Pháp luật tố tụng hình sự quy định về người tham gia tố tụng – những bất cập và kiến nghị

16/06/2015
 

Thuật ngữ tố tụng (Procedure) dưới gốc độ tiếng Anh được định nghĩa là “cách thức tiến hành truy cứu pháp lý”([1]) hay theo Từ điển tiếng Việt, tố tụng được hiểu là “việc tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự” ([2]). Còn thuật ngữ tố tụng hình sự là “cách thức, trình tự tiến hành các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, của các cơ quan Nhà nước khác và các tổ chức xã hội góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự”([3]) hay ngắn gọn hơn là “một trong những hình thức hoạt động tố tụng nói chung hướng vào việc giải quyết một vụ án hình sự”([4])

Quy định về quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng hình sự, các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và công dân là một trong những phạm vi điều chỉnh của Luật Tố tụng hình sự Việt Nam. Mà theo đó, khi giải quyết vụ án hình sự có sự tham gia của nhiều cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cho nên, việc quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này là cơ sở để bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, trật tự an toàn xã hội, phát huy vai trò của quần chúng tham gia vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trên cơ sở này, Luật Tố tụng hình sự quy định quyền và nghĩa vụ cụ thể của các chủ thể này: Những việc được làm, những lợi ích được bảo vệ, những công việc phải thực hiện, … Như vậy, người tham gia tố tụng hình sự (viết tắt NTGTT) là người phải thực hiện đúng các yêu cầu, các quyết định của cơ quan có thẩm quyền và có những quyền, nghĩa vụ pháp lý tương ứng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Căn cứ vào quyền và nghĩa vụ trong tố tụng hình sự có thể chia thành hai nhóm:

- Nhóm thứ nhất, NTGTT có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, gồm: Bị can, bị cáo, người bị tạm giữ, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự.

- Nhóm thứ hai, NTGTT hình sự theo nghĩa vụ pháp lý, gồm: Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch.

1. Một số hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về việc xác định người đại diện hợp pháp của người bị hại trong những trường hợp cụ thể.

Theo Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của BLTTHS, có quy định: “1.4. Trong trường hợp người bị hại chết mà có từ hai người trở lên đều là người đại diện hợp pháp của người bị hại (ví dụ cha, mẹ, vợ và con thành niên của người bị hại) thì phân biệt như sau:

a) Trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên toà sơ thẩm những người này đã đồng ý cử một người trong số họ thay mặt họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của người bị hại (sự đồng ý này có thể được thể hiện trong văn bản riêng hoặc trong lời khai của họ), thì sau khi xét xử sơ thẩm những người này vẫn có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm. Việc kháng cáo có thể do từng người thực hiện hoặc có thể cử một người trong số họ thay mặt họ thực hiện.

b) Trường hợp trong quá trình điều tra, truy tố hoặc tại phiên toà sơ thẩm những người này chưa cử ai trong số họ thay mặt họ làm người đại diện hợp pháp của người bị hại, mà người đại diện hợp pháp của người bị hại chỉ do một hoặc một số người trong số họ tự nhận, nếu sau khi xét xử sơ thẩm có người trong số những người chưa cử người đại diện có đơn với nội dung khiếu nại bản án sơ thẩm hoặc xin xét xử phúc thẩm vụ án thì xử lý như sau:

b.1) Nếu nội dung đơn của họ phù hợp với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng, thì Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung;

b.2) Nếu nội dung đơn của họ không phù hợp với nội dung kháng cáo của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng hoặc người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng không kháng cáo và trong vụ án còn có những người tham gia tố tụng khác kháng cáo, Viện kiểm sát kháng nghị, thì khi xét xử phúc thẩm, Toà án cấp phúc thẩm huỷ bản án hoặc quyết định sơ thẩm về phần có liên quan mà họ có khiếu nại hoặc xin xét xử phúc thẩm vụ án để điều tra lại hoặc xét xử sơ thẩm lại do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng (chưa đưa họ vào tham gia tố tụng khi quyền, lợi ích của họ xung đột với quyền, lợi ích của người đại diện hợp pháp đã tham gia tố tụng)”.

Trước khi Thông tư liên tịch số 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC ngày 27/8/2010 hướng dẫn thi hành các quy định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, việc xác định trường hợp nào là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng nhìn chung là chưa rõ ràng, hướng dẫn chưa đầy đủ,  trong đó xác định không đúng tư cách NTGTT của CQTHTT trước có được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng để CQTHTT sau trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy án hay không, nên thường trong thực tiễn khi CQTHTT trước xác định sai tư cách NTGTT thì cơ quan tiến hành tố tụng sau sửa lại cho đúng mà không trả hồ sơ điều tra bổ sung hay hủy án. Tuy nhiên, từ khi TTLT số 01/2010 ra đời, tại điểm c khoản 2 Điều 4 của Thông tư này quy định: “xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ” là một trong những trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng được quy định tại khoản 3 Điều 168, điểm c khoản 1 Điều 179 BLTTHS và có thể xem đây cũng là hướng dẫn cho quy định tại điểm a khoản 2 Điều 250, khoản 3 Điều 273 BLTTHS.

Tuy nhiên, theo điểm a khoản 3 Điều 4 TTLT số 01/2010 thì không phải cứ xác định không đúng tư cách NTGTT thì CQTHTT sau có thể trả hồ sơ để điều tra bổ sung, hủy án mà việc xác định không đúng này phải xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT.

Từ thực tiễn thấy rằng, việc xác định sai tư cách NTGTT có thể xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của người bị xác định sai tư cách, NTGTT khác hoặc có thể không gây thiệt hại. trường hợp không xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT thì không đề cập đến. Đối với hai trường hợp còn lại, khi xác định không đúng tư cách NTGTT thì hoặc sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người đó hoặc NTGTT khác. Chẳng hạn, người bị thiệt hại về sức khỏe nhưng chưa đến mức bị khởi tố về tội độc lập trong vụ án gây rối trật tự công cộng, nếu xác định họ là người bị hại thì họ có quyền kháng cáo bản án tăng nặng hình phạt đối với bị cáo, trong khi đó nếu xác định đúng tư cách là nguyên đơn dân sự trong vụ án thì họ không có quyền này và việc xác định sai tư cách này sẽ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo. Ngược lại, cha, mẹ của bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi mà xác định là bị đơn dân sự sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của họ trong việc bồi thường thiệt hại do bị cáo gây ra trong khi họ chỉ có thể được xác định là người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án và phải bồi thường phần còn thiếu khi tài sản của bị cáo không đủ để bồi thường.

Ngoài trường hợp xác định sai tư cách thì việc xác định không đúng tư cách còn bao gồm việc xác định một người không phài là NTGTT nhưng lại xác định họ là NTGTT và ngược lại. Chẳng hạn, người đứng tên trong giấy đăng ký xe mô tô, xe máy mà bị cáo đã sử dụng để cướp giật tài sản, nhưng cơ quan điều tra không đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án (trong khi bị cáo mua xe của họ, nhưng chưa thanh toán đủ và chưa chuyển tên nên đã ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của họ).

Bên cạnh đó, hành vi xác định không đúng tư cách của NTGTT còn phải xâm hại nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT thì mới thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. TTLT số 01/2010 không giải thích thêm xâm hại nghiêm trọng là như thế nào. Theo Từ điển tiếng Việt, xâm phạm là “động chạm đến quyền lợi của người khác”; ”nghiêm trọng là “ ở trong trạng thái xấu, gay go đến mức trầm trọng, có nguy cơ dẫn đến những hậu quả hết sức tai hại”([5]). Từ đó, xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT được hiểu là hành vi vi phạm làm mất hoặc hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT mà đáng ra họ phải được hưởng trọn vẹn; đồng thời, trong một số trường hợp còn gây thiệt hại cho họ.

Như vậy, chỉ xem việc xác định không đúng tư cách NTGTT để trả hồ sơ điều tra bổ sung, hủy án khi hành vi xác định không đúng đó xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT trong vụ án.

2. Những bất cập trong thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS về người tham gia tố tụng.

2.1. Thực trạng xác định tư cách người tham gia tố tụng của các Cơ quan, người tiến hành tố tụng.

Từ khi BLTTHS có hiệu lực thi hành cho đến nay, nhìn chung các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) cơ bản đã tuân thủ đúng các quy định của BLTTHS về  xác định đúng tư cách của từng chủ thể khi tham gia tố tụng trong vụ án hình sự, từ đó giúp cho các quyết định của CQTHTT mang tính thuyết phục cao, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của từng chủ thể khi tham gia tố tụng. Bên cạnh những mặt đạt được, trên thực tế việc xác định tư cách tham gia tố tụng của các CQTHTT cũng còn nhiều vấn đề chưa có sự thống nhất về nhận thức phù hợp với quy định của BLTTHS.

2.1.1. Về hình thức thể hiện việc xác định tư cách tham gia tố tụng trong các văn bản tố tụng của cơ quan, người tiền hành tố tụng.

2.1.1.1. Đối với Cơ quan Cảnh sát điều tra

Trong giai đoạn khởi tố, điều tra, tư cách NTGTT được thể hiện trong các quyết định, biên bản liên quan đến hoạt động khởi tố, điều tra như: quyết định khởi tố bị can, quyết định tạm giữ, quyết định tạm giam, biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, bản kết luận điều tra,...Trong các hình thức thể hiện này, tư cách NTGTT được thể hiện trong các quyết định, biên bản trước khi kết thúc điều tra có thể thay đổi, nhưng tư cách NTGTT được thể hiện trong bản kết luận điều tra là kết quả chính thức, không thay đổi. Bởi vì, bản kết luận điều tra thể hiện sự đánh giá toàn diện của cơ quan điều tra về các vấn đề liên quan đến vụ án, trong đó có tư cách NTGTT trong vụ án và là văn bản đánh dấu việc kết thúc quá trình điều tra để chuyển sang giai đoạn truy tố.

Thực tiễn, việc xác định tư cách NTGTT là người bị tạm giữ, bị can, người bị hại trong bản kết luận điều tra, không ít trường hợp xác định rất chung chung, ví dụ: Người bị hại Nguyễn Quốc T. bị chết, nên lẽ ra phải xác định rõ ông Nguyễn Văn Phúc (cha ruột người bị hại) tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách Đại diện hợp pháp của người bị hại,  nhưng tại Bản kết luận điều tra số 03/KLĐT ngày 25/11/2010 của Cơ quan cảnh sát Điều tra – Công an tỉnh B, xác định ông Nguyễn Văn Phúc tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách gia đình người bị hại. Hoặc có trường hợp Bản kết luận điều tra lẽ ra phải ghi Đại diện hợp pháp của người bị hại thì ghi là Đại diện gia đình bị hại (người bị hại chết ); trong vụ án bị can là người chưa thành niên lẽ ra Cơ quan cảnh sát điều tra phải xác định cha, mẹ của bị can phải là Đại diện hợp pháp của bị can thì lại ghi là Đại diện gia đình bị can; hoặc trong vụ án bị can lấy con dao của anh M. (M. là chủ quán) để gây án, Cơ quan Điều tra tiến hành thu giữ con dao đó và xác định là công cụ mà bị can dùng để gây án, nhưng lại không xác định tư cách tham gia tố tụng của anh M. trong vụ án.

2.1.1.2. Đối với Viện kiểm sát nhân dân

Cũng như Cơ quan cảnh sát điều tra, khi vụ án được chuyển sang giai đoạn truy tố, hình thức thể hiện tư cách NTGTT cũng được Viện kiểm sát xác định thông qua biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung, các quyết định tố tụng có liên quan, cáo trạng hoặc quyết định truy tố và danh sách những người cần triệu tập tham gia phiên tòa. Trong số các hình thức trên thì cáo trạng, quyết định truy tố là hình thức xác định cuối cùng tư cách NTGTT trước khi chuyển hồ sơ sang Tòa án để xét xử. Ngoài ra, tư cách NTGTT còn được xác định trong danh sách những người cần triệu tập tham gia phiên tòa (kèm theo bản cáo trạng).

Thực tiễn xét xử cho thấy, hình thức thể hiện tư cách NTGTT trong cáo trạng, quyết định truy tố của Viện kiểm sát cũng có nhiều trường hợp thiếu nhất quán, như: Cáo trạng có thể hiện tên, tư cách tham gia tố tụng của một người, nhưng danh sách những người được triệu tập ra Tòa lại ghi không trùng khớp với tư cách của người đó thể hiện trong nội dung bản cáo trạng.

2.1.1.3. Đối với Tòa án

Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, tư cách NTGTT được xác định thể hiện chủ yếu trong các quyết định, lệnh có liên quan; trong đó, quyết định đưa vụ án ra xét xử (viết tắc QĐXX) và bản án là hình thức thể hiện tư cách NTGTT đầy đủ nhất. Nếu như QĐXX thể hiện toàn bộ tư cách NTGTT thì bản án chỉ đề cập đến những người mà phần quyết định của bản án có tác động đến quyền và nghĩa vụ của họ, người mà họ đại diện hay bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính vì vậy theo mẫu bản án hình sự sơ thẩm (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP ngày 05/11/2004 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao) người làm chứng không được xác định trong phần đầu của bản án. Trong các văn bản tố tụng được Tòa án ban hành, nếu QĐXX được xem là văn bản khởi đầu của việc xác định tư cách của NTGTT vì đây là văn bản quan trọng nhất và đánh dấu kết quả của toàn bộ giai đoạn xét xử sơ thẩm. Mặc dù, phần đầu của bản án không thể hiện người làm chứng trong vụ án nhưng trong phần xét thấy có đề cập đến tư cách người làm chứng.

Tuy nhiện, việc xác định tư cách NTGTT trước khi mở phiên tòa không đúng sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi  của NTGTT. Chẳng hạn, khi ban hành QĐXX, nếu một người được xác định tham gia tố tụng với tư cách là người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; nguyên đơn dân sự; bị đơn dân sự thì họ được nhận giấy triệu tập và QĐXX, nhưng nếu xác định những người này là người làm chứng thì họ chỉ nhận giấy triệu tập mà không nhận được QĐXX. Thêm vào đó, nếu xác định không đúng tư cách NTGTT thì khi phổ biến quyền và nghĩa vụ cho NTGTT tại phiên tòa cũng sẽ không đúng với quy định của BLTTHS. Ví dụ, một người được xác định là người làm chứng trong khi đáng lẽ họ phải được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì họ bị hạn chế một số quyền, trong đó có quyền tham gia tranh luận tại phiên tòa theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 54 BLTTHS. Cho nên, mặc dù bản án là văn bản chính thức thể hiện việc xác định tư cách NTGTT của Tòa án nhưng nếu việc xác định tư cách NTGTT trước khi ban hành bản án không đúng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến quyền và lợi ích hợp pháp của NTGTT.

2.1.2. Những quan điểm khác nhau về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong một số trường hợp cụ thể.

Trong thực tiễn, việc xác định tư cách NTGTT có sự không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau giữa các CQTHTT, NTHTT. Nguyên nhân chủ yếu là chưa nắm vững các quy định của BLTTHS cũng như các văn bản hướng dẫn liên quan đến NTGTT. Bên cạnh đó, các sai sót còn xuất phát từ các quy định của pháp luật về NTGTT chưa rõ ràng dẫn đến có nhiều cách hiễu và vận dụng khác nhau.

2.1.2.1. Tư cách tham gia tố tụng của người bị hại, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án khi họ đều là cá nhân.

Khi nguyên đơn dân sự là cơ quan, tổ chức thì tư cách của họ sẽ dễ dàng phân biệt với người bị hại; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Tuy nhiên, khi họ là cá nhân thì việc xác định rõ tư cách của từng đối tượng chủ thể không dễ. Chẳng hạn, trong vụ án gây rối trật tự công cộng, người bị hành vi của người thực hiện hành vi phạm tội gây rối trật tự công cộng gây thiệt hại về thể chất, tài sản của người khác, nhưng không đủ yếu tố cấu thành tội độc lập thì họ tham gia tố tụng với tư cách là gì? Có ý kiến cho rằng, họ là người bị hại vì thiệt hại của họ do hành vi của người thực hiện hành vi phạm tội gây ra, nếu không xác định họ là người bị hại sẽ gây ảnh hưởng đến quyền lợi của họ. Ý kiến khác lại cho rằng, họ không phải là người bị hại, vì thiệt hại của họ không phải là đối tượng tác động của tội phạm nên họ có thể được xác định là nguyên đơn dân sự. Ngoài ra, còn có ý kiến cho rằng, người bị hại, nguyên đơn dân sự là người có thiệt hại do tội phạm gây ra, trong khi thiệt hại này không phải do tội phạm gây ra, mà là do hành vi của người thực hiện hành vi phạm tội gây ra nên người này phải được xác định là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án .

Qua các ý kiến trên thấy rằng, để xác định người bị thiệt hại trong trường hợp này với tư cách nào cần phải làm rõ khách thể của tội gây rối trật tự công cộng. Khách thể của tội gây rối trật tự công cộng được hiểu là trật tự, an toàn công cộng mà trực tiếp là các quy tắc sống lành mạnh cũng như hoạt động bình thường của xã hội tại những khu vực công cộng([6]). Như vậy, quyền sở hữu tài sản cũng như quyền bất khả xâm phạm về thân thể không phải là đối tượng tác động của tội này, nên người bị thiệt hại không phải là người bị hại. Khi đó, trong vụ án này mặc dù quyền sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm phạm về thân thể không phải là đối tượng tác động của tội phạm nhưng để xâm phạm trật tự, an toàn công cộng thì người phạm tội phải tác động đến quy tắc sống lành mạnh, hoạt động bình thường của xã hội, đó có thể là việc bảo đảm quyền của chủ sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của con người cụ thể ở nơi công cộng. Cho nên, thiệt hại của chủ thể này cũng được xác định do tội phạm gây ra nên viêc xác định người bị thiệt hại trong vụ án này là nguyên đơn dân sự là phù hợp với lý luận và quy định của BLTTHS. Trong khi đó, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người có lợi ích vật chất, tinh thần liên quan đến vụ án đó và họ không phải là người bị thiệt hại nên người bị thiệt hại trong trường hợp này không phải là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Thêm vào đó, khái niệm người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án mang tính bao quát và chỉ chung những người nào có quyền lợi, nghĩa vụ bị ảnh hưởng trực tiếp từ quyết định của CQTHTT, NTHTT. Do đó, khi một chủ thể được xác định là người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự thì họ không phải là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

2.1.2.2. Việc xác định tư cách tham gia tố tụng của bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án cũng chưa rõ ràng.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 606 Bộ luật dân sự (BLDS), trách nhiệm bồi thường của cha, mẹ bị cáo đối với thiệt hại do bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội là người chưa thành niên gây ra bao gồm trách nhiệm bồi thường toàn bộ và trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu. Trong vụ án mà bị cáo là người chưa thành niên gây thiệt hại cho người khác thì các CQTHTT thường xác định cha, mẹ bị cáo là người đại diện hợp pháp cho bị cáo hoặc là bị đơn dân sự. Tuy nhiên, không phải bất kể người chưa thành niên nào phạm tội mà có gây thiệt hại thì cha, mẹ đó đều là bị đơn dân sự.

Trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại: Theo quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS:“Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu”. Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự (BLHS), tuổi 14 là tuổi bắt đầu có năng lực trách nhiệm hình sự. Như vậy, trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại của cha, mẹ bị cáo đặt ra trong trường hợp thiệt hại do hành vi phạm tội của con từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi gây ra. Cha, mẹ bị cáo chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do bị cáo khi thực hiện hành vi phạm tội là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi gây ra tham gia tố tụng với tư cách bị đơn dân sự. Trách nhiệm bồi thường của cha, mẹ bị cáo với tư cách bị đơn dân sự là trách nhiệm của chính mình, không phải là trách nhiệm nhân danh bị cáo. Cha, mẹ bị cáo trong trường hợp này có đủ điều kiện là “cá nhân… mà pháp luật quy định phải chịu trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” theo quy định tại khoản 1 Điều 53 BLTTHS để tham gia tố tụng với tư cách là bị đơn dân sự.

Việc xác định tư cách bị đơn dân sự cho cha, mẹ bị cáo trong trường hợp này cũng phù hợp với hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 mục 3 phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng: “Trong trường hợp quy định tại đoạn 1 khoản 2 Điều 606 BLDS thì cha mạ của người gây thiệt hại là bị đơn dân sự”.

Cha, mẹ bị cáo tham gia tố tụng với tư cách bị đơn dân sự trong cả hai trường hợp: khi xét xử bị cáo là người chưa thành niên và khi xét xử bị cáo đã thành niên. Trách nhiệm bồi thường của cha, mẹ không mất đi mặc dù con họ đã thành niên, vì trách nhiệm đó được xem xét trong mối quan hệ với thời điểm gây thiệt hại. Một số tài liệu chỉ đề cập đến tư cách bị đơn dân sự của cha, mẹ bị cáo là người chưa thành niên mà không đề cập đến tư cách bị đơn dân sự của cha, mẹ của bị cáo đã thành niên là chưa đầy đủ.

Bị đơn dân sự trong vụ án hình sự cũng không đồng nghĩa với bị đơn dân sự trong vụ án dân sự. Bị đơn dân sự trong vụ án dân sự là người bị khởi kiện, nhưng không phải người bị khởi kiện nào cũng phải bồi thường thiệt hại, mà việc họ có phải bồi thường thiệt hại cho nguyên đơn hay không còn tùy thuộc vào sự quyết định của Tòa án. Thực tiễn cho thấy không ít trường hợp người bị khởi kiện lại không phải bồi thường cho người đi kiện và bị đơn dân sự trong vụ án dân sự chỉ được xác định khi có đơn khởi kiện, còn bị đơn dân sự trong vụ án hình sự là do CQTHTT xác định dù nguyên đơn dân sự có khởi kiện hay không.

Trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu: Theo khoản 2 Điều 606 BLDS, trách nhiệm bồi thường phần còn thiếu của cha, mẹ bị cáo chỉ đặt ra trong trường hợp thiệt hại do hành vi phạm tội của con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây ra mà con không đủ tài sản để bồi thường và tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vì trách nhiệm bồi thường thiệt hại thuộc về bị cáo, nhưng việc Tòa án quyết định bị cáo phải bồi thường cho ai, với mức và các khoản bồi thường như thế nào ảnh hưởng đến nghĩa vụ của cha, mẹ bị cáo trong trường hợp bị cáo không đủ để bồi thường.

Cần lưu ý, việc xác định tư cách cha, mẹ bị cáo là người chưa thành niên là bị đơn dân sự hoặc người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án không làm mất đi tư cách đại diện hợp pháp của cha mẹ bị cáo. Bởi vì, phạm vi quyền và nghĩa vụ cùa các chủ thể là người đại diện hợp pháp, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là khác nhau. Do sự khác nhau đó, người tham gia tố tụng này không thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng khác. Với tư cách là người đại diện hợp pháp, cha, mẹ bị cáo có quyền mời người bào chữa cho bị cáo. Với tư cách là bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cha mẹ bị cáo có quyền có người đại diện hợp pháp và mời người bảo vệ quyền lợi cho mình. Với tư cách người đại diện hợp pháp, cha, mẹ bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến bị cáo. Với tư cách bị đơn dân sự hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cha, mẹ bị cáo có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến việc bồi thường thiệt hại và nghĩa vụ của họ([7]).

2.1.2.3. Xác định tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng phải chăng có sự nhầm lẫn.

Trong các vụ án chứa mại dâm; mua bán trái phép chất ma túy; đánh bạc thì có CQTHTT xác định người mua dâm cũng như người mua ma túy sử dụng, người tham gia đánh bạc là người làm chứng; có cơ quan lại xác định những người này là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (khi hành vi của những người này không bị khởi tố về tội độc lập).

Để xác định đúng tư cách người mua dâm cũng như người mua ma túy sử dụng, người tham gia đánh bạc cần phải nắm rõ, phân tích các quy định của pháp luật về tư cách của từng chủ thể. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người mà hành vi của họ có liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện và theo pháp luật họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình; họ không tham gia thực hiện tội phạm hoặc có tham gia, nhưng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự và Tòa án phải xử lý quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Thông thường người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người chủ sở hữu tài sản, nhưng tài sản đó lại có trong tay người phạm tội; người được người phạm tội cho tài sản, mà tài sản đó có được do hoạt động phạm tội và trách nhiệm mà họ phải chịu trách nhiệm chủ yếu là trách nhiệm vật chất.

Điều 42 BLTTHS năm 1988 và Điều 54 BLTTHS năm 2003 chỉ quy định người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhưng không quy định họ là người như thế nào, bao gồm những ai?. Trong khi đó, đối với những người tham gia tố tụng khác, như: bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người làm chứng,... đều có định nghĩa họ là người như thế nào. Do đó thực tiễn xét xử không ít trường hợp Tòa án xác định không đúng tư cách của họ.

Về lý luận cũng như thực tiễn xét xử cho thấy, Điều 54 BLTTHS quy định hai tư cách tham gia tố tụng có quyền và lợi ích hoàn toàn khác nhau, thậm chí đối lập nhau, đó là: Người có quyền lợi liên quan đến vụ án và người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nhưng thực tiễn xét xử một số Tòa án đã xác định không rõ ràng, cụ thể mà thường ghi là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, trong khi đó không phải trường hợp nào họ cũng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án mà nhiều trường hợp họ chỉ có quyền lợi chứ không có nghĩa vụ hoặc ngược lại chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền lợi. Tuy vậy, cũng có một số trường hợp vừa có quyền lợi vừa có nghĩa vụ. Vì vậy, các CQTHTT cần xác định cụ thể, rõ ràng. Nếu họ chỉ có quyền lợi thì chỉ ghi có quyền lợi liên quan đến vụ án; nếu họ chỉ có nghĩa vụ thì ghi họ là người có nghĩa vụ liên quan, còn nếu họ vừa có quyền lợi vừa có nghĩa vụ thì ghi người có quyền lợi và  nghĩa vụ liên quan đến vụ án (thay dấu phẩy bằng liên từ và); việc nhà làm luật quy định quyền và nghĩa vụ trong cùng một điều luật là để CQTHTT dễ xác định trong những trường hợp quyền lợi và nghĩa vụ của họ gắn liền với nhau, nhưng về lý luận chúng ta phải phân biệt tư cách tham gia tố tụng của hai người này, trên cơ sở đó để xác định đúng tư cách tham gia tố tụng của họ trong vụ án hình sự.

* Người có quyền lợi liên quan đến vụ án: Người có quyền lợi liên quan đến vụ án là người có lợi ích vật chất hoặc tinh thần bị xâm phạm có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo và được CQTHTT công nhận. Chỉ những lợi ích vật chất hoặc tinh thần có liên quan đến hành vi phạm tội thì người có lợi ích đó mới được công nhận là người có quyền lợi liên quan đến vụ án.

** Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người mà hành vi của họ có liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện và theo pháp luật họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình, trách nhiệm này chủ yếu là trách nhiệm vật chất.

Theo quy định tại Điều 54 BLTTHS thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tham gia phiên tòa; phát biểu ý kiến, tranh luận tại phiên tòa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; kháng cáo bản án hoặc quyết định của Tòa án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình; khiếu nại quyết định, hành vi của cơ quan người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, căn cứ vào địa vị pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, thì những quyền mà khoản 1 Điều 54 BLTTHS quy định chưa đảm bảo để họ thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng, do đó cần quy định thêm cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có những quyền như đối với bị đơn dân sự hoặc nguyên đơn dân sự, tức là họ cũng được thông báo kết quả điều tra; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; người giám định; người phiên dịch theo quy định của BLTTHS([8]).

Trong khi đó, người làm chứng là người biết các tình tiết có liên quan đến vụ án và được các CQTHTT triệu tập đến để cung cấp thông tin về những tình tiết có liên quan đến vụ án. Như vậy, cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng đều nắm được thông tin liên quan đến vụ án. Đối chiếu với các vụ án trên, người mua dâm cũng như người mua ma túy sử dụng, người tham gia đánh bạc đều có hành vi liên quan đến tội phạm do bị cáo thực hiện. Nhưng cần phải có điều kiện là theo quy định của pháp luật thì họ phải có trách nhiệm về hành vi của mình. Do vậy, nếu hành vi của họ không được pháp luật quy định về trách nhiệm thì không được xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án , mà phải là người làm chứng.

2.1.2.4. Việc xác định tư cách người làm chứng, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chống người thi hành công vụ chưa có sự thống nhất.

Việc truy tố và xét xử người có hành vi chống người thi hành công vụ, trong thực tiễn xác định tư cách người thi hành công vụ bị gây thương tích nhưng không cấu thành tội độc lập trong vụ án chống người thi hành công vụ cũng khác nhau. Có CQTHTT xác định người thi hành công vụ là người bị hại vì họ đã bị gây thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; có CQTHTT xác định họ là người làm chứng; CQTHTT khác lại xác định họ là người người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Một quan điểm khác biệt hơn, đó là xác định người thi hành công vụ trong vụ án đó là nguyên đơn dân sự, quan điểm này xem chừng phù hợp nhất, vì người thi hành công vụ có thiệt hại về sức khỏe; thiệt hại này do tội phạm gây ra và họ có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Nếu họ không có đơn yêu cầu bồi thường thì quyết định của CQTHTT có liên quan đến quyền và lợi ích của người này, nên họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu họ không bị thiệt hại về sức khỏe thì họ có thể tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng. Cần lưu ý, tại phiên tòa trường hợp nếu không có căn cứ thể hiện ý chí của người thi hành công vụ bị thiệt hại có yêu cầu bồi thường hay không có yêu cầu bồi thường (từ khi khởi tố vụ án đến khi xét xử) thì người thi hành công vụ có quyền khởi kiện tranh chấp theo trình tự, thủ tục dân sự.

2.1.2.5. Tư cách tham gia tố tụng của người bỏ tiền ra cứu chữa, mai táng cho người bị hại trong vụ án cố ý gây thương tích; vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ là gì?.

Chẳng hạn, trong các vụ án xâm phạm quyền sở hữu, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm người khác, mặc dù là người đã thành niên khi thực hiện hành vi phạm tội, nhưng bị cáo lại không có tài sản để bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả. Người thân của họ tự nguyện bỏ tiền ra bồi thường , khắc phục hậu quả thì tư cách tham gia tố tụng của họ được xác định như thế nào để đảm bảo quyền lợi của những người này trong việc yêu cầu bị cáo hoàn lại số tiền đã bỏ ra.

Thực tiễn, có CQTHTT xác định họ là nguyên đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi giải quyết vụ án, CQTHTT sẽ giải quyết cả phần chi phí cứu chữa, mai táng đã bỏ ra. Nếu có căn cứ sẽ công nhận số tiền mà chủ thể đã sử dụng vào việc cứu chữa, mai táng. Trong trường hợp này, cần xác định người đã bỏ tiền cứu chữa, mai táng là người làm chứng. Trong trường hợp người bị hại chết mà chi phí này do người đại diện hợp pháp của họ bỏ ra thì xác định họ có hai tư cách, vừa là người đại diện hợp pháp cho người bị hại, vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

2.1.2.6. Tư cách tham gia tố tụng của người đã giúp bị cáo về vật chất (cho mượn tiền, ứng tiền giúp bị cáo) khắc phục hậu quả là gì?

Trong thực tiễn, có cơ quan xác định họ là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; có CQTHTT không đưa họ vào tham gia tố tụng vì họ không liên quan gì đến vụ án. Trong trường hợp này, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người có trách nhiệm bồi thường, khắc phục hậu quả nhưng số tiền bồi thường lại của người khác. Khi giải quyết vụ án sẽ đề cập đến số tiền của người đã bỏ ra bồi thường. Vì vậy, phần quyết định giải quyết sẽ có liên quan đến số tiền đã bỏ ra bồi thường. Do đó, cũng như người đã bỏ ra chi phí mai táng, cứu chữa cho người bị hại thì cần xác định chủ thể này là người làm chứng để đảm bảo quyền lợi của họ sau này, còn việc họ có yêu cầu bị cáo giao trả lại hay không phụ thuộc vào ý chí của họ.

2.1.2.7. Tư cách tham gia tố tụng của người là đại diện hợp pháp của bị cáo.

Khoản 3 Điều 306 BLTTHS quy định: “Tại phiên tòa xét xử bị cáo là người chưa thành niên bắt buộc phải có mặt đại diện gia đình bị cáo”. Trên thực tế, hiện nay đang có nhiều cách hiểu khác nhau về quy định này.

Theo cách hiểu thứ nhất, đại diện gia đình bị cáo là người chưa thành niên phải là cha, mẹ hoặc người giám hộ. Quan điểm này dựa trên quy định tại Điều 141 BLDS (cha, mẹ là đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên; người giám hộ là đại diện theo pháp luật cho người được giám hộ). Mặt khác, tại tiểu mục 1.1, mục 1, phần I của Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ tư “Xét xử phúc thẩm” của Bộ luật tố tụng hình sự, có quy định: “Bị cáo, người đại diện hợp pháp (đại diện theo pháp luật) của bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền kháng cáo toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm”.

Theo cách hiểu thứ hai, chỉ có chủ hộ mới là đại diện gia đình bị cáo chưa thành niên. Bởi lẽ Điều 107 BLDS quy định chủ hộ là đại diện của hộ gia đình trong các giao dịch dân sự vì lợi ích chung của hộ. Cha, mẹ hoặc một thành viên khác đã thành niên có thể là chủ hộ…

Theo cách hiểu thứ ba, người đại diện này có thể bao gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền của người đại diện theo pháp luật. Những người theo cách hiểu này lý giải luật chỉ quy định về “đại diện gia đình bị cáo” thì người được ủy quyền hợp pháp cũng giữ vai trò đại diện được.

Cách hiểu thứ tư phổ biến nhất là người đại diện này có thể bao gồm một trong tất cả những người trong hộ gia đình đã thành niên như cha, mẹ, ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị… của bị cáo. Hoặc cũng có thể không bắt buộc những người này phải cư trú cùng hộ gia đình mà chỉ cần có quan hệ như trên là đủ.

Hiện nay, cách hiểu thứ tư đang được áp dụng rộng rãi từ giai đoạn điều tra cho đến khi xét xử. Chỉ cần một người đã thành niên có quan hệ huyết thống với bị cáo chưa thành niên thì được xem như là đại diện gia đình cho bị cáo chưa thành niên. Dù vậy, có vụ tòa này chấp nhận, có vụ tòa kia lại trả hồ sơ vì cho rằng Cơ quan tiến hành tố tụng trước đó vi phạm nghiêm trọng tố tụng.

Việc có nhiều cách hiểu như trên là do hiện nay, pháp luật tố tụng hình sự chưa có hướng dẫn cụ thể thế nào là đại diện gia đình bị cáo.

Trong một hội nghị tổng kết ngành Tòa án, Tòa Hình sự TAND Tối cao từng nêu quan điểm về việc này. Theo Tòa hình sự, người đại diện hợp pháp của bị cáo trong tố tụng hình sự phải là người đại diện đương nhiên chứ không phải người đại diện theo ủy quyền. Nếu bị cáo còn cha mẹ thì cha mẹ là người đại diện hợp pháp của bị cáo. Nếu bị cáo không còn cha mẹ thì Tòa có thể xác định những người thân của bị cáo như ông, bà, cô, dì, chú, bác, anh, chị ruột của bị cáo là người đại diện hợp pháp của bị cáo. Nếu bị cáo không còn người thân thích thì đại diện nhà trường, đoàn thanh niên hoặc tổ chức khác tham gia phiên tòa với tư cách là người đại diện hợp pháp của bị cáo.

Tuy nhiên, đây cũng chỉ là quan điểm riêng của Tòa hình sự, chưa phải là hướng dẫn chính thức bằng văn bản của TAND Tối cao để áp dụng thống nhất trong ngành, nên thực tế vẫn diễn ra tình trạng mỗi cơ quan tố tụng tồn tại một cách hiểu khác nhau.

Thực tiễn xét xử người chưa thành niên còn nảy sinh một vướng mắc khác chưa được hướng dẫn đó là trường hợp gia đình bị cáo ở quá xa, không thể triệu tập họ để tiến hành các hoạt động tố tụng có liên quan, thì phải giải quyết sao?

Đã có những vụ án, cơ quan điều tra không triệu tập được bất cứ người đại diện hợp pháp nào của bị cáo vì họ ở quá xa hoặc vì lý do nào đó họ không thể có mặt theo yêu cầu của giấy triệu tập. Khi hồ sơ vụ án chuyển qua tòa, tòa cũng không thể triệu tập được. Đến ngày xét xử, không có mặt đại diện hợp pháp của bị cáo, tòa lại phải hoãn. Để tránh việc án bị kéo rê, khi không thể tống đạt trực tiếp, có tòa linh hoạt yêu cầu Đoàn thanh niên cử người tham gia tố tụng. Nhưng đây là cách làm không đúng quy định tố tụng bởi Đoàn thanh niên chỉ cử người tham gia khi không có đại diện hợp pháp bị cáo (đại diện theo pháp luật).

Luật hiện hành quy định người chưa thành niên dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường, nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà bị cáo có tài sản riêng thì lấy tài sản riêng của bị cáo để bồi thường. Nhưng trường hợp bị cáo dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà không còn cha, mẹ, đồng thời cũng không có người giám hộ thì ai bồi thường? Nếu bị cáo có tài sản riêng thì có được lấy tài sản của họ để bồi thường hay không? Nếu họ không có tài sản riêng thì việc giải quyết bồi thường phải tính ra sao? Tòa sẽ phải tuyên phần bồi thường không có, không giải quyết hay không bồi thường?

Trong vụ án người chưa thành niên phạm tội, cơ quan điều tra thường chỉ chú trọng đến việc có mặt của luật sư mà quên đi sự có mặt của đại diện hợp pháp của bị cáo. Hoặc trong hồ sơ, cơ quan điều tra thường chỉ có một hoặc hai biên bản hỏi cung có chữ ký của đại diện hợp pháp của bị cáo. Vấn đề đặt ra là có bắt buộc tất cả các buổi hỏi cung người chưa thành niên phạm tội đều phải được đại diện gia đình họ chứng kiến và ký vào biên bản hay không? Hay chỉ cần một hoặc vài biên bản có chữ ký của đại diện gia đình là được? Nếu chỉ có một hoặc vài biên bản thì liệu các biên bản đó có phải thể hiện đầy đủ nội dung phạm tội và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án hay không?

Chúng tôi cho rằng trong trường hợp bị cáo là người chưa thành niên thì cha, mẹ họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp là hợp lý. Nhưng liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại, cha, mẹ bị cáo là người chưa thành niên có thể đồng thời tham gia tố tụng với tư cách người đại diện hợp pháp của bị cáo và bị đơn dân sự (trong trường hợp thiệt hại do hành vi phạm tội của con từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi gây ra) hoặc với tư cách người đại diện hợp pháp của bị cáo và người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án (trong trường hợp thiệt hại do hành vi phạm tội của con từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi gây ra). Sự tham gia đồng thời với những tư cách tố tụng khác nhau được giải thích bởi những lập luận sau:

Thứ nhất: phạm vi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khác nhau. Do sự khác nhau đó, người tham gia tố tụng này không thể thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng khác. Với tư cách người đại diện hợp pháp, cha, mẹ bị cáo có quyền mời người bào chữa cho bị cáo. Với tư cách bị đơn dân sự hoặc người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cha, mẹ bị cáo có quyền có người đại diện hợp pháp và mời người bảo vệ quyền lợi cho mình. Với tư cách người đại diện hợp pháp, cha, mẹ bị cáo có quyền kháng cáo toàn bộ bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến bị cáo. Với tư cách bị đơn dân sự hoặc người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cha, mẹ bị cáo có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định sơ thẩm liên quan đến việc bồi thường thiệt hại và nghĩa vụ của họ.

Thứ hai: tính chất quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khác nhau. Với tư cách người đại diện hợp pháp, cha, mẹ bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ vì lợi ích của bị cáo. Với tư cách bị đơn dân sự hoặc người có nghĩa vụ liên quan đến vụ án, cha, mẹ bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ vì lợi ích của chính mình. Cha, mẹ bị cáo không thể là người đại diện cho nghĩa vụ bồi thường của chính mình.

2.1.2.8. Một số quy định liên quan đến người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại cũng chưa thật rõ ràng.

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng nói chung và người bị hại nói riêng là một trong những nội dung quan trọng trong định hướng cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng hình sự (TTHS) ở nước ta hiện nay. Bởi lẽ người bị hại là người mà quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm hại nặng nề nhất, là người chịu thiệt thòi nhiều nhất trong số những người tham gia tố tụng. Vì vậy, người bị hại cần phải được bảo vệ kịp thời, thậm chí ngay khi họ bị đe dọa gây thiệt hại. Một trong những công cụ pháp lý quan trọng để bảo vệ người bị hại đó là pháp luật TTHS.

Thực tế cho thấy, vì nhiều lý do khác nhau mà quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại chưa được bảo vệ tốt và kịp thời; trong quá trình giải quyết vụ án hình sự dường như cơ quan có thẩm quyền chưa xem người bị hại như một bên của quá trình tố tụng để có sự quan tâm cần thiết. Thực tế trên đây bắt nguồn từ vấn đề nhận thức thế nào là người bị hại, phạm vi người bị hại, người bị hại xuất hiện từ thời điểm nào? Họ cần được bảo vệ như thế nào, quy định pháp luật cũng như thực tiễn áp dụng đối với người bị hại ra sao... vẫn chưa có sự nhận thức và hành động thống nhất, dẫn đến nhiều quy định pháp luật đặc biệt là pháp luật TTHS đang còn bỏ ngỏ hoặc có quy định nhưng chưa đủ những phương tiện cần thiết để bảo vệ cho người bị hại.

2.1.2.9. Chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại.

Khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại (hay còn gọi là tư tố) là một chế định không mới, được áp dụng khá phổ biến trong pháp luật các nước. Ở Việt Nam chế định này lần đầu tiên được quy định trong BLTTHS năm 1988. Đây là chế định thể hiện tính dân chủ, sự tôn trọng và cảm thông trước sự thiệt hại, mất mát, đau đớn của người bị hại. Mặc dù nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự Việt Nam là nguyên tắc công tố, tức là hành vi phạm tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước, Nhà nước đã cam kết sẽ bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi công dân bằng một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, đó là Hiến pháp, bằng cả hệ thống pháp luật và cơ chế đảm bảo thực hiện. Mọi hành vi phạm tội xâm hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân sẽ bị Nhà nước xử lý nghiêm khắc. Tuy nhiên, khi xử lý hành vi phạm tội, Nhà nước còn phải quan tâm đến nguyện vọng và lợi ích chính đáng của người bị hại. Thực tế cho thấy mặc dù bị thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra nhưng người bị hại lại không muốn đưa ra xử lý vì như vậy sẽ ảnh hưởng đến uy tín, danh dự, tương lai của họ, cũng có trường hợp giữa người bị hại và người gây thiệt hại có những mối quan hệ đặc biệt. Điều 51 và Điều 105 BLTTHS đã ghi nhận yêu cầu của người bị hại. Quá trình áp dụng cho thấy chế định khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại đã phát huy hiệu quả, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại được bảo vệ tốt hơn.

Tuy nhiên so với yêu cầu đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại, chế định này cũng đã bộc lộ một số bất cập. Chẳng hạn: Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 BLTTHS, trong trường hợp vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại quy định tại Điều 105 Bộ luật này thì người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ trình bày lời buộc tội tại phiên tòa. Đây là một nội dung đã được quy định từ những năm 1988, qua các lần sửa đổi, bổ sung, BLTTHS vẫn giữ nguyên quy định này. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền về việc người bị hại trình bày lời buộc tội bị cáo tại phiên tòa như thế nào. Trường hợp nếu người bị hại trình bày lời buộc tội thì kiểm sát viên tham gia phiên tòa có trình bày lời buộc tội nữa không? Lời buộc tội của người bị hại có giá trị như thế nào? Sự có mặt của người bị hại trong trường hợp này có bắt buộc như đối với kiểm sát viên không? Thực tiễn xét xử cho thấy mọi việc đều do kiểm sát viên thực hiện, còn người bị hại trong trường hợp này cũng không có gì đặc biệt so với người bị hại trong các vụ án khác. Hơn nữa, bản thân quy định này cũng chưa thật đầy đủ và phù hợp, chẳng hạn trong giai đoạn trước khi mở phiên tòa thì người bị hại có các quyền hạn cụ thể nào, cách thức thực hiện các quyền đó ra sao cũng chưa được quy định rõ. Chúng tôi cho rằng đối với vụ án được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại phải khác so với vụ án thông thường, quyền của người bị hại được thể hiện trong suốt quá trình tố tụng chứ không chỉ đơn thuần là trình bày lời buộc tội tại phiên tòa như quy định hiện nay.

3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện

3.1. Về người đại diện hợp pháp trong BLTTHS: Theo quy định tại khoản 1 Điều 191 BLTTHS: “Nếu người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc đại diện hợp pháp của họ vắng mặt thì tùy từng trường hợp, Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên tòa hoặc vẫn tiến hành xét xử”. Nhưng trong BLTTHS hiện hành không quy định thành một điều luật riêng về người đại diện hợp pháp, mà lại quy định cùng trong một số điều luật quy định về người tham gia tố tụng khác, như: Khoản 2 Điều 51, khoản 2 Điều 52, khoản 2 Điều 53 quy định... việc quy định như vậy, theo chúng tôi là chưa rõ ràng, thiếu chính xác và dẫn đến chưa thống nhất trong áp dụng các quy định của pháp luật về người đại diện hợp pháp khi giải quyết vụ án, cụ thể:

Thứ nhất: BLTTHS chưa quy định rõ về người đại diện hợp pháp (tức là chưa quy định rõ ai sẽ là người đại diện hợp pháp của bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,...) nên dẫn đến tình trạng xuất hiện nhiều quan điểm khác nhau về xác định người đại diện hợp pháp.

Quan điểm thứ nhất: Vì pháp luật tố tụng hình sự hiện hành không quy định cụ thể việc xác định người đại diện hợp pháp, nên người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,... có thể có từ hai người trở lên là người đại diện hợp pháp cho mình tại phiên tòa, đó có thể là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gốm: Bố, mẹ, vợ (chồng), và thành niên của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nên khi xét xử, Tòa án phải triệu tập tất cả họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp.

Quan điểm thứ hai: Mặc dù pháp luật tố tụng hình sự không quy định cụ thể việc xác định tư cách tham gia tố tụng của người đại diện hợp pháp, nhưng phải hiểu rằng trong mọi trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chỉ có thể một người tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp như quy định của BLTTHS.

Cụ thể: đối với người chưa thành nhiên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc người chưa thành niên nhưng chưa xây dựng gia đình thì bố (hoặc mẹ) sẽ là người đại diện hợp pháp của họ; nếu bố, mẹ không còn hoặc không thể là người đại diện hợp pháp, thì anh cả hoặc chị cả là người đại diện hợp pháp; người đã thành niên và đã xây dựng gia đình, thì vợ (chồng) sẽ là người đại diện hợp pháp của chồng (vợ); nếu vợ (chồng) không thể là người đại diện hợp pháp thì con cả đã thành niên sẽ là người đại diện hợp pháp;...

Chính vì có những quan điểm trái ngược nhau như trên, nên trong thực tiễn xét xử số lượng người đại diện hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong nhiều vụ án cụ thể không giống nhau.Về vấn đề này tại tiểu mục 1.4, mục 1, phần I của Nghị quyết số 05/2005/NQ-HĐTP ngày 08/12/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: ... “ trong trường hợp người bị hại chết mà có từ hai người trở lên đều là người đại diện hợp  pháp của người bị hại (cha, mẹ, vợ và con thành niên của người bị hại) thì phân biệt như sau:...” Nên có thể thấy là trong thực tế chúng ta đã mặc nhiên thừa nhận trường hợp người bị hại có thể có từ hai người trở lên đều là người đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia tố tụng, do vậy khi xét xử Tòa án phải triệu tập tất cả những người đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia tố tụng. Nếu những người đại diện hợp pháp có lợi ích thống nhất với nhau thì yêu cầu họ cử một người trong số họ làm người đại diện hợp pháp. Ngược lại, nếu những người đại diện hợp pháp không thống nhất lợi ích với nhau thì Tòa án phải công nhận họ cùng làm người đại diện hợp pháp của người bị hại tham gia tố tụng.

Thứ hai: Những trường hợp nào thì người đại diện hợp pháp có đầy đủ các quyền của người được đại diện theo quy định của pháp luật.

Người đại diện của người bị hại và quyền của người đại diện của người bị hại khi tham gia tố tụng hình sự được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS). Cụ thể, Khoản 5 Điều 51 của BLTTHS quy định: “Trong trường hợp người bị hại chết, thì người đại diện hợp pháp của họ có những quyền quy định tại điều này”

Vấn đề xác định tư cách người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định các vấn đề có liên quan trong vụ án mà Hội đồng xét xử cần phải giải quyết, đặc biệt là việc xác định tư cách người đại diện hợp pháp của người bị hại đã chết trong các vụ án hình sự. 

Để xác định và đưa vào tham gia tố tụng trong vụ án với tư cách là người đại diện hợp pháp của người chết thì các cơ quan tiến hành tố tụng vụ án hình sự cần phải thu thập các tài liệu, chứng cứ có liên quan để xác định về những người thừa kế theo pháp luật của người chết. Những người thừa kế theo pháp luật của người bị hại đã chết phải được tham gia tố tụng ngay từ giai đoạn điều tra. Nếu người chết có những người thừa kế theo pháp luật ở hàng thứ nhất như vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi thì ngay từ giai đoạn điều tra cơ quan điều tra phải triệu tập tất cả những người này để ghi nhận ý kiến của họ về vấn đề cần giải quyết. Trường hợp chỉ có một người đến làm việc với cơ quan điều tra thì những người khác phải có giấy ủy quyền cho họ. Đối với con chưa thành niên thì người cha hoặc người mẹ là giám hộ đương nhiên không cần giấy ủy quyền. Trong thực tế đã có nhiều trường hợp người chết có vợ nhưng lại chung sống với người phụ nữ khác và có con nhưng cơ quan điều tra chỉ làm việc với người vợ mà bỏ quên quyền lợi của người con mà người chết đã chung sống với người phụ nữ khác; hoặc người chết còn cha, mẹ nhưng họ cũng không được triệu tập để tham gia tố tụng.

Tuy nhiên, BLTTHS lại không quy định người nào là người đại diện hợp pháp của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết và cũng không quy định cơ quan tiến hành tố tụng hình sự được áp dụng quy định về người đại diện theo pháp luật của BLDS vào việc giải quyết vụ án hình sự. Dù vậy, các CQTHTT vẫn áp dụng quy định về người đại diện hợp pháp (theo quy định của BLDS) của người bị hại trong trường hợp người bị hại chết – mà chưa có quan điểm nào phản bác, đó là những người sau đây: cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột, ông bà nội, ông bà ngoại của người bị hại vì những người này là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc hàng thừa kế thứ hai của người bị hại (khi không có hàng thừa kế thứ nhất). Điều đó có nghĩa là việc xác định tư cách người đại diện hợp pháp của người bị hại mà các CQTHTT hiện đang thực hiện đã được xã hội chấp nhận.

Vấn đề đặt ra là người đại diện hợp pháp của người bị hại mà các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đang thực hiện có phải là đúng cho mọi trường hợp người bị hại chết hay không?

Ví dụ: Anh Nguyễn Văn A (vợ, cha, mẹ chết) có một con 5 (năm) tuổi, anh A bị chết trong vụ tai nạn giao thông. Khi giải quyết vụ án, thì người nào là người đại diện hợp pháp cho anh A tham gia tố tụng?

Trong thực tiễn xét xử hiện nay thì người đại diện hợp pháp cho anh A là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của anh A. Hàng thừa kế thứ nhất của anh A có bốn người, nhưng đã có 3 người chết là cha, mẹ, vợ còn lại một người, là con anh A 5 (năm) tuổi, nhưng con của anh A là người không có năng lực hành vi dân sự. Điều 21 BLDS quy định: “Người chưa đủ 6 tuổi, không có năng lực hành vi dân sự”. Vậy ai là người đại diện hợp pháp cho anh A để tham gia tố tụng. Vấn  đề này đang có hai ý kiến khác nhau.

- Ý kiến thứ nhất: do con anh A không có năng lực hành vi dân sự nên cơ quan tiến hành tố tụng hình sự yêu cầu những người trong hàng thừa kế thứ hai của anh A (anh, chị, em ruột của anh A hoặc ông bà nội, ông bà ngoại của anh A).

- Ý kiến thứ hai: khác với ý kiến thứ nhất và cho rằng chỉ khi nào không có người ở hàng thừa kế thứ nhất, thì hàng thừa kế thứ hai mới cử người đại diện hợp pháp tham gia tố tụng. Vì người đại diện hợp pháp của anh A không những có các quyền theo quy định tại Điều 51 của BLTTHS mà còn có nghĩa vụ đối với di sản của anh A để lại. Do đó thuộc loại ý kiến thứ hai cho rằng: người giám hộ của anh A tham gia tố tụng với tư cách là người giám hộ của người đại diện người bị hại. Vì con anh A mới 5 tuổi rất cần người giám hộ, như vậy là mở rộng người giám hộ mà không bị giới hạn ở hàng thừa kế. Cách giải quyết này phù hợp với quy định về người đại diện hợp pháp quy định tại khoản 2 Điều 141 của BLDS. Khoản 2 Điều 141BLDS quy định: “Người giám hộ của người được giám hộ”.

Tuy nhiên những người đồng ý với loại ý kiến thứ hai cũng nhận thấy trong BLTTHS hiện hành chưa có điều luật nào quy định về người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự có người giám hộ của đại diện người bị hại. Người viết đồng tình với ý kiến thứ hai và đề nghị: BLTTHS cần có điều luật quy định về người đại diện của người bị hại trong vụ án hình sự, về tên gọi đối với từng trường hợp, có thể là:

- Trường hợp thứ nhất: Người đại diện của người bị hại là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị hại hoặc là người thuộc hàng thừa kế thứ hai (trường hợp không có người thuộc hàng thừa kế thứ nhất). Những người trong cùng hàng thừa kế cử một người đại diện tham gia tố tụng với tên gọi là người đại diện của người bị hại.

- Trường hợp thứ hai: Tuy có người thuộc hàng thừa kế thứ nhất hoặc thuộc hàng thừa kế thứ hai nhưng người này không có năng lực hành vi dân sự hoặc là người bị mất năng lực hành vi dân sự, hoặc là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hoặc là người chưa thành niên từ đủ 6 (sáu) tuổi đến chưa đủ 15 (mười lăm) tuổi quy định tại các Điều 20, 21, 22, 23 của BLDS. Những người này trong giao dịch dân sự cần có người giám hộ đại diện. Do đó trong trường hợp thứ hai, cần có người giám hộ của người đại diện của người bị hại tham gia tố tụng với tên gọi là Người giám hộ của người đại diện của người bị hại. Người giám hộ của người đại diện của người bị hại có thể là cá nhân hoặc có thể là tổ chức xã hội.

3.2. Vấn đề liên quan đến người đại diện hợp pháp của người bị hại khi người bị hại mất tích: BLTTHS chỉ quy định trường hợp người bị hại chết mà chưa quy định trường hợp người bị hại mất tích. Vậy trường hợp người bị hại được xác định là mất tích thì vấn đề người đại diện hợp pháp của họ được quy định và giải quyết như thế nào? Họ có được phép tham gia tố tụng và được thực hiện các quyền của người bị hại không? Thực tiễn giải quyết vụ án cho thấy CQTHTT giải quyết không thống nhất với nhau. Do vậy, BLTTHS cần bổ sung trường hợp trên theo hướng thừa nhận người đại diện hợp pháp của người bị hại mất tích được tham gia tố tụng và được thực hiện các quyền của người bị hại.

Trong trường hợp này CQTHTT không xác định được ai là người đại diện hợp pháp, hoặc người bị hại thực tế cũng không còn ai là người đại diện hợp pháp thì giải quyết như thế nào? Người thân thích của người bị hại có được tham gia tố tụng không và với tư cách gì? Về vấn đề này chưa có sự nhận thức và áp dụng thống nhất. Hiện có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này: Người thân của người bị hại cũng được xem là người đại diện hợp pháp([9]); người thân của người bị hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan([10]); người thân của người hại trong các trường hợp trên chính là người bị hại và với tư cách đó họ cần phải tham gia vào vụ án([11]); người thân của người bị hại là người đại diện của người bị hại và là người bị hại([12]).  Đây là vấn đề cần được nghiên cứu bổ sung vào Bộ luật để đảm bảo sự thống nhất trong quá trình áp dụng cũng như bảo đảm các quyền của người bị hại. Theo tôi người thân thích của người bị hại chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất được tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp, khi tham gia tố tụng họ có các quyền của người bị hại. Trường hợp người bị hại không còn ai là người thân thích thì CQTHTT yêu cầu Tổ chức trợ giúp pháp lý trên địa bàn, cử người bảo vệ quyền lợi cho họ.

Trong trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị hại có quyền và nghĩa vụ mâu thuẫn với nhau thì giải quyết như thế nào? Cho đến nay vấn đề này chưa được cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn cụ thể mà chỉ được thể hiện trong kết luận của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao tại Hội nghị tổng kết ngành năm 1990,ví dụ: chồng giết vợ mà người vợ còn có bố, mẹ và các con của người vợ này đã thành niên. Theo quy định pháp luật, những người này đều là người đại diện hợp pháp của người bị hại. Nhưng nếu bố, mẹ vợ yêu cầu Tòa án phải tuyên mức án nghiêm khắc nhất đối với người con rể đã giết con ruột của mình, trong khi đó những người con của người bị hại lại yêu cầu Toà án tuyên hình phạt nhẹ nhất cho bố mình để cha con sớm đoàn tụ thì HĐXX xử lý như thế nào? Trong trường hợp này mặc dù vẫn có ý kiến khác nhau nhưng theo quan điểm của người viết cần xác định họ đều là những người đại diện hợp pháp của người bị hại, họ có quyền và nghĩa vụ ngang nhau khi tham gia tố tụng, nên Tòa án không thể tùy tiện áp đặt ý chỉ chủ quan về phía bên nào, mà cần tạo điều kiện cho họ thỏa thuận cử ra một người đại diện tham gia tố tụng (những người không tham gia tố tụng phải làm thủ tục ủy quyền cho người tham gia tố tụng) ý kiến của người được cử làm đại diện là quan điểm chung thống nhất cho bố, mẹ vợ và các con của nạn nhân, nhưng nếu cuối cùng giữa họ cũng không thống nhất được việc cử người đại diện thì Tòa án phải chấp nhận sự tham gia tố tụng, mà theo đó, có sự đại diện cho hai quan điểm khác nhau như đã trình bày, có như vậy mới bảo đảm tính công bằng, khách quan trong hoạt động xét xử của Tòa án.

3.3. Quyền tham gia tố tụng của người bị hại trong vụ án mà quyết định khởi tố theo yêu cầu của người bị hại. Từ thực trạng nêu trên xin đề nghị:

Thứ nhất, nghiên cứu để mở rộng hơn nữa phạm vi các tội mà cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Theo người viết nên mở rộng đối với các tội xâm phạm quyền sở hữu, danh dự, nhân phẩm và thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng.

Thứ hai, cho phép người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ có quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến vụ án nếu không thuộc bí mật nhà nước để phục vụ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị hại.

Thứ ba, cần quy định cụ thể thủ tục tố tụng riêng cho trường hợp khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, mà theo đó, chỉ có người bị hại mới có quyền đưa một người ra xét xử tại phiên tòa, công tố viên tham gia tố tụng tại phiên tòa chỉ nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án khi xét xử mà thôi. Tòa án đưa vụ án ra xét xử trên cơ sở đề nghị của người bị hại, nên cùng với bản cáo trạng mà kiểm sát viên đọc tại phiên tòa, thì lời cáo buộc của người bị hại có ý nghĩa bao trùm trước khi tiến hành xét hỏi. Kiểm sát viên cũng không trình bày lời luận tội mà sẽ do người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại trình bày. Trong trường hợp này người bị hại, đại diện hợp pháp của họ bắt buộc phải có mặt tại phiên tòa, nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa.

3.4. Về người tham gia tố tụng:

Thứ nhất, cần xác định những chủ thể nào là NTGTT bởi vì không như NTHTT được quy định cụ thể tại khoản 2 Điều 33 BLTTHS, NTGTT không được quy định bao gồm những chủ thể nào mà chỉ quy định NTGTT là tiêu đề của Chương IV BLTTHS, rồi liệt kê từng loại chủ thể. Trong khi đó, ngoài từng chủ thể được quy định là tiêu đề của mỗi điều luật, trong mỗi điều luật còn quy định người đại diện hợp pháp của họ cũng tham gia tố tụng. Như vậy, người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, nguyên đơn dân sự,... có phải là NTGTT hay không cũng chưa được thể hiện rõ. Vì vậy theo đề xuất của người viết, cần giới hạn chủ thể được xác định NTGTT, chỉ bao gồm: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người phiên dịch, người giám định và người đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại.

Thứ hai, cần bổ sung quy định vào Điều 62 BLTTHS trách nhiệm xác định tư cách NTGTT của cơ quan, NTHTT để đảm bảo quyền của từng chủ thể khi tham gia vào vụ án hình sự, vì khi xác định không đúng tư cách NTGTT sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Thứ ba, cần quy định rõ hơn hoặc có sự giải thích phù hợp đối với khái niệm của từng NTGTT như khái niệm giữa người bị hại với nguyên đơn dân sự; người có nghĩa vụ liên quan với bị đơn dân sự,...

Thứ tư, cần nêu một cách khái quát khái niệm người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và cần quy định có tính chất loại trừ những chủ thể được xác định là nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại thì không phải là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, trừ khi một người có thể tham gia hai tư cách bởi vì khái niệm người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có phạm vi rất rộng.

Thứ năm, về người đại diện hợp pháp của NTGTT, cần bổ sung quy định về người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bằng điều luật riêng quy định về họ; đồng thời xác định đại diện hợp pháp của bị can, bị cáo, người bị hại phải là đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp bị can, bị cáo ủy quyền cho người khác thuê người bào chữa; người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là đại diện theo ủy quyền.

Riêng đối với NTGTT là người làm chứng, việc ban hành các quy định nhằm thực thi có hiệu quả việc bảo vệ người làm chứng là vấn đề hết sức cần thiết trong tiến trình cải cách tư pháp, vì đó là điều kiện để người làm chứng tích cực hợp tác với cơ quan tố tụng. Do vậy, cùng với việc hoàn thiện quyền của người làm chứng cho tương xứng với nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng hình sự, pháp luật tố tụng hình sự cần có quy định cụ thể về những biện pháp bảo đảm an toàn về tính mạng, sứ khỏe và tài sản của người làm chứng, kể cả những người thân thích của họ, nếu như thật sự bị đe dọa khi họ được cơ quan tiến hành tố tụng hình sự xác định là người làm chứng.

Th.S Lê Văn Sua

[1] Nguyễn Thành Minh (chủ biên), Từ điển pháp luật (Anh – Việt), Nxb Thế giới, Hà Nội, 1998, tr. 750.

[2] Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiến Việt, Nxb Đà Nẵng, 2001, tr. 1008.

[3] Bộ Tư pháp, Viện Khoa học pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr. 786.

[4] Đỗ Ngọc Quang, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam (dành cho hệ đào tạo sau đại học), Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội, 2003, tr. 8.

([5] ). Viện Ngôn ngữ học, (2005), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển học, tr.680, tr.1144.

([6]). Trường Đại học Luật Hà Nội, (2005), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (tập II), Nxb. CAND, Hà Nội, tr. 158.

([7]).http://luathinhsu.wordpress.com/2009/09/05/xac-dinh-trach-nhiem-boi-thuong-cua-cha-me-bi-cao/

([8]): Đinh Văn Quế - Chánh Tòa hình sự - TANDTC; Trình tự thủ tục giải quyết các vụ án hình sự; Nxb Hải Phòng; tr 87.

([9]).Xem: Đinh Văn Quế, Thủ tục xét xử các vụ án hình sự, Nxb TP. Hồ Chí Minh, 2003, tr. 94.

(f).Viện Nhà nước và Pháp luật, Tội phạm học, Luật hình sự và Luật TTHS Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 383.

([11]).Xem: R.Đ Rakhunốp, Những người tham gia hoạt động tố tụng hình sự, Matxcơva, 1961, tr. 224 và Viện Nhà nước và Pháp luật, sđd, tr. 383.

([12]).M.X Xtrôgôvich, Giáo trình tố tụng hình sự, tập 1, Nxb Văn học pháp lý, Matxcơva, 1980, tr. 258.