Hậu quả pháp lý của án treo

12/06/2015
 

Xuất phát từ bản chất của án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện – không buộc người bị kết án cách ly khỏi đời sống xã hội mà để họ tự giáo dục cải tạo, song không vì vậy mà người được hưởng án treo không phải chịu hậu quả pháp lý nào. Họ không hoàn toàn như những người khác về mặt quyền lợi mà họ sẽ phải chịu một hậu quả pháp lý đặc trưng của chế định án treo là phải chịu một thời gian thử thách nhất định. Khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “… nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm…”.

1.                   Thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo

1.1.             Thời gian thử thách của án treo

Thời gian thử thách là thời hạn do tòa án quyết định trong một khoảng xác định, trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự, đối với từng trường hợp cụ thể nhằm kiểm tra tính đúng đắn của việc không áp dụng hình phạt đã được tòa án quyết định đối với người phạm tội, để tiến hành công tác giáo dục riêng đối với người đó.

Như vậy, dù không cách ly ra khỏi đời sống xã hội nhưng người được hưởng án treo phải chịu một thời gian thử thách nhất định. Thời hạn này là một khoảng thời gian xác định theo mỗi trường hợp cụ thể nhưng trong một mức ấn định của pháp luật hình sự từ tối thiểu tới tối đa. Bên cạnh việc thời hạn thử thách này được đặt ra nhằm kiểm tra tính đúng đắn của quyết định không áp dụng hình phạt tù, thì nó còn có tác dụng răn đe và giám sát người phạm tội, kiểm tra xem họ có chịu tự cải tạo, giáo dục không, có tuân thủ theo những điều kiện mà tòa án đặt ra và đe dọa họ nếu như phạm tội mới sẽ phải chịu hậu quả pháp lý nặng nề - chấp hành hình phạt tổng hợp của cả hai bản án.

Tuy vậy, việc quy định thời gian thử thách và cách tính thời gian thử thách của án treo như thế nào để coi là hợp lý và đảm bảo cho việc thử thách người được hưởng án treo.

Trước đây, tại Điều 10 Sắc lệnh số 21/SL ngày 14 tháng 02 năm 1946 về việc tổ chức các tòa án quân sự quy định thời gian thử thách ở một mức cố định là năm năm. Việc quy định như vậy gây ra không ít bất hợp, không khuyến khích người được hưởng án treo tích cực cải tạo để được giảm thời gian thử thách, đồng thời gây ra sự không công bằng giữa những người được hưởng án treo. Tuy cũng là bị án treo song với người này giả sử phải có thời gian thử thách là 04 năm mới đủ giáo dục người bị kết án, song với người được hưởng án treo khác chỉ cần thời gian thử thách là hai năm cũng đủ giáo dục họ. Vậy quy định tất cả một mức là năm năm là không phù hợp. Mặt khác, việc quy định thời điểm bắt đầu thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án song trường hợp bản án nếu bị kháng cáo, kháng nghị thì tính thời gian thử thách là từ ngày tuyên án sơ thẩm hay tuyên án phúc thẩm.

Khắc phục điều này trong Thông tư số 2308/NCPL của tòa án nhân dân tối cao ngày 01 tháng 12 năm 1961 đã quy định thời gian thử thách của án treo và đặc biệt từ khi Bộ luật hình sự ra đời cho đến nay đã ấn định thời gian thử thách của án treo là một khoảng xác định từ tối thiểu tới tối đa: “từ một năm đến năm năm”. Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986 của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự” đã hướng dẫn “thời gian thử thách không được ít hơn mức án tù đã tuyên, mà ít nhất phải bằng hoặc nhiều hơn (thông thường phải dài hơn) mức án tù đã tuyên”.

Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18 tháng 10 năm 1990 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cũng quy định rõ: “thời gian thử thách của án treo là từ một năm đến năm năm, bất cứ trường hợp nào cũng không được dưới một năm và quá năm năm và không được ít hơn mức hình phạt tù. Thời gian thử thách của án treo là bắt buộc, không được cho hưởng án treo mà lại miễn thử thách”.

Theo pháp luật hình sự hiện hành thì thời gian thử thách áp dụng cho người bị phạt tù được hưởng án treo là bắt buộc và khoảng thời gian này được xác định từ một năm đến năm năm.

Ví dụ: Nguyễn Văn H phạm tội trộm cắp tài sản của công dân quy định tại khoản 1 Điều 155 Bộ luật hình sự năm 1999 bị tòa án tuyên phạt 06 tháng tù giam nhưng cho hưởng án treo thì thời gian thử thách áp dụng cho H mức thấp nhất cũng là phải một năm chứ không vì mức phạt tù có 06 tháng mà thời gian thử thách cũng là 06 tháng.

Trong Bộ luật hình sự năm 1999 không quy định mối tương quan giữa mức hình phạt tù đã quyết định và thời gian thử thách áp dụng cho người được hưởng án treo là bao nhiêu, mà khi xét xử tòa án sẽ đánh giá nhân thân người phạm tội, xem xét các tình tiết giảm nhẹ và khả năng cũng như yêu cầu cải tạo, giáo dục người phạm tội mà ấn định một mức thời gian hợp lý, thông thường thì với mức phạt tù cao thì mức thời gian thử thách là dài và ngược lại. Điều này dẫn đến việc không thống nhất trong ấn định thời gian thử thách.

 Chính vì vậy, tại Điều 3 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP đã quy định: “Khi cho người bị xử phạt tù hưởng án treo, Toà án phải ấn định thời gian thử thách bằng hai lần mức hình phạt tù, nhưng không được dưới 1 năm và không được quá 5 năm.”

Với người được hưởng án treo thì thời gian thử thách có một ý nghĩa quan trọng, đảm bảo cho việc cải tạo, giáo dục người phạm tội, là quãng thời gian cần thiết để khẳng định tính đúng đắn của án treo, khả năng cải tạo của người phạm tội. Do đó, trong bất cứ trường hợp nào dù người phạm tội bị tạm giam, cũng không thể vì lý do họ đã bị tạm giam đã lâu mà miễn cho họ thời gian thử thách. Miễn cho họ thời gian thử thách thì án treo sẽ không còn ý nghĩa cải tạo gì đối với người phạm tội. Đề cập đến vấn đề thời gian thử thách của án treo cũng cần phải nói về vai trò của cơ quan, chính quyền quản lý người được hưởng án treo trong thời gian thử thách. Khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999 quy định: “Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.”.

Như vậy, người được hưởng án treo dù không phải cách ly khỏi đời sống xã hội song trong hoạt động bình thường của mình, họ phải chịu một sự giám sát, quản lý của các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm. Đây là một sự hạn chế riêng đối với những người được hưởng án treo. Sự theo dõi, giáo dục của chính quyền địa phương với người được hưởng án treo nhằm đánh giá việc cải tạo của họ và tránh cho họ những ảnh hưởng xấu dẫn đến việc phạm tội. Như vậy, vai trò của chính quyền địa phương, của cơ quan nhà nước, của tổ chức xã hội trong cải tạo người phạm tội được hưởng án treo là rất lớn. Nhưng thực tế việc quản lý, giáo dục người phạm tội được hưởng án treo chưa đáp ứng nhiệm vụ đặt ra mặc dù luật tố tụng hình sự đã chỉ rõ các cơ quan có trách nhiệm theo dõi, giáo dục người phạm tội được hưởng án treo trong mọi trường hợp xảy ra… Nguyên nhân của thực tế trên là từ sự phối hợp không đồng bộ giữa tòa án nói riêng và các cơ quan bảo vệ pháp luật nói chung với chính quyền địa phương, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội trực tiếp có nhiệm vụ giáo dục người được hưởng án treo. Việc thiếu một hệ thống các quy định về chế độ cải tạo người được hưởng án treo gây khó khăn cho cơ quan có trách nhiệm thực hiện công việc giáo dục và sự quy định không rõ ràng trách nhiệm của các cơ quan này cũng gây ra những khó khăn cho việc quản lý người phạm tội được hưởng án treo, Do đó, nhằm đảm bảo tính răn đe của thời gian thử thách đối với người phạm tội được hưởng án treo cần có sự quy định định chặt chẽ thêm về vai trò của các tổ chức, cơ quan và chính quyền địa phương trong cải tạo người phạm tội được hưởng án treo, từ đó giúp họ quay trở lại làm người tốt.

1.2.             Cách tính thời gian thử thách của án treo

Việc quy định thời gian thử thách của án treo như vậy là rất hợp lý song vấn đề đặt ra là tính thời gian thử thách từ thời điểm nào là hợp lý và có tác dụng cải tạo giáo dục người được hưởng án treo, không để lọt tội phạm.

Ngay sau khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời và có hiệu lực thi hành, để thuận lợi cho công tác vận dụng điều luật vào xét xử thì Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05 tháng 01 năm 1986 có hướng dẫn về cách tính thời gian thử thách của án treo như sau: “thời gian thử thách là từ một năm đến năm năm, tính từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật” có nghĩa là (từ khi hết hạn kháng cáo, kháng nghị mà bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bản án phúc thẩm cho hưởng án treo).

Sự hướng dẫn này đã bộc lộ những nhân tố bất hợp lý bởi vì nếu tính thời điểm bắt đầu thời gian thử thách là từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật nghĩa là sau 15 ngày (hoặc 30 ngày) bản án (sơ thẩm) mới có hiệu lực pháp luật (nếu không có kháng cáo, kháng nghị). Vậy trong thời gian này nếu như người phạm tội được hưởng án treo phạm tội mới sẽ không được tính là phạm tội trong thời gian thử thách và cũng giống như trường hợp bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì trong thời gian chờ xét xử phúc thẩm nếu người phạm tội lại phạm tội mới thì cũng không coi là phạm tội mới trong thời gian thử thách và họ sẽ không phải chịu hình phạt tổng hợp của cả hai bản án. Như vậy là đã bỏ lọt tội phạm, không phù hợp với yêu cầu đấu tranh chống tội phạm.

Hướng dẫn này sau một thời gian áp dụng với những bất hợp lý như trên đã được thay thế bằng Thông tư số 01/NCPL ngày 06 tháng 4 năm 1988 của Tòa án nhân dân tối cao, theo đó “thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án treo đầu tiên, cụ thể như sau:

- Nếu xử sơ thẩm thì gian thử thách tính từ ngày tuyên án và phải ghi rõ ngày tháng năm. Nếu bị cáo đang bị tạm giam thì phải tuyên tha ngay bị cáo. Nếu bản án sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị (kể cả trường hợp án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm) mà khi xử phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm vẫn y án treo của án sơ thẩm, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Nếu án sơ thẩm phạt tù giam, án phúc hoặc án giám đốc thẩm cải án sơ thẩm cho bị cáo hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm hoặc giám đốc thẩm.

Việc sửa đổi cách tính thời gian thử thách như trên vẫn tồn tại một bất hợp lý nữa, bởi vì sự hướng dẫn trong Thông tư này là tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo thì sẽ dẫn đến trường hợp người phạm tội lại chấp hành bản án (chấp hành thời gian thử thách) từ trước khi bản án có hiệu lực thi hành.

Khắc phục tình trạng nêu trên, Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 16 tháng 11 năm 1988 của Tòa án nhân dân tối cao đã chia ra làm hai trường hợp để tính thời gian thử thách của án treo:

- Nếu tòa án sơ thẩm cho hưởng án treo mà bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời gian thử thách được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Nếu tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo mà bản án bị kháng cáo, kháng nghị và sau đó tòa án cấp phúc thẩm cũng cho người bị kết án hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Sự hướng dẫn này lại vẫn phát sinh ra nhân tố bất hợp lý mới nữa là việc người bị phạt tù nhưng được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm có bị coi là phạm tội mới trong thời gian thử thách hay không phụ thuộc vào việc người đó có kháng cáo hay không.

Chính vì tất cả những bất hợp lý này và để khắc phục chúng, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18 tháng 10 năm 1990 hướng dẫn về cách tính thời gian thử thách của án treo, bao quát được toàn bộ những bất hợp lý và giải quyết được tất cả những tồn tại của các hướng dẫn từ trước. Cụ thể như sau:

Để phát huy tác dụng phòng ngừa của án treo, tránh tình trạng người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị bản án sơ thẩm theo thủ tục phúc thẩm hoặc phạm tội mới trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm mà không bị coi là phạm tội trong thời gian thử thách, từ nay thời gian thử thách của án treo tính từ ngày tuyên bản án cho hưởng án treo; nếu có nhiều bản án cho hưởng án treo thì tính từ ngày tuyên bản án đầu tiên cho hưởng án treo. Nghĩa là: nếu Tòa án cấp sơ thẩm cho người bị kết án được hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm; nếu Tòa án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án phúc thẩm; nếu cả Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp giám đốc cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án giám đốc thẩm; nếu Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Tòa án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Tòa án cấp giám đốc thẩm lại cho hưởng án treo, thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Tuy nhiên, qua một thời gian áp dụng, quy định này đã bộc lộ tồn tại, bất cập, việc ấn định thời gian thử thách, quyết định thời gian thử thách trong bản án còn chưa thống nhất và còn có những cách hiểu khác nhau. Khắc phục hạn chế này, tại Điều 4 Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP quy định:

Thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án đầu tiên cho hưởng án treo; cụ thể như sau:

1. Trường hợp Tòa án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, bản án không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.

2. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm cũng cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án sơ thẩm.

3. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm không cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời điểm bắt đầu tính thời gian thử thách là ngày tuyên án phúc thẩm.

4. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm cho hưởng án treo, Toà án cấp phúc thẩm không cho hưởng án treo, nhưng Toà án cấp giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại và Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

5. Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm cho hưởng án treo, nhưng bản án sơ thẩm, bản án phúc thẩm bị huỷ để điều tra lại và sau đó xét xử sơ thẩm lại, xét xử phúc thẩm lại, Toà án cấp sơ thẩm, Toà án cấp phúc thẩm vẫn cho hưởng án treo thì thời gian thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm hoặc tuyên án phúc thẩm lần sau theo hướng dẫn tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều này.”

Ngoài thời gian thử thách của án treo, một dạng hậu quả pháp lý thì án treo còn có một hậu quả pháp lý nữa đó là hình phạt tổng hợp mà người được hưởng án treo phải chịu nếu như trong thời gian thử thách họ lại phạm tội mới.

2. Hình phạt tổng hợp trong trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách

Khoản 5 Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định: “Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc phạm tội mới do cố ý, thì Tòa án quyết định buộc họ phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42”.

Và khoản 2 Điều 42 quy định: “Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại phạm tội mới. Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó cộng với hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung. Hình phạt chung không được vượt quá mức cao nhất mà luật quy định cho loại hình phạt đã tuyên”.

Như đã nói, thời gian thử thách được đặt ra là nhằm kiểm tra tính đúng đắn của quyết định không bắt buộc người phạm tội phải thi hành hình phạt tù, đánh giá và kiểm tra khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội song nếu như người được hưởng án treo lại phạm tội mới thì điều đó chứng tỏ sự thiếu thận trọng, sự cẩu thả trong hành vi của người phạm tội hoặc là sự coi thường pháp luật của người được hưởng án treo và như vậy việc áp dụng chế độ án treo đối với họ sẽ không phát huy được tác dụng nữa, việc áp dụng cho họ hình phạt nghiêm khắc hơn là rất cần thiết. Tuy nhiên, theo quy định của điều luật trên thì không phải tất cả những trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách đều chịu hình phạt tổng hợp của cả hai bản án, mà họ chỉ phải chịu hình phạt tổng hợp của cả hai bản án nếu tội mới do vô ý và bị phạt tù hoặc tội mới do cố ý. Điều này cũng thể hiện sự chặt chẽ và phù hợp với thực tiễn hơn so với quy định trong Thông tư số 2308/NCPL ngày 01 tháng 12 năm 1961 của Tòa án nhân dân tối cao, quy định như sau: “Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo lại phạm tội mới xùng tính chất hoặc nặng hơn tội cũ, tòa án sẽ cộng một phần hoặc toàn bộ hình phạt cũ và hình phạt mới để chấp hành”. Quy định này thể hiện sự cứng nhắc và bỏ lọt tội phạm, không phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Như vậy, theo quy định của khoản 5 Điều 44 Bộ luật hình sự năm 1985 thì trường hợp người được hưởng án treo phạm tội mới được chia ra làm hai loại với hậu quả pháp lý khác nhau, cụ thể:

- Nếu trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo phạm tội mới do vô ý chỉ bị xử phạt tiền, phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ (cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội) thì họ không phải chấp hành hình phạt tổng hợp của cả hai bản án, mà họ chấp hành đồng thời song song hai bản án cùng một lúc và không phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.

Ví dụ, Nguyễn Văn A bi tòa xử phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 01 năm về tội đánh bạc, trong thời gian thử thách A lại phạm tội vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải (điểm a khoản 1 Điều 186 Bộ luật hình sự) và bị xử phạt 18 tháng cải tạo không giam giữ. Như vậy, A phải chấp hành đồng thời hai bản án: bản án cho hưởng án treo và bản án cải tạo không giam giữ.

Còn nếu như tội mới do vô ý và bị phạt tù thì tòa án bắt buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tổng hợp của cả hai bản án (hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo và hình phạt tù của bản án mới) theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 42 Bộ luật hình sự 1985.

- Nếu người được hưởng án treo phạm tội mới do cố ý trong thời gian thử thách thì sẽ xảy ra hai trường hợp: nếu tội mới do cố ý nhưng chỉ đáng xử phạt cảnh cáo, hoặc phạt tiền thì họ không phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo.

Quy định này vẫn còn chưa chặt chẽ và để lọt tội phạm, không phù hợp với yêu cầu đấu tranh chống tội phạm hiện nay bởi vì người được hưởng án treo – dù không phải cách ly ra khỏi đời sống xã hội song họ vẫn bị sự lên án của xã hội, sự răn đe của pháp luật và thời gian thử thách được đưa ra nhằm đánh giá khả năng cải tạo của họ. Vì vậy, việc họ phạm tội mới dù cố ý hay vô ý, dù ít nghiêm trọng hay nghiêm trọng cũng đã chứng tỏ mức độ cải tạo của họ là không có kết quả, thể hiện thái độ cẩu thả hay thiếu thận trọng trong hành vi, thể hiện sự coi thường pháp luật. Do đó, bắt họ phải chấp hành hình phạt tù của bản án trước tổng hợp với hình phạt của bản án sau là cần thiết, và tại khoản 5 Điều 60 Bộ luật hình sự năm 1999 đã quy định như sau: “Người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy đinh tại Điều 51 của Bộ luật này”.

Như vậy, người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án cho hưởng án treo nếu trong thời gian thử thách họ phạm tội mới. Trường hợp một người đang được hưởng án treo mà sau đó lại phát hiện trước khi được hưởng án treo họ đã thực hiện một tội phạm khác, thì Tòa án xét xử, quyết định hình phạt đối với tội phạm đó và không cho hưởng án treo một lần nữa. Người phạm tội đồng thời phải chấp hành hai bản án. Việc thi hành án trong trường hợp này do các cơ quan được giao trách nhiệm thi hành án hình sự phối hợp thực hiện theo quy định tại Điều 5 của Luật thi hành án hình sự.

Trong trường hợp sau khi hết hạn thời gian thử thách mới phát hiện được rằng người được hưởng án treo đã thực hiện một tội phạm mới trong thời gian thử thách thì việc xét xử và tổng hợp hình phạt vẫn tiến hành như trong trường hợp tội phạm hiện trong thời gian thử thách của án treo và tòa án nào đã cấp giấy chứng nhận xóa án cho người bị kết án thì tòa án đó phải ra quyết định huỷ giấy chứng nhận xóa án đã cấp sai.

Trường hợp buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù mà họ đã được hưởng án treo và nếu họ đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam về tội cũ cũng như thời gian tạm giam về tội mới được khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

Đề cập tới hậu quả pháp lý của án treo thì cũng cần nói đến trường hợp trong thời gian thử thách mà tòa án ấn định, người phạm tội được hưởng án treo không phạm tội mới thì họ đương nhiên không phải chấp hành hình phạt tổng hợp của hai bản án. Điều này cũng chứng tỏ có sự cải tạo tốt, chứng tỏ tòa án đã đánh giá đúng bản chất của người phạm tội, các điều kiện áp dụng án treo đã được đánh giá đúng, và sự khoan hồng của nhà nước biểu hiện qua quy định giảm thời gian thử thách có thể áp dụng cho họ.

Tuy nhiên, bên cạnh sự nhân đạo của chế định án treo, thì để thể hiện được tính nghiêm khắc của chế định án treo qua hậu quả pháp lý (hình phạt tổng hợp nếu người được hưởng án treo phạm tội mới) yêu cầu đặt ra đối với các tòa án là phải tổng hợp hình phạt đúng. Thực tế có những trường hợp tổng hợp hình phạt sai như tổng hợp hình phạt tù của cả hai bản án (bản án đã cho hưởng án treo với hình phạt tù của bản án mới) nhưng lại chỉ bắt chấp hành hình phạt tù của một bản án, và trường hợp tội mới do cố ý và tòa án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ, nhưng không quy đổi mà để cho người phạm tội chấp hành song song hai bản án… đều làm ảnh hưởng xấu đến tính nghiêm khắc trong hậu quả pháp lý của án treo qua đó làm ảnh hưởng đến tính đúng đắn của chế định án treo gây ra tâm lý coi thường chế định này. Vì vậy, đòi hỏi khi tòa án tổng hợp hình phạt phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc về tổng hợp hình phạt cùng loại hay khác loại quy định ở Điều 50 và Điều 51 Bộ luật hình sự 1999.

Một vấn đề cũng cần nói đến trong hậu quả pháp lý của án treo, đó là việc xóa án và giảm thời gian thử thách của án treo. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 64 Bộ luật hình sự 1999 thì trong 01 năm kể từ ngày hết thời gian thử thách của án treo nếu người bị kết án không phạm tội mới thì họ sẽ đương nhiên được xóa án. Đương nhiên xóa án có nghĩa là khi hết thời gian thử thách và 01 năm sau đó người phạm tội được hưởng án treo không phạm tội gì khác nữa thì trong lý lịch tư pháp của họ sẽ không có tiền án, mà không cần tòa án phải ra một quyết định nào để cho phép họ được xóa án. Việc xóa án đương nhiên diễn ra nếu như họ đã không phạm tội sau 01 năm kể từ khi hết hạn của thời gian thử thách. Quy định này có tác dụng phòng ngừa tội phạm, đe dọa người được hưởng án treo nếu như phạm tội nữa dù đã hết thời gian thử thách song sẽ có trách nhiệm hình sự nặng hơn bởi vì có tình tiết tăng nặng là có tiền án.

Bên cạnh đó, để khuyến khích người được hưởng án treo tích cực cải tạo đồng thời cũng thể hiện sự khoan hồng của nhà nước thì pháp luật cũng quy định việc giảm thời gian thử thách cho người được hưởng án treo tích cực cải tạo và có những tiến bộ nhất định.

Với hy vọng góp phần hoàn thiện chế định này, xin mạnh dạn đưa ra những kiến nghị sau:

1. Theo quy định tại khoản 1 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999 quy định về điều kiện cho hưởng án treo thì việc quy định như vậy vẫn còn chung chung, chưa chặt chẽ, dẫn đến một số trường hợp người phạm tội có nhân thân xấu vẫn được tòa án cho hưởng án treo là trái với tinh thần của điều luật. Vì vậy, nên quy định là: “Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân tốt của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ,…”

2. Theo quy định tại khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999 và khoản 2 Điều 257 Bộ luật tố tụng hình sự 2003 cũng đã quy định cụ thể các cơ quan có trách nhiệm theo dõi, quản lý người được hưởng án treo là chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú hoặc làm việc, đồng thời Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18 tháng 10 năm 1990 cũng quy định rõ trường hợp người bị kết án treo bị cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội cho thôi việc (nếu là nhân viên của cơ quan này), và trường hợp người được hưởng án treo chuyển chỗ ở thì cơ quan nào có trách nhiệm theo dõi. Nhưng thực tế tỷ lệ người được hưởng án treo tái phạm cao, nguyên nhân là ở chỗ pháp luật chứa quy định các biện pháp cụ thể dành cho cơ quan, tổ chức hay chính quyền có trách nhiệm quản lý người được hưởng án treo dùng để giám sát họ, mà mới chỉ quy định chung chung. Mặt khác, trong thực tiễn công tác quản lý người được hưởng án treo ở các địa phương rất lỏng lẻo, tình hình cải tạo của người được hưởng án treo như thế nào không ai biết…

Vì vậy, nhà nước cần ban hành một bản quy chế về chế độ giám sát, giáo dục đối với người được hưởng án treo, trong đó quy định rõ các biện pháp dùng để quản lý giám sát, các biện pháp hỗ trợ của nhà nước nhằm giúp người được hưởng án treo có được công việc, có được một nghề nghiệp nhất định để họ thuận lợi trong việc quay lại làm người lương thiện, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý, giám sát người được hưởng án treo.

3. Điều 47 Bộ luật hình sự 1999 quy định về việc quyết định một mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Việc quy định này đã tạo ra nhiều kẽ hở, có nhiều vụ án, cán bộ xét xử đã lạm dụng quy định này để cho hưởng án treo, bởi vì khi một người có nhiều tình tiết giảm nhẹ họ đã được tòa án quyết định một mức hình phạt dưới mức thấp nhất mà điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một loại hình phạt khác nhẹ hơn. Song, nhiều cán bộ xét xử sau khi vận dụng quy định này cho người phạm tội được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất mà luật định đồng thời lại chuyển sang cho họ được hưởng án treo. Như vậy, họ đã được hưởng đến hai lần sự khoan hồng trên cùng những tình tiết giảm nhẹ. Như vậy là không công bằng, không thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật và bỏ lọt tội phạm. Cần phải bổ sung thêm vào khoản 1 Điều 60 một đoạn như sau: “Người đã bị xử phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được quy định đối với tội phạm đã được thực hiện thì không được áp dụng án treo”.

4. Qua thực tiễn nghiên cứu tình hình phạm tội và tình hình người chưa thành niên phạm tội ở nước ta trong những năm gần đây tăng rất nhanh và tỷ lệ người chưa thành niên phạm tội được hưởng chế độ án treo cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ trong số những người phạm tội được hưởng án treo. Để giáo dục  những đối tượng này thì không chỉ có sự giám sát giáo dục của xã hội (của chính quyền địa phương là đủ) mà cần có sự hợp tác của gia đình người phạm tội và sự hợp tác này phải trên sự ràng buộc trách nhiệm của gia đình. Vì vậy, nhà nước cần quy định trong luật tố tụng hình sự hoặc trong bản quy chế về chế độ án treo (nếu có) trách nhiệm của gia đình trong việc giáo dục, cải tạo con em mình là người phạm tội được hưởng án treo bằng hình thức ký giấy cam đoan cam kết việc giáo dục con em mình và trách nhiệm đặt ra nếu để xảy ra việc phạm tội mới.

Mặt khác, ở khoản 4 Điều 60 Bộ luật hình sự 1999, nên thay cụm từ “có nhiều tiến bộ” bằng cụm từ “cải tạo tốt”. Việc dùng cụm từ “có nhiều tiến bộ” vẫn chung chung không chỉ ra được bản chất của việc cải tạo tốt của người phạm tội và có nhiều cách hiểu về sự tiến bộ. Vì vậy, nên dùng cụm từ ‘cải tạo tốt” để chỉ thẳng vào bản chất của sự việc và chỉ có thể hiểu theo một nghĩa. Theo đó, Điều 44 nên được viết lại như sau:

“1. Đối với người bị phạt tù không quá 3 năm, có nhân thân tốt và phạm tội trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm. Người đã bị xử phạt tù dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được quy định đối với tội phạm đã thực hiện thì không được áp dụng án treo.

2. Tòa án giao người được hưởng án treo cho chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó thường trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc để giám sát và giáo dục.

3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định theo quy định ở Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.

4. Nếu người được hưởng án treo đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách và cải tạo tốt thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm và giáo dục, tòa án có thể rút ngằn thời gian thử thách.

5. Đối với người được hưởng án treo phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này.

Nguyễn Thị Giang