Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập; Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập; Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch…”.
Thế nhưng trên thực tế, vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được hiểu và áp dụng thực hiện như thế nào?
Hiện nay ở một số nơi quyền lợi của người phụ nữ khi ly hôn chưa được đảm bảo; do đó khi xác định công sức đóng góp của mỗi bên trong việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản chung của vợ chồng, đặc biệt cần quan tâm đến công sức đóng góp của người phụ nữ nhất là phụ nữ ở nông thôn. Bởi ở nông thôn, vẫn còn nặng về tư tưởng "của chồng, công vợ" nên nhiều chị em ở nhà chăm sóc chồng con, làm nông nghiệp nên khi xảy ra ly hôn, quyền tài sản của mình không được đảm bảo. Do đó trong những trường hợp này cần phải xác định: tài sản của vợ chồng là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất; quyền của người phụ nữ vẫn được bảo vệ khi ly hôn xảy ra.
Ngoài ra, theo chúng tôi, giải quyết chia tài sản khi ly hôn nhằm bảo vệ tốt hơn quyền của người phụ nữ cần phải thống nhất quan điểm: dù đã ly hôn, mỗi bên đều có quyền có nhà ở. Việc giải quyết ly hôn cần tạo điều kiện cho mỗi bên có chỗ ở ổn định, nhất là đối với vợ, các con chưa thành niên và bất kỳ trong trường hợp nào cũng không thể để vợ con không có chỗ ở.
Khi giải quyết ly hôn, thường phát sinh tranh chấp về quyền sử dụng đất do cha mẹ bên vợ hoặc chồng đã giao cho vợ chồng chiếm hữu, sử dụng. Đây là những loại việc tương đối phổ biến. Trước đây về vấn đề này, Tòa án nhân dân tối cao có tổng kết và hướng dẫn tại Công văn số 16 ngày 01/02/1999 như sau: Trường hợp vợ, chồng sau khi kết hôn cất nhà ở trên đất của cha mẹ bên vợ (hoặc chồng) nhưng không có giấy tờ gì thể hiện là được cho tặng quyền sử dụng đất đó; khi ly hôn, cha mẹ bên vợ (hoặc chồng) nói là chỉ cho mượn đất nhưng nếu phần đất cất nhà ở riêng biệt với đất cha mẹ đang sinh sống hoặc trên cùng thửa đất nhưng đã có ranh giới, khuôn viên rõ ràng. Vợ chồng cất nhà sinh sống, ổn định, lâu dài, xây dựng các công trình trên đất cha mẹ biết nhưng không phản đối… thì Tòa xác định quyền sử dụng đất gắn liền nhà hoặc quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng và chia theo quy định nhưng có xét đến công sức đóng góp của mỗi bên... Đây là một hướng dẫn đúng đắn, hợp tình, hợp lý và bảo vệ được quyền lợi của người phụ nữ trong xu thế phát triển của xã hội cần được pháp điển hóa để áp dụng. Có được như vậy sẽ hạn chế những vụ án ly hôn, hạn chế tranh chấp và bảo vệ được quyền lợi của phụ nữ, trẻ em. Theo quan điểm của chúng tôi, quy định hướng dẫn trên của Tòa án nhân dân tối cao cần được quy định trong các Nghị quyết hướng dẫn xét xử của Tòa án nhân dân tối cao trong giai đoạn hiện nay làm cơ sở pháp lý cho công tác xét xử các tranh chấp loại này trong thực tiễn.
Trường hợp tài sản chung là nhà ở, vợ chồng có thể thỏa thuận với nhau về chia nhà ở để đảm bảo tốt nhất giá trị sử dụng của ngôi nhà cũng như điều kiện sinh hoạt chung của mỗi bên sau khi ly hôn. Nếu vợ chồng không thỏa thuận được việc chia nhà ở thì Tòa án cần xem xét giải quyết.
Pháp luật cũng quy định về chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn. Nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình không xác định được thì vợ hoặc chồng được chia một phần trong khối tài sản chung của gia đình căn cứ vào công sức đóng góp của vợ chồng vào việc tạo lập, duy trì phát triển khối tài sản chung cũng như vào đời sống chung của gia đình. Việc chia một phần trong khối tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận với gia đình; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết.. Nếu tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung của gia đình có thể xác định được theo phần thì khi ly hôn, phần tài sản của vợ chồng được trích ra từ khối tài sản chung đó để chia.
Đối với tài sản chung là quyền sử dụng đất thì việc chia quyền sử dụng đất phụ thuộc vào nhu cầu và khả năng sử dụng đất. Đối với đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản, nếu cả hai bên đều có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì được chia theo thỏa thuận của hai bên; nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định tại Điều 95 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong trường hợp chỉ một bên có nhu cầu và có điều kiện trực tiếp sử dụng đất thì bên đó được tiếp tục sử dụng nhưng phải thanh toán cho bên kia phần giá trị quyền sử dụng đất mà họ được hưởng. Trong trường hợp vợ chồng có quyền sử dụng đất nông nghiệp trồng cây hàng năm, nuôi trồng thủy sản chung với hộ gia đình thì khi ly hôn phần quyền sử dụng đất của vợ chồng được tách ra và chia theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 97 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000. Việc chia quyền sử dụng đất gắn liền với nhu cầu và điều kiện trực tiếp sử dụng đất của mỗi bên vợ chồng có ý nghĩa thiết thực, nhằm đảm bảo đời sống của vợ, chồng, đảm bảo cho vợ chồng có thể tiếp tục sản xuất trên đất để ổn định cuộc sống sau khi ly hôn, đồng thời không bỏ hoang hóa đất…
Trên đây là một số trao đổi liên quan đến vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của đồng nghiệp./.