Thứ hai: Hợp nhất doanh nghiệp. Khoản 2 Điều 17 LCT năm 2004 quy định: “Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất”. Như vậy, sau khi đăng ký kinh doanh, các doanh nghiệp bị hợp nhất chấm dứt tồn tại, doanh nghiệp hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của các doanh nghiệp bị hợp nhất. 
Thứ ba: Mua lại doanh nghiệp. Khoản 3 Điều 17 LCT năm 2004 quy định: “Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. Có một số ý kiến cho rằng mua lại toàn bộ doanh nghiệp là hình thức sáp nhập doanh nghiệp bởi khi mua lại toàn bộ doanh nghiệp, người mua trở thành chủ sở hữu doanh nghiệp cũng như tài sản của doanh nghiệp, được hưởng các quyền, nghĩa vụ và tính hợp pháp của doanh nghiệp đó. Về bản chất, việc mua lại không phải là quá trình thống nhất về tổ chức giữa doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp bị mua lại. Ngoài ra, khoản 1 Điều 35 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Cạnh tranh (viết tắt Nghị định 116/2005/NĐ-CP), còn quy định trường hợp mua lại doanh nghiệp khác không bị coi là tập trung kinh tế. 
Thứ tư: Liên doanh giữa các doanh nghiệp. Khoản 4 Điều 17 LCT năm 2004 quy định: “Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới”. Có thể thấy, hành vi liên doanh có một sự khác biệt cơ bản so với hành vi hợp nhất doanh nghiệp đó là sau khi các doanh nghiệp góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vu, lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới thì địa vị pháp lý của các doanh nghiệp đó vẫn còn tồn tại. 
2. Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam về tập trung kinh tế
2.1.Mô hình kiểm soát tập trung kinh tế
LCT năm 2004 có nhiều điều khoản quy định tạo hành lang pháp lý cho phép các cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế. Cụ thể là:
i).Mô hình TTKT hoàn toàn tự do: LCT năm 2004 đã sử dụng tiêu chí thị phần của doanh nghiệp trên thị trường liên quan để kiểm soát TTKT. Theo quy định khoản 1 Điều 20 của Luật này, các doanh nghiệp có quyền tự do thực hiện TTKT trong hai trường hợp sau:
- Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT thấp hơn 30% trên thị trường liên quan thì không bị cấm và không có nghĩa vụ phải thông báo;
- Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan cũng không bị cấm và không phải thông báo, nếu sau khi thực hiện TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quy định của pháp luật.
ii).Mô hình TTKT phải thông báo: Đoạn 1 khoản 1 Điều 20 LCT năm 2004 quy định: “Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của doanh nghiệp đó phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh tế”. Trong trường hợp này, các doanh nghiệp chỉ có thể thực hiện việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh sau khi đã hoàn tất thủ tục thông báo và được cơ quan quản lý cạnh tranh chấp thuận. Đây là một quy định hợp lý bởi trong khoảng thị phần kết hợp đó chúng ta không thể buông lỏng cho các doanh nghiệp nhưng cũng không thể cấm thực hiện TTKT.
iii).Mô hình TTKT bị cấm và miễn trừ đối với TTKT bị cấm: Điều 18 LCT năm 2004 quy định: “Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan”. Quy định như vậy xuất phát từ thực tế cho thấy những vụ việc TTKT có thị phần kết hợp của doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị trường liên quan luôn mang bản chất hạn chế cạnh tranh, dẫn đến hình thành một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên thị trường liên quan, đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn lại trên thị trường đứng trên bờ phá sản.
Trường hợp miễn trừ đối với TTKT bị cấm được quy định tại Điều 19 LCT năm 2004: “Tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn trừ trong các trường hợp sau đây: 
1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản; 
2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ”. 
Có thể thấy, pháp luật về cạnh tranh của nước ta dựa trên những tình huống về TTKT đã diễn ra trên thực tế để dự liệu trường hợp miễn trừ này. Trình tự và thủ tục xin hưởng miễn trừ TTKT được thực hiện thay cho thông báo TTKT và tương tự như thủ tục xin miễn trừ cấm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được quy định từ Điều 35 đến Điều 38 LCT năm 2004.
2.2. Thủ tục kiểm soát tập trung kinh tế
i). Thủ tục thông báo TTKT: Trình tự xem xét một vụ TTKT ở Việt Nam theo quy định của LCT bao gồm các bước:
- Bước 1: Doanh nghiệp nộp hồ sơ thông báo TTKT
- Bước 2: Cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý hồ sơ thông báo TTKT
- Bước 3: Cơ quan quản lý cạnh tranh trả lời thông báo TTKT 
LCT năm 2004 đã quy định cụ thể về thủ tục thông báo TTKT, trong đó đề cập đến các vấn đề như sau:
- Đối tượng áp dụng: Các trường hợp TTKT mà thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Trách nhiệm của các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp tham gia TTKT phải làm hồ sơ thông báo tập trung kinh tế theo Điều 21 LCT năm 2004 để nộp cho cơ quan có thẩm quyền và chịu trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ. 
- Thẩm quyền của cơ quan quản lý cạnh tranh: Cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền kiểm soát TTKT bằng việc thụ lý hồ sơ thông báo trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày tiếp nhận hồ sơ (theo Điều 22 LCTnăm 2004) và trả lời thông báo (theo Điều 23 LCT năm 2004). 
- Quy định về thời hạn trả lời thông báo TTKT: 45 ngày kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, có thể gia hạn trong những trường hợp có nhiều tình tiết phức tạp theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh. Việc gia hạn không quá 02 lần, mỗi lần không quá 30 ngày.
ii). Thủ tục thực hiện các trường hợp miễn trừ TTKT: Thủ tục thực hiện các trường hợp miễn trừ được quy định tại Mục 4 LCT năm 2004 và chi tiết tại Mục 6 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP. Mà theo đó, quy trình thực hiện miễn trừ TTKT như sau: Nộp hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; Thụ lý hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ; Yêu cầu bổ sung hồ sơ đề nghị hưởng miễn trừ và cung cấp thông tin từ các bên liên quan; Ra quyết định chấp thuận hoặc không chấp thuận cho hưởng miễn trừ; Thực hiện TTKT; Bãi bỏ quyết định cho hưởng miễn trừ ( nếu thực hiện trong các trường hợp quy định tại Điều 37 LCT năm 2004); Khiếu nại quyết định liên quan đến việc cho hưởng miễn trừ.
2.3. Tố tụng cạnh tranh đối với vụ việc tập trung kinh tế
Tố tụng cạnh tranh là hoạt động của các cơ quan quản lý hành chính. Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh gồm cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh. Tuy nhiên LCT năm 2004 đã tách hai chức năng điều tra và xử lý vụ việc tập trung cho hai cơ quan này:
- Cơ quan quản lý cạnh tranh sẽ thụ lý, điều tra các vụ việc liên quan đến cạnh tranh và kiểm soát quá trình tập trung kinh tế, đó là Cục quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công thương (trước là Bộ Thương mại) đã được thành lập theo Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý cạnh tranh (viết tắt Nghị định 06/2006/NĐ-CP).
- Hội đồng cạnh tranh là cơ quan thực thi quyền lực nhà nước độc lập có chức năng xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh. Cụ thể theo quy định tại Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Hội đồng cạnh tranh (viết tắt Nghị định 05/2006/NĐ-CP), thì Hội đồng cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh, trong đó có TTKT. Trình tự tố tụng cạnh tranh (vụ việc về TTKT) ở Việt Nam như sau:
- Bước 1: Khiếu nại về vụ việc cạnh tranh
- Bước 2: Thụ lý hồ sơ khiếu nại 
- Bước 3: Điều tra vụ việc cạnh tranh: Điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến hành theo quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh
- Bước 4: Mở phiên điều trần
2.4. Xử lý vi phạm pháp luật về tập trung kinh tế: Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh bao gồm các hành vi sau: Hành vi sáp nhập doanh nghiệp bị cấm (Điều 25); Hành vi hợp nhất doanh nghiệp bị cấm (Điều 26); Hành vi mua lại doanh nghiệp bị cấm (Điều 27); Hành vi liên doanh doanh giữa các doanh nghiệp bị cấm (Điều 28); Hành vi không thông báo về tập trung kinh tế (Điều 29). Các hình thức và mức độ xử lý vi phạm pháp luật về TTKT được quy đinh, bao gồm: phạt tiền; buộc thực hiện chia tách các doanh nghiệp đã hợp nhất, sáp nhập; bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, hoặc bị buộc bán tài sản đã mua,… 
Thủ tục xử lý vi phạm pháp luật về TTKT phải tuân theo trình tự thủ tục trong tố tụng cạnh tranh quy định tại Chương V LCT năm 2004 và chương II Nghị định số 116/2005/NĐ-CP. Việc thực hiện quyết định xử lý vi phạm pháp luật về TTKT được quy định tại mục 3 Chương II Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, theo đó thời hạn thực hiện quyết định xử lý vi phạm là 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, nếu hết thời hạn nêu trên mà các tổ chức, cá nhân bị xử lỷ không tự nguyện thi hành thì sẽ bị cưỡng chế.
2.5. Kiểm soát tập trung kinh tế đối với nhà đầu tư nước ngoài: Hiện nay LCT năm 2004 chưa có quy định cụ thể điều chỉnh các khía cạnh của một vụ việc TTKT có liên quan đến doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các quy định của pháp luật cạnh tranh mới chỉ dừng lại ở việc điều chỉnh về thủ tục chung khi tiến hành TTKT với nhà đầu tư nước ngoài và điều chỉnh việc mua cổ phần Doanh nghiệp Việt Nam đối với nhà đầu tư nước ngoài tại Điều 13 Nghị định số 102/2010/NĐ-CP ngày 01/10/2010 của Chính phủ, hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Doanh nghiệp, theo đó, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có quyền góp vốn và mua cổ phần không hạn chế tại doanh nghiệp. Như vậy, các quy định của pháp luật cạnh tranh về TTKT đối với nhà đầu tư nước ngoài còn rất hạn chế, đây là một lỗ hổng của pháp luật về cạnh tranh Việt Nam, do vậy, thiết nghĩ nhà làm luật cần có sự bổ sung để tạo hành lang pháp lý điều chỉnh vấn đề TTKT hiện nay vững chắc hơn, toàn diện hơn.
3. Một số tồn tại trong quy định pháp luật cạnh tranh về kiểm soát tập trung kinh tế
Từ những phân tích về pháp luật cạnh tranh TTKT ở trên, có thể thấy tinh thần pháp luật về TTKT tại Việt Nam hiện nay về cơ bản đã hình thành với đầy đủ những nội dung cần thiết về quy định pháp lý, thể chế giám sát, kiểm soát TTKT. Các quy định về các vấn đề này về cơ bản được xây dựng theo đúng truyền thống của pháp luật cạnh tranh hiện đại. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số điểm hạn chế cần được bổ sung và hoàn thiện như sau:
Thứ nhất, LCT năm 2004 chưa đề cập đến việc kiểm soát đối với TTKT theo chiều dọc, TTKT hỗn hợp. Ngoài ra, LCT hiện hành cũng chưa đề cập đến việc kiểm soát hình thức liên kết thông qua đội ngũ lãnh đạo, quản lý chung. Những dạng TTKT này, có khả năng xảy ra trong tương lai cùng với sự đa dạng hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường, và có thể gây ra hạn chế cạnh tranh ở mức độ nhất định hoặc làm gia tăng nguy cơ thỏa thuận giữa các doanh nghiệp sau khi tiến hành TTKT.
Thứ hai, ngoài các quy định có nội dung khái quát và mang tính nguyên tắc trong Mục 3 Chương II LCT năm 2004, và tại Mục 5 chương II Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, hiện nay vẫn chưa có các hướng dẫn cụ thể. LCT hiện hành vẫn chưa có quy định để trao quyền cho cơ quan quản lý cạnh tranh trong việc xây dựng nội dung thẩm tra trong thủ tục thông báo, thủ tục miễn trừ các trường hợp TTKT và quy chế kiểm soát TTKT. Nếu khung pháp lý này được hoàn thiện, doanh nghiệp có thể hình dung được phạm vi của quyền tự do kinh doanh liên quan đến hoạt động sáp nhập, hợp nhất, mua lại, góp vốn thành lập doanh nghiệp,… mà họ muốn thực hiện.
Thứ ba, bất cập trong quy định về xác định thị trường liên quan, cụ thể: Tại khoản 2 Điều 4 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định: “Đặc tính của hàng hóa, dịch vụ được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau đây: a) Tính chất vật lý; b) Tính chất hóa học; c) Tính năng kỹ thuật; d) Tác dụng phụ đối với người sử dụng; đ) Khả năng hấp thụ”. Các tiêu chí cụ thể nêu trên có thể phù hợp đối với hàng hóa nhưng không có một sự liên quan nào tới dịch vụ. Do đó, trong trường hợp cần phải xác định thị trường liên quan của một loại dịch vụ, cơ quan cạnh tranh không thể áp dụng các tiêu chí này để xác định đặc tính của dịch vụ, từ đó, không đảm bảo đầy đủ các yếu tố xác định thị trường liên quan theo quy định của luật.
Thứ tư, bất cập khi sử dụng thị phần làm tiêu chí để đánh giá vụ việc TTKT. Khó khăn đối với doanh nghiệp khi sử dụng thị phần làm tiêu chí để thông báo. Quy định nghĩa vụ phải thông báo chính xác về thị phần của các bên tham gia TTKT là một khó khăn cho doanh nghiệp. Trên thực tế, doanh nghiệp chỉ có thể biết và chịu trách nhiệm về doanh số của mình mà không có nghĩa vụ phải nắm được doanh số của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường (căn cứ để tính toán thị phần của các bên tham gia TTKT). Việc yêu cầu doanh nghiệp phải thu thập một khối lượng lớn thông tin liên quan đến thị trương và thị phần tạo một áp lực rất lớn cho các doanh nghiệp mong muốn thực hiện thủ tục thông báo hoặc thâm vấn ý kiến của Cục Quản lý cạnh tranh.
Ngoài ra, việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp làm căn cứ để kiểm soát TTKT cho thấy LCT Việt Nam chỉ kiểm soát các trường hợp TTKT theo chiều ngang. Vì vậy, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp không cùng thị trường liên quan (các dạng sáp nhập thep chiều dọc và hỗn hợp) không chịu sự kiểm soát của LCT.
Thứ năm, các quy định của pháp luật về thủ tục thông báo còn đơn giản. LCT dành 5 điều luật để quy định về thủ tục này nên chỉ giải quyết được một số vấn đề trong thủ tục thông báo như hồ sơ thông báo, thời hạn thụ lý hồ sơ, thời hạn và nội dung trả lời thông báo TTKT. Các quy định này chỉ mang tính nguyên tắc mà chưa làm rõ các nội dung mang tính kỹ thuật của quá trình đánh giá một vụ việc TTKT.
4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và nâng cao hiệu quả kiểm soát tập trung kinh tế.
Thứ nhất: Hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh về tập trung kinh tế
Một là, mở rộng về hình thức và hành vi giao dịch TTKT cần phải điều chỉnh.
LCT Việt Nam chỉ điều chỉnh các vụ việc TTKT theo chiều ngang. Các tác động phản cạnh tranh tiềm ẩn của dạng TTKT theo chiều ngang là rõ rệt khi doanh nghiệp sau khi sáp nhập có một sức mạnh thị trường đáng kể. Tuy nhiên, cả về mặt học thuật lẫn thực tiễn đã chỉ ra rằng, các dạng TTKT theo chiều dọc không phải không tiềm ẩn những tác động xấu tới cạnh tranh mặc dù không làm thay đổi trực tiếp tới cấu trúc thị trường. 
Ngoài ra có một số dạng giao dịch thuộc dạng TTKT hiện tại chưa được quy định trong LCT cũng cần được xem xét điều chỉnh như: mua lại phần sở hữu của cổ đông thiểu số; mua, bán một phần tài sản độc lập. Những giao dịch dạng này có thể được xem xét điều chỉnh dưới dạng kiểm soát TTKT do có tiềm ẩn nguy cơ thâu tóm và kiểm soát doanh nghiệp, thị trường. 
Hai là, nên xem xét bỏ quy định về miễn trừ. Về bản chất, khi pháp luật cạnh tranh cho phép cơ quan quản lý cạnh tranh quyền đánh giá sức mạnh thị trường của  các  doanh  nghiệp  tham  gia TTKT  và đánh giá tác động vụ việc TTKT, cũng như việc đưa ra yêu cầu đối với các bên tham gia TTKT có các biện pháp khắc phục thì quy định về việc xin hưởng miễn trừ là không cần thiết. Đối với những trường hợp quyết định TTKT  của  các  doanh  nghiệp  nhà nước là do Chính phủ đưa ra thì luật cần quy định rõ để chỉ thực hiện việc thông báo mà không  nhất  thiết  phải  qua  các  quy  trình đánh  giá  (được  hưởng  miễn  trừ  đương nhiên). Những trường hợp quyết định TTKT  đối  với  doanh  nghiệp  nhà nước do chính quyền cấp địa phương thực hiện  thì  vẫn  cần  phải  có  sự  đánh  giá  tác động tiềm ẩn tới môi trường cạnh tranh và cơ quan cạnh tranh có quyền không cho phép thực hiện các giao dịch này. 
Ba là, không nên áp dụng một cách cứng nhắc các đánh giá mang tính kỹ thuật đối với việc xác định thị trường liên quan. Cần mở rộng các tiêu chí đánh giá để xác định thị trường liên quan cả về định tính và định lượng để đảm bảo xác định một thị trường liên quan phản ánh đúng thực tế của vụ việc.
Bốn là, hoàn thiện quy trình thông báo TTKT. Để hoàn thiện quy trình này, cần sửa đổi, bổ sung quy định trong LCT hoặc Nghị định hướng dẫn, liên quan đến vấn đề này theo hướng tập trung làm rõ những nội dung sau:
- Phải làm rõ yêu cầu cơ bản về nội dung của các tài liệu có trong hồ sơ thông báo, đặc biệt là các thông tin về sản phẩm mà các doanh nghiệp tham gia TTKT kinh doanh; các thông tin trong Báo cáo về thị phần của các doanh nghiệp. Ngoài ra, cần quy định về cơ chế chủ động thu thập, thẩm tra thông tin của cơ quan quản lý cạnh tranh để đối chiếu, rà soát tài liệu có trong hồ sơ thông báo do các doanh nghiệp cung cấp. Từ đó, cơ quan quản lý cạnh tranh có thể xác minh tài liệu một cách chân thực và có các kết luận phù hợp, đúng đắn với thực tế khách quan.
- Cần có cơ chế hỗ trợ và tư vấn doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục thông báo TTKT. Trong điều kiện hiện nay, khi LCT hiện hành còn xa lạ với cộng  đồng doanh  nghiệp  và  các  yêu cầu pháp lý cũng như kỹ thuật lập hồ sơ thông báo còn vượt quá tầm hiểu biết và  năng  lực của  đại  bộ  phận doanh nghiệpViệt Nam thì việc xây dựng cơ chế tham vấn và tư vấn trong thủ tục kiểm soát TTKT là cần thiết. 
- Cần làm rõ nội dung thẩm tra của cơ quan quản lý cạnh tranh đối với hồ sơ thông báo TTKT. Theo đó, pháp luật sẽ quy định nội dung thẩm tra theo phương thức và căn cứ kiểm soát TTKT.
Thứ hai: Nâng cao hiệu quả kiểm soát tập trung kinh tế
Một là, nâng cao năng lực của cơ quan quản lý cạnh tranh trong kiểm soát TTKT.
Cần tăng cường khả năng kiểm soát của Cục quản lý cạnh tranh - Cơ quan có chức năng kiểm soát TTKT theo hướng cơ quan quản lý cạnh tranh cần được trao quyền chủ động khi thực thi dựa trên những nguyên tắc được pháp luật ghi nhận, bao gồm quyền tự chủ trong việc lựa chọn và sử dụng các phương tiện, công cụ kỹ thuật cho từng vụ việc; chủ động xây dựng quy trình cho việc kiểm soát tập trung kinh tế. 
Hai là, để việc kiểm soát TTKT hiệu quả, cơ quan quản lý cạnh tranh nên có những nghiên cứu và dự đoán trước những thị trường, những lĩnh vực kinh tế có nguy cơ xảy ra hiện tượng TTKT, thậm chí những doanh nghiệp có khả năng thực hiện hành vi thâu tóm thị trường bằng hình thức TTKT. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan đăng ký kinh doanh và các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành. Việc kiểm soát TTKT hiệu quả, cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh đối với cộng đồng doanh nghiệp.
Ba là, bồi dưỡng và nâng cao kiến thức kinh tế và pháp lý, chính sách và pháp luật cạnh tranh cho nhân sự của các cơ quan quản lý cạnh tranh và các tổ chức có liên quan. Điều tra một vụ TTKT là vô cùng khăn, nhất là khi chúng ta chưa hề có kinh nghiệm trong việc kiểm soát TTKT cùng với số lượng đội ngũ nhân sự có hạn. Có lẽ, một giải pháp cần thiết là cơ quan quản lý cạnh tranh nên thiết lập một hệ thống cộng tác viên để hỗ trợ cùng xử lý, giải quyết các vụ việc TTKT.
Bốn là, cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động tuyên truyền phổ biến pháp luật cạnh tranh nói chung và các quy định về TTKT nói riêng tới cộng đồng doanh nghiệp.
Tóm lại: TTKT có những tác động tích cực đến nền kinh tế, song mặt bên kia của tập trung kinh tế lớn lại chính là nguy cơ hình thành độc quyền, triệt tiêu cạnh tranh. Vì vậy, các quốc gia với phương châm phòng thủ từ xa đã  ban hành pháp luật cạnh tranh để kiểm soát các vụ TTKT. Có thể thấy rằng thời gian qua, Nhà nước ta đã có rất nhiều nỗ lực trong việc thực hiện kiểm soát TTKT thông qua việc ban hành nhiều văn bản pháp lý quan trọng. Tuy nhiên, từ thực tiễn thực thi đã nảy sinh nhiều vấn đề gây ra những khó khăn cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế nước ta nói chung. Chính vì thế, Nhà nước cần quan tâm và thực hiện ngay lúc này là hoàn thiện các văn bản pháp lý để tạo nên một khung pháp lý vững chắc và đầy đủ làm công cụ hữu hiệu để thực hiện quản lý Nhà nước về TTKT cũng như để bảo vệ nền kinh tế khỏi những rủi ro.
 
Phạm Thị Hồng Đào  - Văn phòng luật sư Thạnh Hưng