Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 - sản phẩm của sự đổi mới toàn diện và đột phá về thể chế, mở ra môi trường đầu tư thông thoáng

16/01/2015
 

Bất cập cần sửa đổi của Luật Đầu tư năm 2005

Từ năm 2000 đến năm 2005 là thời điểm kinh tế tư nhân trong nước phát triển mạnh mẽ, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đạt được những bước tiến dài sau thời gian áp dụng những quy định mang tính đột phá của Luật Doanh nghiệp năm 1999 và Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987. Đây cũng là thời điểm Việt Nam chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) với những cam kết mạnh mẽ về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ và tự do hóa hoạt động đầu tư. Do đó, có thể thấy rằng, việc ban hành Luật Đầu tư năm 2005 là một bước tiến quan trọng trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư tại Việt Nam. Cùng với Luật Doanh nghiệp được thông qua và có hiệu lực thi hành vào cùng một thời điểm (01/7/2006), đánh dấu một chặng đường 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam mới có một khung pháp luật về đầu tư, doanh nghiệp áp dụng thống nhất cho các nhà đầu tư và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.

Những quy định của Luật Đầu tư năm 2005 đã mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động đầu tư, kinh doanh của các nhà đầu tư bằng việc xóa bỏ những rào cản đầu tư không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trường và cam kết hội nhập của Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh theo hướng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tư.

Tuy nhiên, sau 9 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, Luật Đầu tư đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập không còn phù hợp với tình hình thực tiễn, cần được sửa đổi, bổ sung, cụ thể như sau[1]:

Một là, Luật Đầu tư năm 2005 và Nghị định số 108/2006/NĐ-CP ngày 25/9/2006 của Chính phủ còn bộc lộ nhiều vướng mắc khi thực thi trên thực tế, cụ thể: (i) Lĩnh vực và địa bàn khuyến khích đầu tư còn dàn trải, thiếu tính thống nhất và chưa thật sự hướng mạnh vào việc thu hút các dự án đầu tư với chất lượng và hiệu quả cao hơn, nhất là tập trung nguồn lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; (ii) Điều kiện đầu tư và thủ tục đầu tư còn thiếu tính minh bạch, khả thi và đồng bộ, chưa thật sự tạo lập được một mặt bằng pháp lý bình đẳng cho nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời chưa có cơ chế để đảm bảo thực hiện một cách nhất quán và hiệu quả các cam kết quốc tế của Việt Nam về điều kiện đầu tư, kinh doanh; (iii) Thủ tục cấp giấy chứng nhận đầu tư và triển khai thực hiện dự án còn phức tạp, tồn tại nhiều đầu mối xem xét, giải quyết, không phù hợp với chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp; (iv) Vấn đề quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư nói chung và cơ chế phối hợp giữa cơ quan trung ương và địa phương chưa được hoàn thiện kịp thời trong bối cảnh thực hiện chế độ phân cấp cũng gây khó khăn trong hoạt động quản lý đầu tư.

Hai là, nhu cầu vốn đầu tư xã hội để bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, khôi phục tốc độ tăng trưởng hợp lý tăng lên theo thời gian. Trong điều kiện tình hình đất nước đang còn nhiều khó khăn, nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn ODA có thể chỉ ổn định ở mức đã đạt được, thì việc cải thiện cơ chế, chính sách nhằm tăng cường huy động các nguồn lực ngoài nhà nước cho đầu tư phát triển là hết sức cần thiết và hiện thực. 

Bên cạnh đó, quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng chất lượng, hiệu quả và hội nhập sâu rộng hơn với khu vực và thế giới cũng đặt ra yêu cầu cấp bách phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách trong đó có Luật Đầu tư, để thích ứng với đòi hỏi cao hơn của quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như thực hiện cam kết quốc tế về tự do hóa đầu tư và thương mại.

Ba là, Việt Nam đang phải đối mặt với xu hướng cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng gay gắt từ các nước trên thế giới và trong khu vực, trong khi năng lực cạnh tranh quốc gia nói chung, sức cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài nói riêng, còn nhiều mặt hạn chế. Bên cạnh đó, mặc dù Chính phủ đã chỉ đạo tích cực trong việc cải thiện môi trường đầu tư, nhất là cải cách thủ tục hành chính, nhưng vẫn chưa đáp ứng được kỳ vọng của các nhà đầu tư lớn.

Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới về môi trường kinh doanh toàn cầu được công bố ngày 29/10/2013, Việt Nam đứng thứ 99/189 nền kinh tế, trong khi Campuchia tăng 23 bậc, Indonesia, Philippines tăng 19 bậc. Ngân hàng Thế giới nhận định, thứ hạng của Việt Nam không thay đổi mặc dù từ năm 2005 đến nay đã thực hiện 21 cải cách, nhiều nhất trong khu vực Đông Á - Thái Bình Dương[2]. Do vậy, để thu hút các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đầu tư vào Việt Nam, thì bảo đảm tính công khai, minh bạch, ổn định của hệ thống pháp luật phải được ưu tiên nhất hiện nay, trong đó có Luật Đầu tư.

Cải thiện môi trường đầu tư khi Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 được thông qua

Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIII, với 422 trên tổng số 424 (99,53%) đại biểu Quốc hội tán thành, Luật Đầu tư (sửa đổi) được thông qua ngày 26/11/2014 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2015. Luật này bao gồm 7 chương, 76 điều, quy định về hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam và đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài; điều kiện và thủ tục đầu tư; quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; chính sách ưu đãi và bảo đảm đầu tư; quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư. Sự đổi mới toàn diện, đột phá về thể chế, mở ra môi trường đầu tư thông thoáng của Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 được thể hiện qua những đổi mới[3] cụ thể sau:

Một là, bảo đảm thực hiện nguyên tắc hiến định về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân trong các ngành, nghề mà Luật không cấm. Việc tập hợp cụ thể Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện trong Luật theo phương pháp loại trừ (chọn bỏ) đã góp phần đổi mới căn bản nguyên tắc áp dụng pháp luật. "Đây là phương pháp rất khó mà trên thế giới, ít nước áp dụng. Nhưng Quốc hội đã quyết định áp dụng phương pháp này, có nghĩa điều gì pháp luật cấm thì ghi vào trong Luật, để thể hiện đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013 là quyền tự do kinh doanh của người dân, doanh nghiệp. Những gì pháp luật không cấm thì người dân và doanh nghiệp được tự do đầu tư kinh doanh"[4]. Theo đó, từ việc nhà đầu tư chỉ được quyền thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật cho phép sang nguyên tắc được tự do đầu tư tất cả các ngành, nghề mà luật này không cấm hoặc quy định phải có điều kiện. Trên cơ sở đó, Danh mục ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh gồm 06 ngành nghề quy định tại Điều 6 và các Phụ lục 1, 3 và 3 của Luật; Danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện gồm 267 ngành, nghề được quy định tại Phụ lục 4 của Luật.

Hai là, củng cố, hoàn thiện cơ chế bảo đảm đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cụ thể: Cập nhật các quy định về việc Nhà nước bảo đảm quyền sở hữu tài sản của nhà đầu tư và cam kết bồi thường thỏa đáng, công bằng trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư phù hợp với quy định của Hiến pháp; Hoàn thiện quy định về việc Nhà nước bảo đảm đối xử không phân biệt giữa các nhà đầu tư phù hợp với cam kết của Việt Nam theo các điều ước quốc tế; Hoàn thiện quy định về việc áp dụng nguyên tắc không hồi tố trong trường hợp văn bản quy phạm pháp luật thay đổi làm ảnh hưởng bất lợi đến ưu đãi đầu tư đã áp dụng đối với nhà đầu tư.

Ba là, hoàn thiện các quy định về ngành, nghề ưu đãi đầu tư nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thu hút đầu tư. Luật sửa đổi đã hoàn thiện các quy định của Luật Đầu tư hiện hành về ngành, nghề ưu đãi đầu tư cũng như các nguyên tắc, điều kiện áp dụng ưu đãi nhằm đảm bảo thu hút đầu tư có chọn lọc, chất lượng, tập trung vào các ngành sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, dự án sản xuất có quy mô lớn, dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng nhiều lao động, dự án sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, dự án thực hiện trong các lĩnh vực xã hội hóa đầu tư(y tê, giáo dụng, dạy nghề, văn hóa…)

Ngoài ra, để khắc phục việc áp dụng ưu đãi đầu tư tràn lan đối với tất cả các dự án thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư, Luật không quy định ưu đãi đầu tư theo địa bàn đối với các dự án khai thác khoáng sản; dự án sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phù hợp với quy định của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.

Bốn là, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính gắn liền với việc nâng cao trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án đầu tư, bao gồm: Bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với tất cả các dự án đầu tư trong nước; đơn giản hóa hồ so, trình tự, thủ tục và rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài (từ 45 ngày theo Luật Đầu tư hiện hành xuống còn 15 ngày).

Cùng với việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, Luật đã bổ sung, hoàn thiện một số quy định nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả dự án đầu tư, như: Bổ sung quy định về bảo đảm nghĩa vụ thực hiện dự án đầu tư dưới hình thức ký quỹ; bổ sung quy định về giám định chất lượng máy móc, thiết bị, công nghệ nhập khẩu để thực hiện dự án đầu tư; hoàn thiện các quy định về chuyển nhượng dự án đầu tư, giãn tiến độ đầu tư, tạm ngừng hoạt động đầu tư, thu hồi giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư… theo hướng xác định cụ thể điều kiện, thủ tục thực hiện các hoạt động này cũng như trách nhiệm của nhà đầu tư và thẩm quyền giải quyết của cơ quan quản lý ở địa phương.

Năm là, hoàn thiện chế độ phân cấp và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với hoạt động đầu tư: Để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý nhà nước đối với các dự án đầu tư quan trọng, có quy mô lớn và tác động liên ngành, liên vùng, Luật đã bổ sung quy định về thẩm quyền, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh theo hướng: Quy định dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận đầu tư của Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở kế thừa, luật hóa và hoàn thiện quy định tương ứng của Nghị quyết số 49/2010/QH12 và quy định của Nghị định số 108/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư; bổ sung quy định về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với các dự án được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất (điểm mới trong nội dung này là chuẩn hóa và đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với một số dự án thuộc thẩm quyền chấp thuận đầu tư của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Theo đó, cơ quan quản lý đầu tư thực hiện chủ trương đầu tư đồng thời với việc xem xét giới thiệu địa điểm và thẩm tra nhu cầu sử dụng đất. Việc áp dụng đồng thời các thủ tục nêu trên sẽ giúp cắt giảm đáng kể thời gian thực hiện thủ tục hành chính do nhà đầu tư không phải tiến hành lần lượt từng thủ tục liên quan đến việc sử dụng đất như quy định hiện hành. Ngoài ra, Luật đã bổ sung quy định về trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế trong quản lý hoạt động đầu tư, đồng thời hoàn thiện các quy định về chế độ báo cáo đầu tư, giám sát và đánh giá hoạt động đầu tư.

Sáu là, hoàn thiện các quy định về hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Các  quy định về vấn đề này được thiết kế trên cơ sở sửa đổi, bổ sung những nội dung của Luật Đầu tư hiện hành, đồng thời luật hóa và hoàn thiện một số quy định tại Nghị định số 78/2006/NĐ-CP ngày 09/8/2006 của Chính phủ về đầu tư ra nước ngoài. Theo đó, Luật khẳng định nguyên tắc nhà đầu tư được thực hiện hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm khai thác, phát triển, mở rộng thị trường tăng khả năng xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ, thu ngoại tệ; tiếp cận công nghệ hiện đại, nâng cao năng lực quản lý và bổ sung nguồn lực phát triển kinh tế đất nước; hoạt động đầu tư ra nước ngoài phải tuân thủ các quy định của Luật này, pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên; nhà đầu tư tự chịu trách nhiệm về hiệu quả hoạt động đầu tư. Luật cũng quy định trách nhiệm của nhà đầu tư trong việc huy động các nguồn vốn (bao gồm cả ngoại tệ) để thực hiện hoạt động đầu tư ở nước ngoài; xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của nhà đầu tư cũng như cơ quan đại diện chủ sở hữu nhà nước trong việc quyết định đầu tư và quản lý hoạt động đầu tư ở nước ngoài, đồng thời bổ sung một số quy định về thủ tục triển khai hoạt động đầu tư ra nước ngoài nhằm tạo cơ chế giám sát và quản lý nguồn vốn chuyển ra nước ngoài để thực hiện hoạt động đầu tư. Ngoài ra, Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết về hoạt động đầu tư ra nước ngoài theo hình thức mua, bán chứng khoán, các giấy tờ có giá khác và đầu tư thông qua các quỹ đầu tư chứng khoán, các định chế tài chính trung gian khác ở nước ngoài mà không trực tiếp tham gia hoạt động quản lý hoạt động đầu tư.

Với những điểm mới như đã phân tích, Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014 đã tạo ra hành lang pháp lý và môi trường đầu tư thông thoáng, hy vọng sẽ thu hút ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động đầu tư, góp phần tạo ra bước phát triển mạnh mẽ và bền vững cho nền kinh tế Việt Nam.

  Bùi Huyền


[1] Phải sửa đổi toàn diện Luật Đầu tư, TS. Phạm Hữu Hồng Thái, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số chuyên đề tháng 3/2014.

[2] Phải sửa đổi toàn diện Luật Đầu tư, TS. Phạm Hữu Hồng Thái, Tạp chí Kinh tế và Dự báo số chuyên đề tháng 3/2014.

[3] Tài liệu họp báo công bố Luật Đầu tư sửa đổi của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 12/12/2014.

[4] Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh trả lời về Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và Luật Đầu tư (sửa đổi) trong chương trình “Dân hỏi - Bộ trưởng trả lời”  của Đài  Truyền hình Việt Nam ngày 30/11/2014.