Một số vấn đề chung về tổng hợp hình phạt theo quy định của Bộ luật hình sự

02/06/2015
 

Theo nguyên tắc của Luật hình sự thì một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội và được BLHS quy định là tội phạm thì phải chịu hình phạt. Người bị nhiều tội sẽ bị tuyên nhiều hình phạt. Về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho thấy, không phải người phạm nhiều tội nào cũng bị phát hiện và đem đưa ra xét xử cùng một lúc. Có trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội bị phát hiện và đưa ra xét xử cùng một lần và bị Tòa án tuyên nhiều hình phạt (trường hợp phạm nhiều tội). Tuy nhiên, cũng có trường hợp bị cáo đang chấp hành một bản án lại bị đem ra xét xử về một tội mà người đó đã phạm trước hoặc sau khi có bản án đang chấp hành (trường hợp có nhiều bản án). Trong trường hợp trên, người bị kết án sẽ chịu nhiều hình phạt tương xứng với các hành vi phạm tội của họ. Hình phạt người bị kết án phải chấp hành có thể cùng loại nhưng có trường hợp bị cáo phải chấp hành đồng thời các hình phạt. Để đánh giá toàn diện nhân thân người phạm tội cũng như thể hiện đầy đủ nhất thái độ của Nhà nước đối với họ, khi xét xử Tòa án phải tổng hợp tất cả các hình phạt đã tuyên thành hình phạt chung. Mặc khác, việc tổng hợp hình phạt sẽ tạp điều kiện thuận lợi cho cơ quan thi hành án khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình.

Tóm lại, tổng hợp hình phạt là việc Tòa án xác định hình phạt chung cho người phạm tội bị kết án.

Trong BLHS, có bốn trường hợp khi xét xử Tòa án phải tổng hợp hình phạt đó là: Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 50);  Tổng hợp hình phạt trong trường hợp có nhiều bản án (Điều 51); Tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội (Điều 75) và tổng hợp hình phạt trong các trường hợp liên quan đến án treo (Khoản 5 Điều 60).

1. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội

a/ Khái niệm

Tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là trường hợp khi xét xử, Tòa án kết án bị cáo phạm từ hai tội trở lên và khi quyết định hình phạt Tòa án phải quyết định hình phạt đối với từng tội, sau đó mới quyết định hình phạt chung đối với các tội đó và buộc bị cáo phải chấp hành.

Việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội chỉ được thực hiện khi đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, bị cáo bị xét xử một lần về hai tội phạm trở lên. Các tội này có thể được thực hiện cùng một lúc nhưng cũng có thể thực hiện ở những thời điểm khác nhau.

Thứ hai, các tội phạm đó và hình phạt được quy định ở các điều luật khác nhau của phần các tội phạm; nhưng cũng có thể có trường hợp các tội phạm này được quy định ở các khung hình phạt khác nhau của cùng một điều luật.

Thứ ba, trong một số tội phạm được đưa ra xét xử không có tội phạm nào được xét xử trước (nếu có tội đưa ra xét xử trước đó thì phải áp dụng Điều 51 BLHS để tổng hợp).

Thứ tư, các tội phạm đang còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa được đại xá.

Trong trường hợp này Tòa án không chỉ áp dụng hình phạt đối với một tội mà phải quyết định hình phạt đối với nhiều tội mà bị cáo đã phạm. Trước khi quyết định hình phạt chung cho bị cáo, Tòa án phải tuyên hình phạt riêng cho từng tội. Như vậy, khi quyết định hình phạt đối với từng tội, Tòa án vẫn phải tuân thủ các quy định về quyết định hình phạt, đồng thời, khi tổng hợp thành hình phạt chung thì phải áp dụng các quy định riêng đối với trường hợp phạm nhiều tội.

Để tổng hợp hình phạt đúng trong trường hợp phạm nhiều tội thì việc hiểu rõ khái niệm “phạm nhiều tội” là một điều không thể bỏ qua. Trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam, khái niệm này chưa từng được quy định trực tiếp trong một BLHS.

Tuy chưa được quy định trong BLHS nước ta nhưng khái niệm “phạm nhiều tội” đã được đề cập đến khá nhiều trong khoa học luật hình sự. Khoa học luật hình sự từ trước tới nay đều thừa nhận có hai trường hợp phạm nhiều tội.

Trường hợp thứ nhất, trường hợp người phạm tội có nhiều hành vi khác nhau, mỗi hành vi cấu thành một tội. Ví dụ: bị cáo phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác, sau đó lại phạm tội hiếp dâm.

Trường hợp thứ hai, trường hợp một hành vi phạm tội thoả mãn đồng thời nhiều cấu thành tội phạm cụ thể khác nhau. Ví dụ: một người dùng súng bắn chết người khác là phạm hai tội: tội giết người và tội sử dụng trái phép vũ khí quân dụng. Một hành vi phạm tội thoả mãn đồng thời nhiều cấu thành tội phạm gồm có các trường hợp sau:

Một hành vi phạm tội đồng thời thoả mãn dấu hiệu của hai cấu thành tội phạm cụ thể khác nhau

Một hành vi phạm tội vừa thoả mãn một cấu thành tội phạm cụ thể vừa thoả mãn cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm của một tội cụ thể khác.

Một hành vi phạm tội đồng thời thoả mãn hai cấu thành tội phạm của hành vi đồng phạm của hai tội khác nhau.

Cần phân biệt trường hợp phạm nhiều tội với tội kéo dài, tội liên tục và phạm tội nhiều lần. Tội kéo dài là trường hợp về bản chất hành vi phạm tội kéo dài từ lúc bắt đầu được thực hiện và chỉ kết thúc khi tội phạm bị phát hiện bắt giữ hoặc người phạm tội chủ động kết thúc việc phạm tội đó. Tội liên tục là trường hợp người phạm tội thực hiện liên tục nhiều hành động phạm tội cùng tính chất đối với cùng một đối tượng và vì vậy, chỉ cấu thành một tội phạm. Phạm tội nhiều lần là trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội cùng tính chất và cùng xâm phạm một khách thể và các hành vi có sự cách nhau một khoảng thời gian nhất định. Việc phân biệt trường hợp phạm nhiều tội với các trường hợp trên có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội danh, quyết định hình phạt và tổng hợp hình phạt. Vì nếu đó không phải là trường hợp phạm nhiều tội thì sẽ dẫn đến định tội danh sai, định tội danh sai dẫn đến quyết định hình phạt sai, quyết định hình phạt sai dẫn đến tổng hợp hình phạt sai. Do vậy, khi xét xử, Toà án cần hết sức chú ý vấn đề này.

b/ Nguyên tắc và cách thức tổng hợp hình phạt

Nguyên tắc và cách thức tổng hợp hình phạt là một vấn đề hết sức quan trọng và không thể bỏ qua khi bàn về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội.

Về cách thức tổng hợp, trong trường hợp phạm nhiều tội, trước khi tổng hợp và quyết định hình phạt chung cho các tội thì Tòa án phải quyết định hình phạt cho từng tội. Việc tuyên hình phạt cho từng tội sau đó mới tổng hợp thành hình phạt chung có các ý nghĩa sau:

Thứ nhất, chính việc tuyên hình phạt cho từng tội đảm bảo cho hình phạt được tuyên tương xứng với từng tội bị cáo đã thực hiện như vậy hình phạt chung sau khi được tổng hợp từ các tội sẽ là hình phạt xứng đáng mà bị cáo phải chấp hành. Khi đó bị cáo sẽ “tâm phục”, “khẩu phục’’ để chấp hành hình phạt và như vậy mục đích của hình phạt mới có thể đạt đựơc.

Thứ hai, chỉ khi quyết định hình phạt cho từng tội đúng thì Toà án mới có thể tổng hợp đúng. Như vậy, việc quyết định hình phạt cho từng tội là bước tạo tiền đề cho Toà án trước khi tiến hành tổng hợp hình phạt cho các tội.

Thứ ba, việc quyết định hình phạt cho từng tội tạo cơ sở pháp lý cho Toà án cấp trên phát hiện những sai sót trong quá trình xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án của Toà án cấp dưới đồng thời nó cũng là cơ sở để xem xét việc áp dụng các chế định khác như chế định tái phạm, tái phạm nguy hiểm...

Sau khi tuyên hình phạt riêng cho từng tội, Toà án sẽ quyết định và tuyên hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá giới hạn luật quy định đối với từng loại hình phạt. Hình phạt chung là sự đánh giá toàn diện và đầy đủ nhất đối với tất cả các hành vi nguy hiểm cho xã hội mà bị cáo đã thực hiện do đó mức phạt phải tương xứng với toàn bộ các tội mà bị cáo đã phạm. Nếu hình phạt chung được tổng hợp không đúng sẽ làm mất ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với từng tội và do vậy sẽ không đạt được mục đích của hình phạt. Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ theo những nguyên tắc nhất định. Đó là nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cộng hình phạt và nguyên tắc cùng tồn tại.

Về nguyên tắc cộng hình phạt, nguyên tắc cộng hình phạt có hai trường hợp: nguyên tắc cộng toàn bộ và nguyên tắc cộng một phần. Nguyên tắc cộng toàn bộ là nguyên tắc cho phép cộng toàn bộ các hình phạt thành hình phạt chung. Nguyên tắc này được áp dụng khi có thể và cần thiết phải cộng toàn bộ các hình phạt với nhau (hình phạt chung sau khi đã cộng không vượt giới hạn mà luật cho phép đối với loại hình phạt đó). Nguyên tắc cộng một phần là nguyên tắc cho phép cộng hình phạt cao nhất với một phần hình phạt còn lại thành hình phạt chung. Nguyên tắc này được áp dụng khi, không thể cộng toàn bộ được vì mới cộng một phần với hình phạt nặng nhất đã đạt mức tối đa cho phép của loại hình phạt này. Ví dụ: A bị Toà án tuyên phạt 20 năm tù về tội cướp tài sản theo khoản 3 Điều 133 BLHS, 15 năm tù về tội cướp giật tài sản theo khoản 4 Điều 136. Trong trường hợp này, hình phạt chung mà bị cáo A phải chấp hành là 30 năm tù. Tổng cộng hình phạt đúng ra A phải chịu mức tù là 35 năm nhưng vì hình phạt chung không được quá 30 năm nên Toà án chỉ có thể cộng 20 năm tù của tội cướp tài sản với 10 năm tù của tội cướp giật tài sản thì đã đạt mức tối đa cho phép là 30 năm.

Về nguyên tắc thu hút, theo nguyên tắc thu hút, hình phạt chung là hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên. Nguyên tắc này được áp dụng trong trường hợp không thể cộng hết các hình phạt lại với nhau do có một trong các hình phạt đã tuyên là hình phạt nặng nhất trong hệ thống hình phạt hay do các hình phạt không thể cùng chấp hành. Ví dụ: Bị cáo B phạm tội hiếp dâm và tội giết người. Toà án tuyên tử hình đối với tội giết người và 10 năm tù với tội hiếp dâm. Hình phạt chung trong trường hợp này là tử hình. Ví dụ khác: Bị cáo C phạm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác và tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Toà án tuyên hình phạt tù chung thân đối với tội “cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ của người khác “và 5 năm tù với tội “huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”. Trong trường hợp này, hình phạt chung là tù chung thân.

Về nguyên tắc cùng tồn tại, nguyên tắc cùng tồn tại được áp dụng khi không áp dụng được hai nguyên tắc trên. Tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc này sẽ không có hình phạt chung cho tất cả các tội mà chỉ có việc phải chấp hành đồng thời các hình phạt. Ví dụ: Bị cáo D phạm tội buôn lậu và tội chống người thi hành công vụ. Toà án tuyên phạt 50 triệu đồng về tội “buôn lậu” và phạt 3 năm tù về “tội chống người thi hành công vụ”. Trường hợp này bị cáo phải chấp hành đồng thời cả hai hình phạt trên.

Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định cụ thể các trường hợp áp dụng áp dụng các nguyên tắc tổng hợp hình phạt trên. Cụ thể:

Nguyên tắc thu hút hình phạt được áp dụng khi hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình hoặc tù chung thân. Như vậy, nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tử hình thì hình phạt chung là tử hình. Nếu hình phạt nặng nhất trong các hình phạt đã tuyên là chung thân thì hình phạt chung là chung thân.

Nguyên tắc cộng hình phạt được áp dụng khi có thể cộng được các hình phạt của các tội miễn là hình phạt chung nằm trong giới hạn luật cho phép. Mặt khác, nguyên tắc này chỉ được áp dụng khi các hình phạt đó cùng loại hoặc có thể quy về cùng loại.

Nguyên tắc cùng tồn tại chỉ được áp dụng khi không áp dụng được hai nguyên tắc trên. Cụ thể là nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại và không thể áp dụng được nguyên tắc thu hút hình phạt thì bị cáo phải chấp hành tất cả các hình phạt này.

Luật hình sự Việt Nam coi nguyên tắc cộng toàn bộ là nguyên tắc ưu tiên bắt buộc. Chỉ khi không áp dụng được nguyên tắc này mới áp dụng các nguyên tắc còn lại. Điều này thể hiện rõ trong các quy định cụ thể của BLHS năm 1999.

Trên cơ sở các nguyên tắc trên, Điều 50 BLHS năm 1999 quy định cách tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội như sau:

Đối với hình phạt chính, nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ thì Toà án sẽ cộng các hình phạt đó thành hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt qua 3 năm cải tạo không giam giữ. Nếu các hình phạt đã tuyên là tù có thời hạn thì Toà án sẽ cộng các hình phạt đó thành hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá 30 năm tù.

Nếu các hình phạt đã tuyên gồm cả hình phạt cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn thì Toà án phải quy đổi cải tạo không giam giữ thành hình phạt tù có thời hạn theo tỷ lệ cứ ba ngày cải tạo không giam giữ bằng một ngày tù. Sau đó, Toà án sẽ tổng hợp thành hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá 30 năm tù.

Nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là chung thân hoặc tử hình thì hình phạt chung là chung thân hoặc tử hình.

Phạt tiền không tổng hợp với các loại hình phạt khác; các khoản tiền phạt được cộng thành hình phạt chung. Trục xuất không tổng hợp cùng các hình phạt khác. Đối với hình phạt bổ sung, nếu các hình phạt đã tuyên là cùng loại thì toà án quyết định một hình phạt chung trong giới hạn do BLHS quy định đối với loại hình phạt đó (trừ phạt tiền vì luật không khống chế mức tối đa đối với loại hình phạt này).

Nếu các hình phạt đã tuyên là khác loại thì Toà án không thực hiện việc quyết định hình phạt chung mà buộc bị cáo phải chấp hành tất cả các hình phạt đã tuyên. Một vấn đề nữa cần xem xét khi nghiên cứu về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là về mức hình phạt tổng hợp của loại hình phạt tù có thời hạn. Theo quy định tại Điều 50 BLHS thì hình phạt chung đối với loại hình phạt tù có mức tối đa là 30 năm. Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề này. Có ý kiến cho rằng, Điều 50 quy định mức hình phạt tổng hợp trong trường hợp phạm nhiều tội đối với hình phạt tù là 30 năm là mâu thuẫn với Điều 33.

Điều 33 quy định 20 năm là mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn trong khi đó mục a khoản 1 Điều 50 lại quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội thì Toà án có thể áp dụng hình phạt tù với thời hạn tối đa là 30 năm đối với người phạm tội. Cần thấy rằng 20 năm một ngày tới 30 năm tù không phải là một loại hình phạt độc lập và càng không phải là một khung hình phạt của một loại hình phạt độc lập và vì vậy khi áp dụng hình phạt tù với khoảng thời gian nói trên là vi phạm nguyên tắc pháp chế trong luật hình sự”.

Ý kiến khác lại cho rằng, quy định tại Điều 50 không mâu thuẫn với Điều 33. Đồng quan điểm với ý kiến này, Điều 33 quy định như sau: “Tù có thời hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 3 tháng, mức tối đa là 20 năm…”.

Điều 33 chỉ khống chế mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn là 20 năm trong trường hợp người phạm một tội chứ không bao gồm cả trường hợp phạm nhiều tội. Do vậy, quy định tại Điều 50 về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội không chịu sự ràng buộc của quy định tại Điều 33 về mức hình phạt tối đa của tù có thời hạn. Hay nói cách khác, quy định tại Điều 50 không phủ định quy định Điều 33 do vậy không có sự vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN trong luật hình sự đối với trường hợp này. Trái lại nếu xét trong mối liên hệ phổ biến về tính nguy hiểm cho xã hội của trường hợp người phạm một tội với trường hợp người phạm nhiều tội thì quy định trên còn là sự thể hiện nguyên tắc công bằng trong luật hình sự. Để thấy rõ hơn chúng ta có thể thử bổ sung thêm vào Điều 33 như sau: “Tù có thơì hạn là việc buộc người bị kết án phải chấp hành hình phạt tại trại giam trong một thời hạn nhất định. Tù có thời hạn đối với người phạm một tội có mức tối thiểu là 3 tháng, mức tối đa là 20 năm; trong trường hợp phạm nhiều tội mức tối đa là 30 năm…”. Các nhà làm luật hoàn toàn có thể quy định như vậy mà không hề thấy có sự vi phạm nguyên tắc pháp chế XHCN ở đây. Tuy nhiên, quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là một trường hợp đặc biệt và về kỹ thuật lập pháp việc quy định riêng mức tối đa của hình phạt tù có thời hạn trong trường hợp phạm nhiều tội tại Điều 50 mà không quy định luôn tại Điều 33 là phù hợp.

Tóm lại, tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là một trường hợp đặc biệt của hoạt động quyết định hình phạt. Khi tổng hợp hình phạt, Toà án trước hết phải áp dụng các quy định chung đối với quyết định hình phạt sau đó còn phải áp dụng quy định riêng đối với trường hợp này theo quy định của pháp luật. Việc tổng hợp hình phạt phải tuân thủ những nguyên tắc và cách thức nhất định. Theo pháp luật hiện hành có ba nguyên tắc tổng hợp hình phạt đối với trường hợp phạm nhiều tội. Đó là các nguyên tắc: nguyên tắc thu hút, nguyên tắc cộng hình phạt, nguyên tắc cùng tồn tại. Mỗi nguyên tắc đều có cách thức tổng hợp riêng. Vì vậy, để tổng hợp hình phạt đúng đòi hỏi cán bộ xét xử phải hiểu đúng và áp dụng thống nhất các nguyên tắc này theo quy định tại Điều 50 BLHS năm 1999. Xét về mặt kỹ thuật lập pháp, quy định về tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội tại Điều 50 BLHS 1999 so với các quy định trước đó là một tiến bộ vượt bậc. Tuy nhiên, để các quy phạm pháp luật hình sự ngày càng hoàn thiện và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đấu tranh, phòng chống tội phạm, tác giả cho rằng cần phải bổ sung một điều luật riêng biệt quy định về khái niệm trường hợp “phạm nhiều tội” tại phần chung BLHS.

2. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án

a/ Khái niệm

Trong trường hợp một người phạm nhiều tội, về nguyên tắc tất cả các tội phạm đều phải bị đem ra xét xử. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử cho thấy rằng, không phải trong tất cả các trường hợp phạm nhiều tội đều được phát hiện và đưa ra xét xử cùng một lần. Có trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án có hiệu lực pháp luật thì họ lại bị đưa ra xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án này. Trường hợp khác, bị cáo đang chấp hành một bản án có hiệu lực pháp luật lại phạm tội mới và bị đem ra xét xử hoặc trường hợp có nhiều bản án có hiệu lực pháp luật nhưng các bản án này chưa được tổng hợp. Các trường hợp nói trên là nội dung của vấn đề tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được quy định trong luật hình sự Việt Nam.

Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án là việc Toà án quyết định cho người phạm tội một hình phạt chung trong trường hợp người đó bị tuyên nhiều hình phạt trong nhiều bản án khác nhau.

Khi tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, Toà án phải quyết định hình phạt chung cho bị cáo dựa trên cơ sở các bản án khác nhau. Vì vậy, trong trường hợp này, Toà án vẫn phải tuân thủ các quy định chung về quyết định hình phạt và đến khi tổng hợp hình phạt, Toà án còn phải áp dụng các quy định riêng cho trường hợp này.

b/ Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo BLHS

Theo quy định tại Điều 51 BLHS năm 1999, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có ba trường hợp sau:

Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án có hiệu lực pháp luật lại bị đưa ra xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án đó. Trường hợp này được quy định tại khoản 1, Điều 51. Cụ thể:

Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về một tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Toà án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 của bộ luật này.

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.”

Như vậy, để tổng hợp hình phạt trong trường hợp này, Hội đồng xét xử phải quyết định hình phạt cho tội đang bị xét xử, sau đó tổng hợp với bản án trước theo quy định của Điều 50 BLHS. Tiếp đó, Hội đồng xét xử lấy hình phạt chung trừ đi thời gian mà người bị kết án đã chấp hành, phần còn lại của hình phạt tuyên buộc người bị kết án phải chấp hành.

Ví dụ: Tháng 3 năm 2012 A phạm tội bức tử và bị Toà án tỉnh B áp dụng khoản 2 Điều 100 tuyên phạt 5 năm tù giam. A đang chấp hành hình phạt được một năm thì lại bị phát hiện trước đó vào tháng 4 năm 2011 A còn phạm tội trộm cắp và lại bị Toà án tỉnh B đem ra xét xử. A bị tuyên 5 năm tù giam về tội trộm cắp tài sản theo khoản 2 Điều 138. Tổng hợp hình phạt của hai bản án trên A phải chịu hình phạt chung là 9 năm tù

Trong quy định tại khoản 1 Điều 51 trên cần làm rõ khái niệm “một người đang phải chấp hành một bản án”. Có ý kiến cho rằng, một người đang chấp hành một bản án tức là người đó phải đang thực tế chấp hành bản án đó. Do vậy, một người mặc dù phải chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng thực tế chưa chấp hành, mà bị đưa ra xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì không tổng hợp hình phạt theo quy định tại khoản 1, Điều 51 BLHS. Đây là cách hiểu chưa chính xác. Theo đó, một người đang phải chấp hành hình phạt được hiểu là người đó đang có nghĩa vụ phải chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật nghĩa là cả trường hợp người đó đã bắt đầu việc chấp hành hình phạt của bản án đó nhưng chưa chấp hành xong và cả trường hợp người đó chưa bắt đầu chấp hành hình phạt của bản án đã có hiệu lực pháp luật đó. Bởi lẽ, một người đang chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật tức là người đó đã có hành vi phạm tội, đã bị Nhà nước tỏ thái độ lên án, giáo dục và họ đang phải chịu những nghĩa vụ pháp lý nhất định. Việc họ đang “có án” thể hiện rõ thái độ của Nhà nước đã đánh giá họ là người có nhân thân không tốt. Sự đánh giá này là khách quan. Việc người bị kết án chưa thực tế chấp hành hình phạt không làm tốt đẹp hơn tình trạng nhân thân của họ. Do đó, việc Toà án áp dụng khoản 1, Điều 51 để tổng hợp hình phạt sẽ là sự đánh giá toàn diện nhất thái độ của Nhà nước đối với nhân thân người bị kết án.

Cũng tại khoản 1 Điều 51 còn quy định “thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung”. Vấn đề đặt ra là thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước gồm những thời gian nào? Thời gian bị cáo bị tạm giữ, tạm giam có được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung không?

Có ý kiến cho rằng, đoạn 2, khoản 1 Điều 51 chỉ quy định là: “Thời gian đã chấp hành hình phạt” của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung mà không quy định thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung (trong trường hợp hình phạt chung là tù có thời hạn hoặc cải tạo không giam giữ) và tác giả ý kiến trên cho rằng thời hạn tạm giữ, tạm giam cũng phải được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.  

Về vấn đề này, thì : Tại khoản 1 Điều 31 BLHS quy định “Nếu người bị kết án đã bị tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba ngày cải tạo không giam giữ”.

Tại đoạn 2 Điều 33 BLHS cũng quy định “Thời gian tạm giữ, tạm giạm được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng một ngày tù.

Từ hai quy định trên, đối chiếu với quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS có thể thấy luật đã gián tiếp quy định thời gian người bị kết án bị tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung. Và thực tiễn áp dụng, trong trường hợp bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam, các Toà án đều trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt chung của người bị kết án bằng cách tính thời hạn chấp hành hình phạt chung từ ngày bị tạm giữ, tạm giam. Nếu thời gian tạm giữ, tạm giam và chấp hành hình phạt tù không liền nhau, thì tính thời hạn chấp hành hình phạt tù chung từ thời điểm bắt giam sau cùng, thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam trước đó được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

Như vậy, để đảm bảo tính gọn nhẹ, khoa học trong BLHS thì không cần thiết phải quy định thêm việc phải trừ thời gian tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt chung vào trong BLHS vì thực chất luật đã có quy định về vấn đề này. Một vấn đề khác nữa cần xem xét khi áp dụng khoản 1 Điều 51 là vấn đề tổng hợp hình phạt trong trường hợp, hình phạt của bản án trước là cải tạo không giam giữ, của bản án sau là tù có thời hạn. Trường hợp này, Toà án sẽ quy đổi toàn bộ hình phạt cải tạo không giam giữ của bản án trước thành hình phạt tù theo tỉ lệ 3:1, sau đó trừ đi hình phạt tù đã được đổi từ cải tạo không giam giữ vào hình phạt tù chung. Ví dụ: ngày 11/11/2011, A bị Toà án xử phạt 24 tháng cải tạo không giam giữ về tội cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 104 BLHS. Sau đó, ngày 11/11/2012 A lại bị đem ra xét xử về tội hiếp dâm đã thực hiện tháng 11 năm 2010 và bị tuyên phạt 5 năm tù theo khoản 1 Điều 113 BLHS (tính đến thời điểm này A đã chấp hành được 12 tháng cải tạo không giam giữ). Tổng hợp hình phạt Toà án buộc A phải chấp hành 5 năm tù của bản án đang xét xử cộng với 8 tháng tù của bản án trước được đổi từ 24 tháng cải tạo không giam giữ thành hình phạt chung là 5 năm 8 tháng tù. Vì A đã chấp hành được 12 tháng cải tạo không giam giữ bằng 4 tháng tù nên được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung. Do đó, hình phạt chung mà A phải chấp hành là 5 năm 4 tháng tù.

Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử các Toà án thường trừ thời gian đã chấp hành trước rồi mới tổng hợp sau (nếu tổng hợp như vậy, trong trường hợp hình phạt của các bản án tổng hợp lại là trên 30 năm tù thì sẽ gây thiệt hại cho người phạm tội)

Trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án có hiệu lực pháp luật lại phạm tội mới và bị đem ra xét xử. Trường hợp này được quy định tại khoản 2, Điều 51 BLHS. Cụ thể:

“Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới, Toà án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 50 Bộ luật này.”

Trường hợp này, người phạm tội thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp trước. Bởi vì, một người đang phải chấp hành một bản án, tức là đã được Nhà nước tỏ thái độ đối với hành vi phạm tội của họ nhưng họ đã không chịu cải tạo, giáo dục mà lại đi vào con đường phạm tội mới. Vì vậy, việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp này phải thể hiện tính nghiêm khắc hơn đối với các trường hợp khác. Việc tổng hợp sẽ được thực hiện như sau: Toà án quyết định hình phạt cho một hay các tội đang xét xử (trường hợp phạm nhiều tội mới), sau đó cộng hình phạt hay các hình phạt đã tuyên với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước. Hình phạt chung không được vượt quá giới hạn được quy định tại Điều 50 BLHS. Trong trường hợp này, nếu tính cả thời hạn hình phạt mà bị cáo đã chấp hành của bản án trước với hình phạt của bản án mới thì thời hạn hình phạt chung mà bị cáo thực tế phải chấp hành có thể trên 30 năm tù.

Ví dụ: A phạm tội giết người và đã bị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 93 tuyên phạt 20 năm tù. Chấp hành hình phạt được 6 năm A lại phạm tội cố ý gây thương tích và bị Tòa án áp dụng khoản 4 Điều 104 BLHS tuyên phạt 15 năm tù. Trong trường hợp này, hình phạt chung mà bị cáo A phải chấp hành là 30 năm nhưng thực tế A phải chấp hành 34 năm.

Trong trường hợp người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của bản án chưa được tổng hợp. Trường hợp này điợc quy định tại khoản 3 Điều 51, cụ thể:

“Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì chánh án tòa án ra quyết định tổng hợp các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.

Quy định trên của BLHS có nghĩa các tội phạm được thực hiện khi chưa có bản án nào thì áp dụng khoản 1 Điều 51 BLHS; nếu có tội phạm thực hiện sau khi đã có hiệu lực pháp luật thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

Qua quy định tại Điều 51 BLHS về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, nhận thấy, về thực chất trường hợp này có nhiều điểm với trường hợp phạm nhiều tội. Trong cả hai trường hợp bị cáo đều phạm tội từ hai tội trở lên. Điểm khác biệt giữa hai trường hợp này ở chỗ: Trong trường hợp tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 50, tất cả các tội đều bị đem ra xét xử một lần, Tòa án tuyên hình phạt đối với từng tội sau đó tổng hợp thành hình phạt chung; còn trong trường hợp tổng hợp của nhiều bản án quy định tại Điều 51, các tội đó được đưa ra xét xử ở các lần khác nhau, Tòa án sẽ phải tổng hợp hình phạt của các tội này dựa trên cơ sở các bản án khác nhau.

3. Tổng hợp hình phạt trong trường họp liên quan đến án treo

Án treo là một chế định đặc biệt trong luật hình sự. Về bản chất pháp lý thì “án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”. Án treo là một chế định thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo XHCN trong luật hình sự, qua chế định án treo nhà nước thể hiện rõ thái độ khoan hồng đối với người phạm tội lần đầu, tội phạm đã thực hiện là ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt, có nói làm việc, cư trú rõ ràng. Những người này chưa tới mức phải cách lý ra khỏi xã hội và xét thấy họ có khả năng tự cải tạo tại cộng đồng. Do vậy, Tòa án cho họ miễn chấp hành hình phạt tù trong trại giam mà buộc họ phải trải qua một thời gian thử thách với những điều kiện nhất định. Tuy nhiên, để thể hiện rõ tính nghiêm túc của pháp luật, tại khoản Điều 60 quy định: “Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy đinh tại Điều 51 của Bộ luật này”. Quy định này vừa thể hiện nguyên tắc pháp chế XHCN vừa thể hiện nguyên tắc công bằng trong tổng hợp hình phạt cũng như trong luật hình sự.

Quy định này của BLHS 1999 nghiêm khắc hơn BLHS 1985, theo quy định tại khoản 5 Điều 44 BLHS 1985 thì người phạm tội phạm tội mới do lỗi vô ý nhưng bị phạt tù hoặc phạm tội mới do lỗi cố ý trong thời gian thử thách thì Tòa án mới buộc họ chấp hành hình phạt trong bản án cho hưởng án treo trước đó và tổng hợp hình phạt với bản án mới. Còn trong quy định tại khoản 5 Điều 60 BLHS 1999, người được hưởng án treo chỉ cần phạm tội mới bất kể tội mới là loại tội nào, bị tuyên hình phạt loại gì thì người phạm tội cũng buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước (bản án được hưởng án treo) và tổng hợp hình phạt của bản án mới thành hình phạt chung.

- Nếu tội mới phạm bị Tòa án tuyên phạt cải tạo không giam giữ thì phải tiến hành đổi từ cải tạo không giam giữ sang tù có thời hạn để tổng hợp với hình phạt của bản án trước thành hình chung theo tỉ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ bằng 01 ngày tù.

- Nếu tội mới bị Tòa án tuyên phạt tù có thời hạn thì bị cáo buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới thành hình phạt chung.

- Nếu tội mới phạm bị Tòa án tuyên phạt là phạt tiền thì người bị kết án phải chấp hành đồng thời hai hình phạt của hai bản án.

Tóm lại, án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện – Một chế định thể hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN trong luật hình sự. Tuy nhiên, nếu người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách thì Tòa án buộc họ phải chấp hành hình phạt của bản án đã cho hưởng án treo và tổng hợp với hình phạt của bản án mới thành hình phạt chung. Trường hợp người được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách mà bị xét xử về một tội đã thực hiện trước khi có bản án cho hưởng án treo thì tùy tửng trường hợp Tòa án sẽ cho tiếp tục hưởng án treo một lần nữa hoặc không cho hưởng. Nếu cho người bị phạt tù hưởng án treo một lần nữa thì Tòa án phải tổng hợp hình phạt của cả hai bản án và ấn định thời gian thử thách. Nếu không cho hưởng án treo, Tòa án buộc người bị kết án phải chấp hành đồng thời hai bản án. Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính vào thời gian thử thách của án treo.

4. Tổng hợp hình phạt trong trường hợp người chưa thành niên phạm tội

Người chưa thành niên phạm tội là người chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà BLHS quy định đó là tội phạm. Theo quy định tại Điều 12 BLHS 1999 về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì chỉ những người chưa thành niên đủ 14 tuổi trở lên mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Người chưa thành niên là một chủ thể đặc biệt, vì vậy việc quyết định hình phạt nói chung và tổng hợp hình phạt nói riêng đối với người chưa thành niên cũng là một trường hợp đặc biệt. Tính chất đặc biệt ở chỗ ngoài việc phải tuân thủ các quy định chung khi quyết định hình phạt hay tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội Tòa án còn phải căn cứ vào các quy định trong Chương X BLHS.

Khi quyết định hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, Tòa án phải tuân thủ nguyên tắc được quy định tại Điều 69 BLHS. Cụ thể: “Việc xử lý hành vi phạm tội của người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội”

Đối với trường hợp người chưa thành niên phạm tội, việc tổng hợp hình phạt được quy định tại Điều 75 BLHS, cụ thể:

Đối với người phạm nhiều tội, có tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì việc tổng hợp hình phạt áp dụng như sau:

1. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;

2. Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội.”

Theo quy định trên của Điều 75, để tổng hợp hình phạt được trong trường hợp này thì Tòa án phải xác định được hai vấn đề hết sức quan trọng đó là: Xác định tội nặng nhất và thời điểm thực hiện tội nặng nhất đó khi người chưa thành niên đã đủ 18 tuổi hay chưa. Việc áp dụng khoản 1 và khoản 2 để tổng hợp hình phạt trong trường hợp này hoàn toàn phụ thuộc vào hai vấn đề đó.

Khoản 1 Điều 75 quy định . “Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 của Bộ luật này;”. Tuy nhiên, việc hiểu “mức hình phạt cao nhất” tại Điều 74 trong thực tiễn còn gặp phải nhiều vấn đề do sự hạn chế về mặt kỹ thuật lập pháp của quy phạm này. Cụ thể Điều 74 quy định:

“Người chưa thành niên phạm tội chỉ bị phạt tù có thời hạn theo quy định sau đây:

1. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười tám năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định;

2. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá mười hai năm tù; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá một phần hai mức phạt tù mà điều luật quy định”.

Với quy định trên, cần hiểu rằng việc áo dụng giảm nhẹ hình phạt cho người chưa thành niên phạm tội so với người đã thành niên là so sánh với trong cùng một khung hình phạt. Nhưng tại Điều 74 lại sử dụng từ chung chung là “điều luật” mà không chỉ rõ khung hình phạt bị áp dụng. Quy định trên sẽ dẫn đến việc vận dụng không thống nhất và là kẽ hở để phát sinh tiêu cực. Do vậy, để tổng hợp hình phạt trong trường hợp này được chính xác thì cũng cần có sự sửa đổi Điều 74 cho phù hợp hơn.

Nghiên cứu vấn đề tổng hợp hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, trong vấn đề này cần lưu ý các điểm:

Thứ nhất, Điều 75 BLHS mới chỉ quy định về việc tổng hợp hình phạt đối với người phạm tội, có tội thực hiện trước có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi mà chưa quy định việc tổng hợp hình phạt đối với một người phạm tất cả các tội khi chưa đủ 18 tuổi. Vậy trường hợp đó Tòa án sẽ tổng hợp như thế nào? Hình phạt chung đối với hình phạt tù, trong trường hợp này sẽ không được vượt quá mức hình phạt được quy định tại điều luật nào? Có phải mức 30 năm ở Điều 50 hay không? Và trong trường hợp có tội thực hiện khi từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, có tội thực hiện khi từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt chung không được vượt quá ¾ hay ½ ?. Như vậy để tổng hợp hình phạt trong trường hợp này, Tòa án phải thực hiện rất nhiều bước mới có thể quyết định hình phạt chung cho bị cáo. Việc này rất dễ dẫn đến nhầm lẫn, sai sót trong quá trình áp dụng. Vì vậy, cần có quy định cụ thể đối với trường hợp này.

Thứ hai, BLHS cũng chưa có quy định cụ thể việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án , trong trường hợp các bản án đều được áp dụng đối với người chưa thành niên cũng như trường họp có bản án được áp dụng khi đó là người chưa thành niên, có bản áp dụng khi người đó đã thành niên.

Theo khoản 1 Điều 75 nếu một người phạm nhiều tội, có tội thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đã đủ 18 tuổi thì hình phạt chung được áp dụng trên nguyên tắc không được cáo quá mức cho phép của Điều 74 BLHS. Có ý kiến cho rằng quy định như trên là bất hợp lý vì Điều 74 là điều luật quy định mức phạt tù đối với người chưa thành niên.

Qua thực tiễn áp dụng Điều 75 BLHS trong thời gian qua, thì cần sớm sửa đổi điều này như sau:

“Đối với người phạm nhiều tội, việc tổng hợp hình phạt được áp dụng như sau:

1. Nếu như tất cả các tội được thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất quy định tại Điều 74 Bộ luật này;

2. Có tội thực hiện trước khi đủ 18 tuổi, có tội thực hiện sau khi đủ 18 tuổi, thì được áp dụng như sau:

a, Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung cũng không được vượt quá mức hình phạt cao nhất quy định tại Điều 74 Bộ luật này;

b, Nếu tội nặng nhất được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi, thì hình phạt chung áp dụng như đối với người đã thành niên phạm tội”.

Quy định việc tổng hợp hình phạt áp dụng riêng đối với người chưa thành niên phạm tội có ý nghĩa rất to lớn, nó thể hiện xuyên suốt tinh thần nhân đạo của pháp luật hình sự ưu tiên hơn đối với người chưa phát triển đầy đủ về tâm sinh lý, về nhận thức xã hội và cuộc sông, đồng thời thể hiện nguyên tắc xử lý giáo dục, phòng ngừa là chính, bảo đảm sự phát triển lành mạnh cho người chưa thành niên. BLHS năm 1999 đã quy định việc tổng hợp hình phạt tù đối với người chưa thành niên phạm tội trong trường hợp có tội được thực hiện khi người đó chưa đủ 18 tuổi, có tội được thực hiện khi người đó đã đủ 18 tuổi. Từ đó, cần sớm bổ sung quy định về tổng hợp hình phạt đối với các loại hình phạt khác nhau như phạt tiền và cải tạo không giam giữ; cấn có sự sửa đổi Điều 74, 75 BLHS cho rõ ràng hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án khi áp dụng để tổng hợp hình phạt./.

Minh Nhất