Tính chất pháp lý của án treo trong pháp luật hình sự Việt Nam

16/01/2015
 

Quản lý xã hội và duy trì trật tự xã hội là nhiệm vụ quan trọng của Nhà nước. Công cụ chủ yếu và hữu hiệu nhất để Nhà nước thực hiện nhiệm vụ này chính là pháp luật. Trong công tác duy trì trật tự xã hội thì việc đấu tranh chống tội phạm là  một hoạt động quan trọng nhất và bất kỳ Nhà nước nào cũng sử dụng pháp luật hình sự để trấn áp tội phạm, đồng thời giáo dục người phạm tội. Cùng với việc quy định các hình phạt nhằm trừng trị các hành vi phạm tội, thì luật hình sự còn có các chế định đặc thù thể hiện tính nhân đạo nhằm cải tạo những người trót lầm lỡ mà nhất thời phạm tội. Án treo là một trong những chế định quan trọng của luật hình sự thể hiện rõ nét tính nhân đạo này, là một chế định pháp luật ra đời rất sớm với tính tích cực của mình, mà án treo hiện nay được quy định rất rộng rãi trong luật hình sự của nhiều nước. Song phụ thuộc vào điều kiện của từng nước, cũng như yêu cầu đấu tranh chống tội phạm mà chế định này có vị trí khác nhau và được hiểu theo những nghĩa khác nhau về bản chất ở mỗi nước.

Ngay từ những ngày đầu mới thành lập Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong pháp luật hình sự thì chế định án treo đã được ghi nhận và thực tiễn áp dụng đã đem lại những kết quả tích cực – tạo điều kiện cho những người trót lầm lỡ mà phạm tội, có bản chất tốt, phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, có nhân thân tốt…, đồng thời nó phân hóa hàng ngũ bọn phạm tội phản cách mạng, đem lại điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh chống những âm mưu phá hoại Nhà nước.

Tuy nhiên, cũng do những khó khăn của thời kỳ này mà chúng ta chưa có một Bộ luật Hình sự hoàn chỉnh. Chính vì vậy mà chế định án treo, cũng như các chế định pháp luật hình sự khác được quy định ở nhiều văn bản khác nhau qua các giai đoạn của thời kỳ này.

Đến thời kỳ Bộ luật Hình sự ra đời (được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1986), án treo đã chính thức được ghi nhận tại Điều 44 của Bộ luật.

Cũng như các văn bản pháp luật trước đây quy định về án treo, thì trong Bộ luật Hình sự, án treo vẫn được coi là một chế định quan trọng thể hiện một cách đầy đủ nhất nguyên tắc “trừng trị kết hợp với khoan hồng” và “Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa” trong pháp luật hình sự của Nhà nước ta.

Cùng với sự đổi mới của đất nước, sự hòa nhập với khu vực và thế giới, nền kinh tế phát triển nhanh, hệ thống pháp luật của ta nói chung và luật hình sự nói riêng đã bộc lộ những khuyết điểm cần phải sửa đổi. Bộ luật Hình sự năm 1985 đã qua ba lần sửa đổi, bổ sung và ít nhiều đã thể hiện sự phù hợp, song nhu cầu cần có Bộ luật Hình sự mới vẫn cấp thiết. Chính vì vậy, ngày 21/12/1999, Quốc hội khóa X đã thông qua Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 16/9/2009, Quốc hội cũng đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự.

Cùng với sự sửa đổi của Bộ luật Hình sự, thì chế định án treo cũng đã được sửa đổi cho phù hợp và đã phát huy được tính tích cực của nó trong thực tiễn.

Tuy nhiên, xét trên phương diện lý luận và trên thực tiễn áp dụng chế định án treo này, dù đã được sửa đổi, song vẫn tồn tại những bất hợp lý ngay cả với các điều luật khác trong Bộ luật Hình sự và chưa phù hợp với công tác đấu tranh chống tội phạm, biểu hiện trong thực tế là sự lạm dụng thái quá chế định này đã gây ra những hậu quả pháp lý tiêu cực – những trường hợp đáng xử phạt tù giam thì lại cho hưởng án treo đã gây ra tâm lý coi thường pháp luật, ảnh hưởng đến tính nghiêm minh của pháp luật. Chính vì vậy, trong điều kiện chúng ta đang tiến hành xây dựng Bộ luật Hình sự mới, chế định án treo cũng cần có những nghiên cứu, sửa đổi, đáp ứng yêu cầu đổi mới của đất nước cũng như diễn biến của tình hình tội phạm trong thời kỳ đổi mới này, phù hợp với quan điểm của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội Đảng VI: “chúng ta quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lý” và nguyên tắc pháp chế được ghi nhận trong khoản 1 Điều 8 Hiến pháp năm 2013: “Nhà nước… quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”.

Như trên đã phân tích, án treo là một chế định pháp luật hình sự ra đời rất sớm, nó có thể được coi như một thành quả của cách mạng dân chủ tư sản và lần đầu tiên được ghi nhận trong luật hình sự một số nước (Pháp, Bỉ…). Hiện nay,  chế định án treo được quy định rộng rãi trong luật hình sự của rất nhiều nước và luật hình sự Việt Nam cũng đã sớm ghi nhận chế định này ngay từ những ngày đầu đất nước giành được độc lập. Tuy nhiên, vị trí và bản chất của án treo lại được giải thích khác nhau ở mỗi nước tùy thuộc vào yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, chính sách hình sự và bản chất của mỗi một nhà nước.

1. Vài nét về chế định án treo qua luật hình sự các nước

Qua nghiên cứu luật hình sự của một số nước thì chế định án treo trong luật hình sự mỗi nước đều có những đặc thù riêng, không giống nhau, ngay cả ở nước có truyền thống lập pháp lâu đời hay non trẻ, có cùng hệ thống chính trị hay khác hệ thống chính trị.

Nghiên cứu luật hình sự Trung Quốc cho thấy, chế định án treo được quy định như sau: “Khi xử phạt cải tạo lao động hoặc tù dưới ba năm, căn cứ vào những tình tiết phạm tội và biểu hiện ăn năn hỗi lỗi của người phạm tội, có thể cho người phạm tội hưởng án treo, nếu xác định được rằng áp dụng án treo sẽ không gây nguy hại cho xã hội.

Người bị án treo có thể chịu thêm hình phạt bổ sung[1]. Như vậy, có thể hiểu án treo theo luật hình sự Trung Quốc không phải là hình phạt mà là biện pháp miễn chấp hành hình phạt có điều kiện – đây chính là bản chất của án treo. Tuy nhiên, điều kiện để cho hưởng án treo là mang tính đặc thù của pháp luật hình sự Trung Quốc.

Khác với luật hình sự Trung Quốc, luật hình sự Nhật Bản tại phần chung của bộ luật có 13 chương, tại chương IV quy định về “hoãn thi hành án” có nội dung giống với án treo trong luật hình sự của nước ta. Tuy nhiên, bản chất của chế định này là “hoãn thi hành” và cũng không phải là hình phạt.

Nhưng luật hình sự Thụy Điển từ Điều 1 đến Điều 7 của chương 27 quy định về án treo, thì án treo ở trong luật hình sự của Thụy Điển có tính chất pháp lý của một loại hình phạt.

Còn luật hình sự mới của Pháp (1994) thì quy định về án treo với bản chất là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt, nhưng việc miễn chấp hành hình phạt này có thể là miễn chấp hành một phần hình phạt tù, hoặc miễn chấp hành toàn bộ hình phạt tù. Tuy nhiên, luật hình sự của Pháp còn phân chia án treo ra làm nhiều loại phức tạp.

Nói tóm lại thì mỗi một nhà nước, trong luật hình sự của mình đều có những chế định thể hiện sự khoan hồng. Tuy nhiên, mức độ như thế nào lại phụ thuộc vào điều kiện của từng nước, thể hiện ở chế định án treo được ghi nhận trong luật hình sự và sự giải thích về bản chất pháp lý của chế định này.

2. Chế định án treo trong luật hình sự Việt Nam

2.1. Tính chất của án treo qua các giai đoạn và trong Bộ luật Hình sự năm 1999

Xuất phát từ đường lối và chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là “trừng trị kết hợp với khoan hồng”, cùng với nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa, chế định án treo đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự nước ta ngay từ những ngày đầu đất nước giành được độc lập. Tuy nhiên, trong một thời kỳ dài với những khó khăn cả về mặt khách quan lẫn chủ quan chúng ta chưa có một Bộ luật Hình sự hoàn chỉnh. Án treo cũng như các chế định khác của luật hình sự được quy định chủ yếu trong các văn bản pháp luật hình sự riêng lẻ, không có giá trị pháp lý cao, chủ yếu là các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao và vì lẽ đó mà án treo được hiểu khác nhau về bản chất của mình. Đến khi Bộ luật Hình sự ra đời thì án treo lại được hiểu theo một nghĩa khác về mặt bản chất so với trước đây.

Tìm hiểu quá trình hình thành và hoàn thiện chế định này là một việc làm quan trọng để từ đó hoàn thiện hơn nữa và trở thành chế định pháp luật thực sự khoa học và đúng đắn.

Theo Sắc lệnh số 21 ngày 14/12/1946 về tổ chức Tòa án quân sự, tại Điều 10 của Sắc lệnh quy định về án treo như sau: “Khi phạt tù tòa án có thể cho tội nhân được hưởng án treo nếu có những lý do chính đáng khoan hồng. Bản án xử treo sẽ tạm đình chỉ việc thi hành nếu có những lý do đáng khoan hồng. Nếu trong năm năm kể từ ngày tuyên án, tội nhân không bị tòa án quân sự làm tội một lần nữa về một việc mới, thì bản án đã tuyên sẽ hủy đi, coi như không có. Nếu trong năm năm ấy, tội nhân bị kết án một lần nữa trước một tòa án quân sự thì bản án treo sẽ đem thi hành”.[2]

Theo điều luật này, việc tội nhân không bị tòa án quân sự xét xử về một tội khác phạm phải trong thời gian thử thách thì bản án đã tuyên hủy đi, coi như không có – có thể hiểu đây chính là việc đương nhiên xóa án. Tuy nhiên, việc điều luật ấn định một mức thời gian thử thách cố định là 5 năm, đôi khi đã không khuyến khích một người bị kết án tích cực cải tạo.

Tiếp theo vào năm 1956, chúng ta có Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 có nói về án treo. Tại Điều 12 của Sắc lệnh quy định như sau: “Đối với kẻ phạm tội… bị phạt không quá 02 năm tù, thì trong những trường hợp rất đặc biệt, do Thủ tướng Chính phủ quy định, tòa án có thể cho bị cáo hưởng án treo”.

Qua thực tế việc áp dụng những quy định này đã gặp không ít khó khăn. Theo Sắc lệnh số 21 ngày 14/12/1946 và Sắc lệnh số 267/SL ngày 15/6/1956 thì người được hưởng án treo phải là người có lý do đáng được khoan hồng hoặc là những trường hợp đặc biệt. Vậy thì để hiểu được những lý do nào là lý do đáng được khoan hồng, trường hợp nào là trường hợp đặc biệt thì lại không có một văn bản nào đề cấp tới mà phụ thuộc vào hoàn toàn vào ý chí chủ quan của người thẩm phán. Điều này sẽ dẫn tới những sai lầm trong nhận thức của cán bộ xét xử và thực tế đã chứng tỏ có những trường hợp đáng xử phạt tù giam thì lại cho hưởng án treo và đáng được xử án treo thì lại xử tù giam…

Theo đánh giá sơ bộ về tình hình áp dụng án treo trong giai đoạn này, Thông tư 2308/NCPL ngày 01/12/1961 của Tòa án nhân dân tối cáo đã nêu rõ bên cạnh những kết quả tích cực của việc vận dụng chế định án treo trong thực tiễn, thì còn tồn tại những vụ án đã cho hưởng án treo không đúng; cụ thể như vụ T.C.H giáo viên vỡ lòng, hiếp dâm em bé 7 tuổi, vì tòa án coi đây là hành động nhất thời trong lúc vợ can phạm sinh đẻ, nên phạt 1 năm tù treo. Việc tòa án coi tình tiết “hành động nhất thời trong lúc vợ can phạm sinh đẻ” là lý do “đáng được khoan hồng” là hoàn toàn toàn không có căn cứ cả về mặt pháp luật cũng như đạo đức xã hội. Tòa án đã không thấy được tính chất nghiêm trọng của vụ việc – tư cách của một người giáo viên, lại thực hiện hành vi đồi bại gây ra dư luận xấu trong nhân dân và đã xâm hại nghiêm trọng đến phẩm chất cũng như sức khỏe của một em bé. Một ví dụ khác: L.V.L đánh vợ thành thương, can phạm chưa gây tác hại nghiêm trọng, bản chất can phạm tốt, phạm pháp lần đầu, thái độ biết ăn năn hối cải, người vợ có đơn xin khoan hồng nhưng tòa sơ thẩm vẫn xử 6 tháng tù giam, sau phúc thẩm lại sửa là 6 tháng tù treo.

Trong Thông tư 2308/NCPL ngày 01/12/1961 cũng đề ra phương hướng cụ thể trong việc áp dụng án treo “án treo là một biện pháp hoãn thụ hình có điều kiện, áp dụng chủ yếu đối với những kẻ phạm tội nhẹ, bản chất không nguy hiểm, xét không thực cần thiết phải bắt thi hành ngay án phạt tù, nhằm mục đích khuyến khích họ tự nguyện lao động cải tạo với sự giúp đỡ tích cực của xã hội, đồng thời cảnh cáo họ nếu còn tiếp tục phạm tội trong thời gian thử thách, thì tùy trường hợp sẽ buộc phải chấp hành án cũ trong mức độ cần thiết. Ngược lại, nếu trong thời gian thử thách, họ không phạm tội gì mới, án trước sẽ được xóa bỏ”[3].

Xem xét trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn áp dụng án treo với sự hướng dẫn trong Thông tư này ta thấy sự khác nhau về mặt bản chất. Cụ thể:

Hoãn thụ hình nghĩa là một can phạm sắp phải chịu hình phạt hoặc đang phải chịu hình phạt, vì một lý do khách quan nào đó (ví dụ bị bệnh tâm thần, ốm đau nặng, có thai, nuôi con nhỏ dưới 01 tuổi…), tòa án có thể cho phép tạm ngưng việc thực hiện hình phạt lại cho đến khi những lý do khách quan ấy không còn nữa, đã được khắc phục cụ thể như bệnh đã khỏi, con đã lớn hơn một tuổi… thì can phạm lại phải tiếp tục thực hiện hình phạt (đây là những trường hợp thuộc luật tố tụng hình sự). Còn thực tiễn áp dụng án treo là trường hợp tòa án xem xét các tình tiết của vụ án, đánh giá nhân thân của người bị kết án và từ đó đưa ra một kết luận không cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà vẫn đạt được mục đích cải tạo, giáo dục người phạm tội sau khi đã lên một mức hình phạt thích hợp tương ứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Vì vậy, nếu cho rằng án treo là biện pháp “hoãn thụ hình có điều kiện” thì chưa hoàn toàn chính xác thể hiện qua sự phân tích ở trên. Nó thuộc về hai đối tượng điều chỉnh của hai ngành luật khác nhau – luật hình sự và luật tố tụng hình sự (xem thêm Điều 261 – Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2004).

Đồng thời với sự mâu thuẫn trong hướng dẫn ở Thông tư này, việc không quy định các hình thức tổ chức quản lý, theo dõi, giám sát người được hưởng án treo, người được hưởng án treo không bị hạn chế về quyền lợi gì, thời gian thử thách mà họ phải mang án tích tối đa cũng chỉ là 5 năm, đây là một khiếm khuyết cơ bản trong Thông tư này, tạo ra tâm lý án treo là nhẹ nhất và nảy sinh tư tưởng “chạy chọt” để rồi từ đó cho hưởng án treo không xác đáng.

Theo bản hướng dẫn về trình tự phúc thẩm hình sự (kèm theo Thông tư số 19-TATC ngày 02/10/1974 của Tòa án nhân dân tối cao) và trong bản tổng kết công tác ngành tòa án năm 1976 lại hướng dẫn về án treo: “án treo phải được xem là hình thức xử lý nhẹ hơn án tù giam”. Như vậy, chuyển án tù treo sang án tù giam dù thời hạn ngắn hơn cũng là tăng nặng hình phạt, ngược lại chuyển tù giam sang án tù treo dù thời hạn dài hơn vẫn là giảm nhẹ hình phạt…”[4]. Quan điểm này thể hiện sự nhận thức không đúng đắn và đầy đủ về án treo, mới chỉ thấy được hình thức bề ngoài mà chưa thấy được bản chất bên trong và hậu quả pháp lý thực sự của án treo. Ví dụ:

A, B, C đều phạm tội đánh bạc, nhưng A là phạm tội nặng nhất và bị xử phạt 9 tháng tù giam, còn B và C phạm tội nhẹ hơn và được tòa xử 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 24 tháng (vì cho rằng 01 năm tù treo nhẹ hơn 9 tháng tù giam). Sau một năm, cả ba đều phạm tội trộm cắp tài sản với các tình tiết như nhau và đều bị tòa xử về tội trộm cắp, mỗi tên là 02 năm tù giam. Như vậy trong thực tế, A phạm tội nặng hơn chỉ bị phạt 33 tháng tù giam (9 tháng của tội trước + 24 tháng của tội sau), còn B và C phạm tội nhẹ hơn lại bị xử phạt 36 tháng tù giam (12 tháng của tội trước + 24 tháng của tội sau). Như vậy, B và C được hưởng sự khoan hồng khi xét xử ở tội lần thứ nhất vô hình chung lại trở thành gánh nặng.

Và tại Điều 44 Bộ luật Hình sự được Quốc hội thông qua ngày 27/6/1985 đã quy định một cách đầy đủ về chế định án treo như sau:

1) Khi xử phạt tù không quá 5 năm (theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự ngày 22/12/1992 là không quá 3 năm) căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù thì tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

2) Tòa án giao người bị án treo cho cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội nơi người đó làm việc hoặc thường trú để theo dõi giáo dục.

3) Người bị án treo có thể phải chịu thêm một số hình phạt bổ sung như phạt tiền, cấm đảm nhiệm những chức vụ, làm những nghề hoặc công việc nhất định quy định ở Điều 23 và Điều 28.

4) Nếu người bị án treo đã chấp hành được một nửa thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm theo dõi giáo dục, tòa án có thể rút ngắn thời gian thử thách.

5) Nếu trong thời gian thử thách, người bị án treo phạm tội mới do vô ý mà bị phạt tù  hoặc phạm tội mới do cố ý thì tòa án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định ở khoản 2 Điều 42.

Như vậy, toàn bộ điều luật không có một từ nào nói về bản chất pháp lý của án treo.

Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “hướng dẫn áp dụng Điều 44 của Bộ luật Hình sự” có hướng dẫn: “án treo là miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện đối với người bị phạt tù không quá 5 năm (theo Bộ luật Hình sự sửa đổi, bổ sung ngày 22/12/1992 là không quá 3 năm). Căn cứ vào nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù…”.

Như vậy, bản chất pháp lý của án treo đã được hướng dẫn cụ thể là “biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”.

Kế thừa quy định tại Điều 44 Bộ luật Hình sự năm 1985, tại Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về án treo như sau:

“1. Khi xử phạt tù không quá ba năm, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù, thì Tòa án cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách từ một năm đến năm năm.

2. Trong thời gian thử thách, Toà án giao người được hưởng án treo cho cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó thường trú để giám sát và giáo dục. Gia đình người bị kết án có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục người đó.

3. Người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định theo quy định tại Điều 30 và Điều 36 của Bộ luật này.

4. Người được hưởng án treo đã chấp hành được một phần hai thời gian thử thách và có nhiều tiến bộ thì theo đề nghị của cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giám sát và giáo dục, Toà án có thể quyết định rút ngắn thời gian thử thách.

5. Đối với người được hưởng án treo mà phạm tội mới trong thời gian thử thách, thì Toà án quyết định buộc phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 51 của Bộ luật này.”

Bên cạnh đó, tại Điều 28 Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định về hệ thống hình phạt của luật hình sự nước ta thì có 07 loại hình phạt chính là: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình và bảy hình phạt bổ sung gồm: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; cấm cư trú; quản chế; tước một số quyền công dân; tịch thu tài sản; phạt tiền và trục xuất (khi không áp dụng là hình phạt chính).

Như vậy, quy định về án treo trong  Bộ luật Hình sự năm 1999 kế thừa nguyên vẹn các quy định của Bộ luật Hình sự năm 1985. Và để áp dụng đúng và thống nhất quy định tại Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999, ngày 06/11/2013,  Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP. Theo đó, tại Điều 1 của Nghị quyết đã quy định rõ: “án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện,…”.

Như vậy, bản chất pháp lý của án treo, theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam (Điều 44 Bộ luật Hình sự năm 1985, Điều 60 Bộ luật Hình sự năm 1999) và sự hướng dẫn qua các nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 18/10/1990 và Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013), là “biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện”.

2. Sự khác nhau giữa án treo với hình phạt cải tạo không giam giữ

Để hiểu được bản chất và nắm vững được chế định án treo trong luật hình sự, thì một điều quan trọng là cần phải có sự phân biệt giữa chế định án treo và hình phạt cải tạo không giam giữ - một loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt.

- Giữa án treo và cải tạo không giam giữ có một điểm chung là cả hai đều không bắt người bị kết án cách ly ra khỏi xã hội mà buộc họ phải tự cải tạo giáo dục dưới sự quản lý giáo dục của chính quyền địa phương, cả người bị án treo và cải tạo không giam giữ đều có thể bị áp dụng thêm các hình phạt bổ sung. Song giữa hai chế định này có sự khác nhau rất lớn:

+ Về bản chất án treo là một biện pháp miễn chấp hành hình phạt có điều kiện, còn cải tạo không giam giữ lại là một loại hình phạt chính trong hệ thống hình phạt của luật hình sự. Khi tuyên cho người phạm tội được hưởng án treo, tòa án phải thực hiện qua hai bước: bước 1. Quyết định một mức hình phạt tương ứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội (và để được xem xét hưởng án treo thì mức hình phạt phải từ ba năm trở xuống) và bước thứ 2. Tòa án xem xét, đối chiếu với các điều kiện để cho hưởng án treo và khi thấy thỏa mãn thì quyết định cho hưởng án treo, nói cách khác thì để quyết định cho hưởng án treo thì tòa án tiến hành qua hai bước: Bước 1 quyết định hình phạt và Bước 2 quyết định cho hưởng án treo. Đối với hình phạt cải tạo không giam giữ thì khi quyết định tòa án chỉ cần xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, rồi quyết định trực tiếp luôn hình phạt cải tạo không giam giữ.

+ Cải tạo không giam giữ là một loại hình phạt chỉ áp dụng đối với tội phạm ít nghiêm trọng và nghiêm trọng, còn án treo thì lại áp dụng cả với tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và trong nhiều trường hợp thì mức hình phạt tổng hợp của nhiều tội mà từ 3 năm trở xuống cũng có thể xem xét cho hưởng án treo. Nghĩa là phạm vi áp dụng án treo rộng hơn hình phạt cải tạo không giam giữ và có mức độ nghiêm khắc hơn cải tạo không giam giữ.

+ Về hậu quả pháp lý, thì trong thời gian thử thách nếu người bị kết án treo phạm tội mới thì hậu quả pháp lý của họ rất nặng nề. Họ phải chịu hình phạt tổng hợp của cả hai bản án – hình phạt của tội trước tổng hợp với hình phạt của tội mới. Đối với người bị hình phạt cải tạo không giam giữ nếu phạm tội mới trong thời gian chấp hành hình phạt, thì họ chỉ phải chịu phần còn lại của hình phạt cải tạo không giam giữ (chuyển thành hình phạt tù, cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ thành 01 ngày tù) rồi tổng hợp theo nguyên tắc tổng hợp hình phạt chung (Điều 51 Bộ luật Hình sự 1999).

Người phạm tội bị áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ thì có thể bị khấu trừ một phần thu nhập để sung quỹ nhà nước cụ thể của mức khấu trừ này là từ 5% đến 20% thu nhập của người đó. Quy định này không áp dụng đối với án treo mà với án treo thì người được hưởng án treo có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Như vậy, giữa án treo và cải tạo không giam giữ có sự khác biệt rất rõ nét và án treo có hậu quả pháp lý nghiêm khắc hơn hình phạt cải tạo không giam giữ.

Với bản chất của mình, chế định án treo thể hiện là một chế định pháp luật tiến bộ, biểu hiện cụ thể nguyên tắc trừng trị kết hợp với khoan hồng, tính nhân đạo trong pháp luật hình sự của nước ta. Tuy nhiên, chế định án treo này được áp dụng khi nào, với những điều kiện như thế nào là một vấn đề cần được xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng.

Việc áp dụng đúng đắn, chính xác chế định này sẽ tạo ra những hậu quả pháp lý tích cực, phát huy được mặt tiến bộ của chế định này mà không cần phải đưa người phạm tội vào tù đồng thời vẫn đạt được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội. Hiện nay, có quan điểm cho rằng có cần thiết quy định chế định án treo nữa không khi sửa đổi Bộ luật Hình sự để phòng tránh những tiêu cực trong áp dụng pháp luật nhất là đối với việc xét xử các tội phạm tham nhũng. Người viết bài này cho rằng, bản thân quy định pháp luật không có lỗi mà lỗi là ở người thực hiện, dù quy định pháp luật có chặt chẽ đến đâu mà người vận dụng không trong sáng thì vẫn có thể vận dụng không đúng. Mặt khác, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ định hướng hoàn thiện về pháp luật hình sự: “Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội. Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo hương chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm”.

Như vậy, cần thiết phải tiếp tục quy định về chế định án treo trong Bộ luật Hình sự chính là quy định thể hiện cụ thể hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW nói trên./.

 


[1] Điều 67 – ξ 5 – Bộ luật hình sự Trung Quốc – Nxb. Chính trị Quốc gia, 1994.

[2] Điều văn nói trên là văn bản duy nhất có tính chất pháp luật quy định nội dung chủ yếu của chế định án treo trong pháp luật hình sự nước ta thời kỳ đó. Do thẩm quyền của các tòa án quân sự trước đây được tổ chức theo Sắc lệnh số 21 nói trên có tính chất là tòa án chính trị (khác với các tòa án quân sự hiện nay có tính chất là tòa án binh) đã được chuyển giao cho các tòa án nhân dân. Cho nên có thể hiểu các tòa án quân sự nói trong Điều 10 là tòa án nói chung – tập hệ thống hòa luật lệ về hình sự (1945-1975), tr.119.

[3] Xem Luật lệ về Hình sự (1945-1975), tr.121.

[4] Xem: Tập luật lệ về hình sự (1945-1975), tr.121.