Cơ sở lý luận, thực tiễn của chế độ tài sản của vợ chồng – một số vấn đề cần trao đổi

07/07/2015
 

Kết hôn là sự kiện làm phát sinh một gia đình mà ở đó phản ánh sự chung sống của hai vợ chồng và con cái (nếu có). Như là một tất yếu của cuộc sống chung, vợ và chồng thực hiện những quan hệ về tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu tồn tại và phát triển của gia đình. Đây là những quan hệ xảy ra phổ biến trong xã hội và chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật về hôn nhân và gia đình, trong một quy chế được gọi là Chế độ tài sản của vợ chồng. Có một câu hỏi lớn đặt ra là: Chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được xác lập theo luật pháp hay theo sự thỏa thuận của vợ chồng? Tài sản của vợ chồng trong pháp luật về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) của các nước trên thế giới được quy định gắn liền với các điều kiện kinh tế - xã hội, chế độ sở hữu, truyền thống, phong tục, tập quán, tâm lý, nguyện vọng của người dân…Do đó, giữa các nước khác nhau thường có những quy định khác biệt về tài sản của vợ chồng. Tuy nhiên, về cơ bản tài sản của vợ chồng được xác định dựa trên hai căn cứ: Sự thỏa thuận bằng văn bản của vợ chồng (chế độ tài sản ước định) và theo các quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định). Trong phạm vi bài viết này, người viết xin đưa ra những quan điểm của mình về chế độ tài sản theo thỏa thuận của vợ chồng – chế độ tài sản ước định.

I. Cơ sở lý luận về chế độ tài sản của vợ chồng

1. Khái niệm về chế độ tài sản của vợ chồng

Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh về (sở hữu) tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản giữa vợ và chồng theo luật định.

2. Đặc điểm của chế độ tài sản của vợ chồng

Chế độ tài sản của vợ chồng thực chất là chế độ sở hữu của vợ chồng. Vợ, chồng với tư cách là công dân, vừa là chủ thể của quan hệ hôn nhân và gia đình, vừa là chủ thể của quan hệ dân sự khi thực hiện quyền sở hữu của mình tham gia các giao dịch dân sự. Chế độ tài sản của vợ chồng có một số đặc điểm sau:

Thứ nhất, xét về chủ thể của quan hệ sở hữu trong chế độ tài sản này, thì các bên phải có quan hệ hôn nhân hợp pháp với tư cách là vợ chồng của nhau. Do vậy, để trở thành chủ thể của quan hệ sở hữu này, các chủ thể ngoài việc có đầy đủ năng lực chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự còn đòi hỏi họ phải tuân thủ các điều kiện kết hôn được quy định trong pháp luật hôn nhân và gia đình.

Thứ hai, xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của gia đình đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội, nhà nước bằng pháp luật quy định chế độ tài sản của vợ chồng đều xuất phát từ mục đích trước tiên và chủ yếu nhằm bảo đảm quyền lợi của gia đình, trong đó có lợi ích cá nhân của vợ và chồng. Những quy định của pháp luật về chế độ tài sản của vợ chồng là cơ sở tạo điều kiện để vợ chồng chủ động thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình đối với tài sản của vợ chồng.

Thứ ba, căn cứ xác lập, chấm dứt chế độ tài sản này phụ thuộc vào sự phát sinh, chấm dứt của quan hệ hôn nhân hay nói cách khác, chế độ tài sản của vợ chồng thường chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.

3. Vai trò, ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng

3.1. Vai trò của chế độ tài sản của vợ chồng

Một là, chế độ tài sản được pháp luật ghi nhận (dù là chế độ tài sản theo thỏa thuận – chế độ tài sản ước định, hay theo căn cứ của pháp luật – chế độ tài sản pháp định) nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng, tạo điều kiện để vợ, chồng có những cách “xử sự” theo yêu cầu của pháp luật và phù hợp với đạo đức xã hội.

Hai là, trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, Luật Hôn nhân và Gia đình điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và tài sản giữa vợ chồng, giữa cha mẹ và các con, giữa các thành viên khác trong gia đình. Việc thực hiện và áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng góp phần củng cố, bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhân thân giữa vợ chồng và giữa các thành viên của gia đình với nhau.

Ba là, chế độ tài sản của vợ chồng góp phần điều tiết, ổn định quan hệ tài sản trong giao lưu dân sự, kinh tế, thương mại. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng phải ký kết rất nhiều hợp đồng dân sự với người khác, nhờ có chế độ tài sản của vợ chồng, các giao dịch đó được đảm bảo thực hiện, quyền lợi của vợ chồng, của người tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng được bảo vệ.

3.2. Ý nghĩa của chế độ tài sản của vợ chồng

Chế độ tài sản của vợ chồng với ý nghĩa là một chế định trong pháp luật hôn nhân và gia đình được nhà nước quy định dựa trên sự phát triển của điều kiện kinh tế - xã hội. Nó thể hiện tính giai cấp, bản chất của chế độ chính trị - xã hội cụ thể. Nhìn vào chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật của nhà nước, người ta có thể nhận biết được trình độ phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội và ý chí của nhà nước thể hiện bản chất của chế độ xã hội đó.

Chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong pháp luật có ý nghĩa nhằm xác định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ chồng và gia đình. Khi hai bên nam nữ kết hôn với nhau trở thành vợ chồng, chế độ tài sản của vợ chồng được liệu với những thành phần tài sản của vợ chồng. Dù vợ chồng lực chọn chế độ tài sản ước định hay chế độ tài sản pháp định luôn được pháp luật quy định rõ.

Việc phân định các loại tài sản trong quan hệ giữa vợ và chồng của chế độ tài sản còn nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ của các bên vợ, chồng đối với các loại tài sản của vợ chồng.

Chế độ tài sản của vợ chồng được sử dụng với ý nghĩa là cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng với nhau hoặc với những người khác trong thực tế, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng về tài sản cho các bên vợ chồng hoặc người thứ ba tham gia giao dịch liên quan đến tài sản của vợ chồng.

4. Các loại chế độ tài sản của vợ chồng trong pháp luật

Nhà làm luật ở mỗi quốc gia đều lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, tập quán, truyền thống và nguyện vọng của các cặp vợ chồng. Trong đó thể hiện rõ ý chí của nhà nước khi điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, vì suy đến cùng, tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh chế độ tài sản của vợ chồng phản ánh điều kiện vật chất của xã hội đó, bảo đảm phù hợp lợi ích, ý chí của giai cấp thống trị xã hội. Pháp luật các quốc gia trên thế giới đã quy định có hai chế độ tài sản của vợ chồng đó là chế độ tài sản theo quy định của pháp luật (chế độ tài sản pháp định) và chế độ tài sản theo sự thỏa thuận của vợ chồng (chế độ tài sản ước định).

4.1. Chế độ tài sản pháp định

Chế độ tài sản pháp định là chế độ tài sản mà ở đó pháp luật đã dự liệu từ trước về căn cứ, nguồn gốc thành phần các loại tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng (nếu có); quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với từng loại tài sản đó; các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng; phương thức thanh toán liên quan đến các khoản nợ chung hay riêng của vợ chồng. Chế độ tài sản này được tất cả các nước dự liệu trong hệ thống pháp luật của mình, nhằm điều chỉnh các quan hệ tài sản của vợ chồng.

4.2. Chế độ tài sản ước định

Theo quan điểm thuần túy pháp lý của các nhà làm luật tư sản, hôn nhân thực chất là một hợp đồng, một khế ước do hai bên nam nữ thỏa thuận, xác lập trên nguyên tắc tự do, tự nguyện. Các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng được phát sinh và thực hiện trong thời kỳ hôn nhân cũng giống như các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao kết hợp đồng đó. Vì vậy pháp luật cho phép trước khi kết hôn, hai bên được quyền tự do ký kết hôn ước (hai còn gọi là khế ước) miễm sao không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội

II. Cơ sở thực tiễn của chế độ tài sản chung của vợ chồng

1. Chế độ tài sản ước định trong pháp luật hôn nhân và gia đình của một số nước trên thế giới.

Ở các nước phương tây, một trong các đặc thù của pháp luật hôn nhân và gia đình của các quốc gia này là sự đề cao quyền tự do cá nhân, tự do thỏa thuận và quyền tự do định đoạt của các chủ thể trong quan hệ hôn nhân và gia đình, đặc biệt là trong quan hệ giữa vợ và chồng. Nhà làm luật ở các nước này quan niệm hôn nhân thực chất là một loại “hợp đồng dân sự” , hôn nhân chỉ khác với những loại hợp đồng dân sự thông thường khác ở tính chất “long trọng” trong thiết lập (việc kết hôn phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước hoặc nhà thờ có thẩm quyền theo một nghi thức đặc biệt được quy định trong pháp luật) và trong việc chấm dứt (theo quy định của pháp luật, hôn nhân chỉ chấm dứt khi có sự kiện vợ, chồng chết hay có tuyên bố của Tòa án một bên vợ, chồng đã chết hoặc khi có bản án quyết định của Tòa án về ly hôn có hiệu lực pháp luật, tất cả các trường hợp chấm dứt ly hôn này phải được tiến hành theo thủ tục hành chính hoặc thủ tục tố tụng tại Tòa án đã được pháp luật quy định).

Với quan niệm trên, nhà làm luật phương Tây đề cao quyền tự do cá nhân , quyền tự định đoạt đối với tài sản của vợ chồng. Tự do lập hôn ước đã trở thành một nguyên tăc và là giải pháp đầu tiên khi quy định về chế độ tài sản của vợ chồng và “dứt khoát” chế độ tài sản của vợ chồng, trước hết phải do chính bản thân của vợ chồng lựa chọn, thỏa thuận; pháp luật chỉ quy định môt chế độ tài sản cho họ khi và chỉ khi vợ chồng không có hoặc không thỏa thuận được một chế độ tài sản cho mình. Trong hôn ước, các bên kết hôn tuyên bố một chế độ hôn sản sẽ áp dụng đối với họ. Đây là mục đích cơ bản nhất của việc lập hôn ước.

Trong chế độ tài sản đã lựa chọn, các bên có quyền tự do đưa ra những điều khoản quy định về các vấn đề cụ thể. Chẳng hạn, vợ chồng tương lai có thể liệt kê những tài sản mà mỗi bên có trước khi kết hôn; tặng cho nhau tài sản; thỏa thuận về việc quản lý tài sản chung, riêng, về việc đóng góp tài sản vì nhu cầu chung của gia đình; thỏa thuận về việc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản…

Tuy nhiên, quyền tự do thỏa thuận trong hôn ước của vợ chồng không phải là không có giới hạn. Điều đó thể hiện tại các điều 1388 và 1389 của Bộ luật dân sự Cộng hòa Pháp, nhà lập pháp đã quy định rằng: vợ chồng không thể thỏa thuận phá bỏ những quy định về quyền và nghĩa vụ của họ (phát sinh từ việc kết hôn), về nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con, về quản lý theo pháp luật, về giám hộ, về trật tự thừa kế. Về nguyên tăc, những điều khoản của hôn ước trái với những quy định này sẽ bị tuyên bố vô hiệu.

Việc thừa nhận chế độ tài sản ước định được quy định trong pháp luật một số nước. Có thể thấy rõ trong quy định tại điều 755 và 756 Bộ Luật dân sự Nhật Bản, điều 1465 Bộ Luật dân sự và thương mại Thái Lan, điều 1387 Bộ Luật dân sự Cộng hòa Pháp (Luật số 65-570 ngày 13/7/1965).

Điều 756 Bộ Luật dân sự Nhật Bản quy định “nếu vợ hoặc chồng trước khi đăng ký kết hôn không ký một hợp đồng nào nhằm quy định khác đi tài sản của mình, thì quan hệ tài sản của họ được điều chỉnh bởi quy định tại tiểu mục II  (tiểu mục quy định chế định tài sản pháp định). Có thể thấy quy định này trong Bộ luật dân sự Nhật Bản đã chỉ rõ sự ưu tiên áp dụng việc giao kết hợp đồng của vợ chồng về các vấn đề tài sản của họ, pháp luật chỉ quy định khi vợ, chồng không có thỏa thuận gì về tài sản thì vấn đề về tài sản của vợ chồng mới theo quy định của pháp luật. Điều 1465 Bộ Luật dân sự và thương mại Thái Lan quy định: “khi vợ chồng không có thỏa thuận đặc biệt về tài sản của họ trước khi kết hôn, thì quan hệ giữa họ và tài sản sẽ được điều chỉnh bởi những quy định của chương này. Bất cứ thỏa thuận nào trong điều khoản trước khi thành hôn trái với trật tự công cộng, đạo đức hoặc quy định là quan hệ giữa hai vợ chồng về tài sản đó sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật nước ngoài thì vô hiệu”. Điều 1387 Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp cũng quy định: “Luật pháp chỉ điều chỉnh quan hệ vợ chồng về tài sản khi không có thỏa thuận riêng mà vợ chồng có thể làm vì cho rằng điều đó là cần thiết, miễn sao những thỏa thuận đó không trái với thuần phong mỹ tục và những quy đinh sau đây…”.

Hôn ước (hôn khế) theo pháp luật của các nước phương Tây là sự thỏa thuận bằng văn bản (hợp đồng) do vợ chồng lập trước khi kết hôn để quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong suốt thời kỳ hôn nhân. Nội dung của hôn ước thường xác định tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản đó cũng như trong việc thực hiện các giao dịch giữa họ với người thứ ba. Vợ chồng có thế thỏa thuận trên cơ sở lựa chọn theo một chế độ tài sản riêng biệt, hoàn toàn độc lập  với chế độ tài sản theo quy định của pháp luật. Có thể lựa chọn chế độ tài sản của vợ chồng theo chế độ cộng đồng (theo chế độ chung) hay chế độ phân sản (không có tài sản chung). Theo đó:

Nếu lựa chọn chế độ tài sản cộng đồng, vợ chồng thỏa thuận trong hôn ước về các vấn đề: thành phần tài sản chung của vợ chồng, các quyền và nghĩa vụ của vợ chồng với tài sản chung; tài sản rieeg của mỗi bên vợ, chồng (nếu có); các trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng và quyền lợi của mỗi bên vợ, chồng được hưởng từ việc chia tài sản chung đó; giải quyết các món nợ phát sinh từ đời sống chung của gia đình; thỏa thuận để lại thừa kế cho một bên vợ, chồng hưởng từ phần tài sản chung của bên kia…

Nếu lựa chọn chế độ phân sản, giữa vợ chồng không có khối tài sản chung, vợ, chồng phải thỏa thuận tùy theo tự lực của mỗi bên đóng góp bảo đảm đời sống chung của gia đình, nghĩa vụ chu cấp lẫn nhau, giáo dưỡng các con…

Tính chất cộng đồng, ổn định và lâu dài của hôn nhân cũng đòi hỏi sự ổn định của các điều khoản trong hôn ước. Hôn ước là căn cứ pháp lý để điều chỉnh nghĩa vụ và quyền của vợ chồng về tài sản trong suốt thời kỳ hôn nhân của họ. Do đó, về nguyên tắc, kể từ ngày thiết lập quan hệ hôn nhân, việc thực hiện hôn ước là “bất di bất dịch”, các điều khoản trong hôn ước không thể bị sửa đổi, Điều 1395 Bộ Luật dân sự Pháp năm 1804 quy định: “hôn ước không thể thay đổi sau khi đã kết hôn”. Tuy nhiên, nguyên tăc hôn ước không thể thay đổi trong thời kỳ hôn nhân có thể gây ra những ảnh hưởng không tốt đến lợi ích của gia đình, của bản thân vợ, chồng hay lợi ích của người thứ ba có quan hệ giao dịch với vợ chồng khi vợ chồng đã chọn lầm một chế độ tài sản đã hoàn toàn không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh gia đình, điều kiện nghề nghiệp…Để khắc phục hạn chế trên, hiện nay một số nước đã thừa nhận các thỏa thuận trong hôn ước có thể được thay đổi trong thời kỳ hôn nhân với những điều kiện pháp lý chặt chẽ. Điều 1397 Bộ Luật Dân sự Cộng hòa Pháp (Luật số 65-570 ngày 13/7/1965, Luật số 89-18 ngày 13/01/1989) quy định:

Sau hai năm áp dụng chế độ tài sản trong hôn nhân theo thỏa thuận hoặc theo luật định, hai vợ chồng có thể, vì lợi ích của gia đình, xin sửa đổi hoặc thay đổi hoàn toàn chế độ tài sản trong hôn nhân bằng một chứng thư có chứng thực của công chứng viên và được Tòa án nơi cư trú phê chuẩn”. Bộ Luật dân sự Nhật Bản, thì những căn cứ xác lập tài sản của vợ chồng được quy định trong hôn ước cũng có thể được thay đổi cho phù hợp với thực tế tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của vợ chồng (Điều 758 và 759).

Việc pháp luật hôn nhân gia đình ở các nước tư bản chủ nghĩa quy định chế độ tài sản theo hôn ước có những ưu điểm nhất định. Tự do lập hôn ước là bước cụ thể hóa nguyên tắc cá nhân công dân có quyền tự quyết định các vấn đề về bản thân, trong đó có hôn nhân và quyền sở hữu tài sản trong hôn nhân. Đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, sở hữu cá nhân và tự do kinh doanh.

2. Chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong pháp luật Việt Nam

2.1. Thời kỳ trước năm 1975

Trong thời kỳ pháp thuộc, luật pháp về dân sự ỏ Việt Nam mang đậm dấu ấn của Bộ luật Dân sự Napoleon. Trong ba bộ dân sự được áp dụng ở ba miền Bắc, Trung, Nam, Bộ dân luật Bắc và Bộ dân luật Trung đã ghi chép những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự Pháp như: quyền tự do lập hôn ước và tính chất không thay đổi của chế độ hôn sản. Khác với Bộ luật Dân sự Pháp, hai bộ luật Dân luật này chỉ dự liệu một chế độ chung để áp dụng cho những vợ chồng không lập hôn ước, mà không đề xuất những chế độ để vợ chồng có thể thỏa thuận lựa chọn. Thực tế, những quy định này đã được thực hiện ở Việt Nam trong khoảng 20 năm.

Trong giai đoạn đất nước bị chia cắt thành hai miền Nam – Bắc, pháp luật về vấn đề này ở hai miền thể hiện những nội dung trái chiều. Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, ở Miền Bắc chỉ quy định về một hình thức của chế độ tài sản pháp định, và vì thế không có một quy định nào về quyền lập hôn ước của vợ chồng. Trong khi đó, ở Miền Nam, ba đạo luật đã được lần lượt ban hành để điều chỉnh các quan hệ dân sự, gia đình (Luật gia đìng ngày 02/01/1959, Luật 15/64 ngày 23/7/1964 và Bộ dân luật ngày 20/12/1972), đều thừa nhận quyền tự do lập hôn ước của vợ chồng và chế độ tài sản chung theo luật định chỉ được áp dụng khi vợ chồng không lập hôn ước. Chẳng hạn, Bộ dân luật năm 1972 quy định: :Vợ chồng có thể tự do lập hôn ước tùy ý muốn, miễn không trái với trật tự công cộng và thuần phong mỹ tục” (Điều 145) và “Luật pháp chỉ quy định chế độ phụ phu tài sản khi vợ chồng không lập hôn ước” (Điều 144).

2.2. Thời kỳ thống nhất đất nước

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đều chỉ tập trung quy định về một chế độ tài sản pháp định. Nhà lập pháp không dự liệu bất kỳ một điều khoản nào cho phép vợ chồng lập hôn ước, nhưng cũng không ấn định những quy định cấm. Trong bối cảnh đó, nhìn chung, giới luật gia và những người áp dụng pháp luật đều cho rằng chế độ hôn sản pháp định có hiệu lực áp dụng đối với tất cả các quan hệ hôn nhân hợp pháp, do vậy, mọi thỏa thuận của vợ chồng trái với các quy định của chế độ hôn sản pháp định cần bị tuyên bố là vô hiệu khi có tranh chấp xảy ra.

Tuy nhiên, trong trường hợp xảy ra sự kiện chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, Nghị định số 70 của Chính phủ ngày 03 tháng 10 năm 2001 quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã đem đến một yếu tố mới, mà chúng ta thấy có khả năng xuất hiện một chế độ tài sản của vợ chồng khác với chế độ pháp định.

Khoản 2 điều 8 quy định : “Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thoả thuận khác”. Mặt khác, các quy định ở điều 9 và điều 10 về “ khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng” đòi hỏi vợ chồng đã chia tài sản chung mà sau đó muốn khôi phục lại chế độ tài sản chung thì phải lập thành văn bản có người làm chứng hoặc được công chứng, chứng thực.

Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân có thể xảy ra theo hai trường hợp : chia một phần hoặc chia toàn bộ. Có lẽ, các quy định kể trên nhằm vào trường hợp thứ hai. Các quy định này đã bị chỉ trích mạnh mẽ bởi nhiều chuyên gia về Luật hôn nhân và gia đình vì cho rằng chúng mâu thuẫn với điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Ở đây chúng tôi không phân tích sự mâu thuẫn hay không của các quy định mà chỉ đề cập đến ý tưởng của những người soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế, Bộ Tư pháp là đơn vị chủ trì soạn thảo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, và cũng chính cơ quan này tiếp tục các công việc đối với Nghị định số 70 để hướng dẫn thi hành Luật. Các quy định ở khoản 2 điều 8 và điều 9, 10 thể hiện sự lôgíc của một ý tưởng mới về những quan hệ tài sản giữa vợ và chồng theo thỏa thuận. Vậy thì chúng ta có thể đưa ra một giả thuyết rằng, chính người soạn thảo văn bản Luật đã muốn có một sự mềm dẻo trong việc thừa nhận chế độ hôn sản theo thỏa thuận của vợ chồng trong những trường hợp cần thiết. Nếu giả thuyết này đúng, thì đây quả thực sẽ là một bước đệm quan trọng cho việc thiết lập những quy định về hôn ước trong Luật Hôn nhân và gia đình tương lai. Mặt khác, vì Nghị định 70 vẫn đang có hiệu lực, chắc chắn, sau khi chia hết tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể thực hiện một chế độ tách riêng tài sản. Tuy nhiên, trong trường hợp này, việc đóng góp của các bên vợ, chồng vào đời sống chung của gia đình cần được các văn bản pháp luật dự liệu cụ thể.

III. Một số vấn đề cần trao đổi về chế độ tài sản của vợ chồng

Qua nghiên cứu về chế độ tài sản của vợ chồng nói chung và các chế độ tài sản ước định nói riêng trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới, người viết thấy rằng, để xác định đuợc một cách thức tổ chức hợp lý nhất các quan hệ tài sản của vợ chồng, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam cần quan tâm xử lý hai vấn đề cơ bản sau :

Thứ nhất, nguyên tắc tự do cam kết, thỏa thuận trong các quan hệ dân sự, được ghi nhận trong Bộ luật dân sự, đảm bảo cho các cá nhân có quyền tự do thỏa thuận để xác lập các quyền và nghĩa vụ, miễn sao các thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật và đạo đức xã hội. Trong các quan hệ gia đình, vợ chồng có bổn phận, trách nhiệm phải đảm bảo những điều kiện về tinh thần cũng như vật chất cho sự tồn tại và phát triển của gia đình mình. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tất cả các đôi vợ chồng đều cần phải thực hiện một chế độ tài sản chung nhất. Quyền tài sản của vợ chồng là quyền gắn với nhân thân vợ chồng, vì vậy cần phải để cho chính họ cùng nhau thỏa thuận, quyết định lựa chọn một hình thức thực hiện hợp lý, có lợi nhất cho bản thân và cho gia đình. Mặt khác, để bảo vệ lợi ích của gia đình, của con cái, Luật Hôn nhân và gia đình cần tập trung quy định một cách rõ ràng hơn những nghĩa vụ và quyền về tài sản của vợ và chồng – áp dụng chung nhất cho mọi trường hợp, đồng thời phải đi kèm với những biện pháp đảm bảo thực hiện. Trong bối cảnh luật pháp như vậy, sự tự do thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng sẽ không phá vỡ tính cộng đồng của hôn nhân, mà trái lại, nó sẽ củng cố những quan hệ gia đình một cách thực chất và theo tinh thần tự nguyện hơn.

Thứ hai, thực tế kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều thay đổi so với thời kỳ những năm 1980-1990. Gia đình không còn bó hẹp với chức năng duy trì cuộc sống của các thành viên, mà thực sự đã tham gia tích cực vào nền kinh tế xã hội. Những quan hệ kinh tế đòi hỏi vợ, chồng phải có những quyết định nhanh nhạy, nhưng muốn vậy họ phải chủ động về tài sản. Người viết cho rằng, Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành chưa theo kịp diễn biến của những quan hệ kinh tế, dân sự hiện nay. Nếu vợ, chồng thực hiện đúng theo quy định pháp luật, trong nhiều trường hợp, họ sẽ bỏ lỡ những cơ hội làm ăn.

Bên cạnh đó, việc đưa những tài sản chung của vợ chồng vào các hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng hàm chứa những rủi ro và có thể dẫn đến nguy cơ tiêu tán tài sản của gia đình, đặt cuộc sống gia đình vào trong tình trạng bấp bênh. Vì thế, ở những nước mà luật pháp thừa nhận chế độ hôn sản ước định, những người vợ, chồng làm nghề kinh doanh thường nghĩ đến một chế độ tách riêng tài sản. Chế độ đó vừa tạo điều kiện cho họ chủ động trong hoạt động kinh doanh, vừa tránh được những rủi ro có thể xảy đến cho cuộc sống gia đình.

Vì vậy, chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận không phải là một điều mới lạ đối với xã hội Việt Nam, thậm chí nó đã từng được thực hiện trong một thời gian khá dài (nhất là ở Miền nam). Thực chất, việc duy trì duy nhất một chế độ tài sản của vợ chồng, cho đến nay, phản ánh sự thắng thế của một quan điểm lập pháp, chứ không phải hoàn toàn xuất phát từ thực tiễn kinh tế-xã hội. Chúng tôi không phủ nhận sự phù hợp của chế độ cộng đồng tạo sản mà Luật Hôn nhân và gia đình đang thực hiện, nhưng sự áp đặt của chế độ này cho mọi quan hệ vợ chồng thì không thể được coi là hợp lý. Hơn nữa, xã hội Việt Nam, thực ra, không quá khác so với môi trường các nước trên thế giới, đến mức mà chúng ta phải có một cách tổ chức các quan hệ tài sản của vợ chồng, theo cách riêng biệt đến như vậy. Do đó, cũng như quan điểm của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực Luật Hôn nhân và gia đình, chúng tôi cho rằng pháp luật về Hôn nhâ và gia đình Việt Nam cần thay đổi lại phương thức tổ chức các chế độ tài sản của vợ chồng, theo hướng thừa nhận quyền tự do của vợ chồng trong việc chọn chế độ tài sản áp dụng./.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Hôn nhân và Gia đình Việt nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009;

2. Xem: Nguyễn Văn Cừ, Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Nhà xuât bản Tư pháp, 2008;

3. Xem: Nguyễn Ngọc Điện, Bình luận khoa học Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, tập II, Các quan hệ tài sản giữa vợ chồng, Nhà xuất bản trẻ, 2004;

4. Xem: Bùi Minh Hồng, Chế độ tài sản theo chế độ thỏa thuận  của vợ chồng liên hệ từ pháp luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam.

Đoàn Thị Ngọc Hải