Quảng Ngãi: 10 năm thực hiện Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở

01/10/2008
Hoà giải ở cơ sở là một truyền thống, một đạo lý tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Hoạt động hoà giải mang đậm tính nhân văn, hoạt động vì mọi người và trên cơ sở tình người. Mục đích chính của công tác hoà giải ở cơ sở nhằm giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương ái trong cộng đồng, tập thể, hàn gắn, vun đắp sự hoà thuận, hạnh phúc cho từng gia đình. Hoà giải mang lại niềm vui cho mọi người, mọi nhà, góp phần giữ gìn trật tự an toàn xã hội, nâng cao ý thức pháp luật của người dân.

Quảng Ngãi là tỉnh thuộc vùng duyên hải miền Trung có 13 huyện và 1 thành phố; trong đó có 7 huyện đồng bằng, 6 huyện miền núi và một huyện đảo với 180 xã, phường, thị trấn; dân số gần 1,3 triệu người, cả tỉnh có 17 dân tộc anh em cùng sinh sống (Kinh 88%, Hre 8%, Cor 2%, Xơ đăng 1,2%, các dân tộc khác 0,8%). Nhận thức rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác hoà giải cơ sở, 10 năm qua ở tỉnh Quảng Ngãi đã nhận được sự quan tâm sâu sắc của các cấp uỷ đảng và chính quyền địa phương cũng như các hội, đoàn thể và cả hệ thống chính trị. Vai trò của công tác hoà giải ở cơ sở thường xuyên được nhắc nhở, chỉ đạo trong hầu hết các văn bản của các cấp chính quyền, đoàn thể trong việc xây dựng và phát triển kinh tế -xã hội của từng địa phương, từng ngành. Trong kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật hằng năm đều chỉ đạo, hướng dẫn việc củng cố, kiện toàn tổ hoà giải nhằm ổn định tổ chức, từng bước đi vào chiều sâu và đạt hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn xã hội, làm cho cán bộ công chức các cấp, các ngành nâng cao nhận thức về ý nghĩa và vai trò của công tác hoà giải ở cơ sở.

 Trước khi có Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, công tác hoà giải ở cơ sở được thực hiện bởi các tổ an ninh xã hội, hoặc ban an ninh tự quản ở xã, phường, thị trấn và hầu như được tiến hành một cách tự phát, có sự tham gia của cán bộ các hội, đoàn thể, chính quyền địa phương hoặc những người lớn tuổi có uy tín cao trong các thôn, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cụm dân cư... . Theo thống kê, chỉ có gần 30% tổ hoà giải hoạt động thường xuyên khi có vụ việc xảy ra, số còn lại hoạt động cầm chừng hiệu quả không cao, các tổ hoà giải được thành lập tản mạn, không thống nhất, có nơi thành lập theo thôn, tổ, hoặc liên xóm, theo tập đoàn sản xuất, hoặc có nơi tổ hoà giải và tổ an ninh nhân dân là một. Nguyên nhân là một số nơi việc quản lý công tác hoà giải ở cơ sở được giao cho đồng chí phó chủ tịch UBND xã, kiêm trưởng công an xã hoặc kiêm trưởng ban tư pháp xã đảm nhận nên hoạt động hoà giải không thể hiện đúng bản chất, các vụ việc hoà giải thường bị hành chính hoá, mang tính phán quyết mệnh lệnh mà không phải trên nguyên tắc tự nguyện, ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động hoà giải ở cơ sở. Sau khi Pháp lệnh về tổ chức và hoà giải ở cơ sở được ban hành ngày 25/12/1998 (sau đây gọi chung là Pháp lệnh hoà giải) và Nghị định số 160/1999/ NĐ-CP hướng dẫn thi hành pháp lệnh, là cơ sở pháp lý cho hoạt động hoà giải ở cơ sở được phát huy hiệu quả hơn, cùng với sự quan tâm của các cấp uỷ, chính quyền trong việc chỉ đạo xây dựng, củng cố tổ hoà giải, hướng dẫn hoạt động nên hoà giải ngày càng đi vào nề nếp, từng bước khẳng định vai trò quan trọng của nó trong đời sống xã hội, tăng cường tình đoàn kết trong nhân dân, ổn định tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, xây dựng khu dân cư văn hoá.

Sau khi Pháp lệnh hoà giải được ban hành, nhìn chung đa số các tổ hoà giải được thành lập theo thôn, tổ dân phố. Mỗi thôn, tổ thành lập ít nhất 01 tổ hoà giải, mỗi tổ hoà giải bình quân có từ 3-6 tổ viên. Toàn tỉnh hiện có 1.072 thôn, đối với những khu vực có dân cư sinh sống khá đông thì tổ hoà giải được thành lập theo xóm hoặc liên xóm. Tuy nhiên, đối với những nơi vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người…, do không có điều kiện nên không thành lập tổ hoà giải mà việc hoà giải ở cơ sở được thực hiện do một hoặc nhiều người có uy tín cao trong cộng đồng. Hiện nay cả tỉnh có tổng cộng 1.842 tổ hoà giải với 7.350 hoà giải viên; trong đó có 1.384 tổ hoà giải được UBND xã, phường, thị trấn ra quyết định công nhận (đạt 75%), số tổ hoà giải còn lại đang hướng dẫn các thủ tục cần thiết để ra quyết định công nhận. 

Việc thành lập, công nhận và hoạt động của các tổ hoà giải về cơ bản được thực hiện theo đúng theo quy định của pháp luật. Đến nay cả tỉnh có hơn 75% tổ hoà giải có quyết định công nhận, số còn lại đang được hướng dẫn để ra quyết định công nhận. Tổ viên tổ hoà giải là những người có phẩm chất đạo đức, uy tín và nhiệt tình đối với công tác hoà giải được giới thiệu từ các tổ chức mặt trận, đoàn thể (tuỳ theo dân số và địa bàn dân cư mà thành phần tổ hoà giải gồm: mặt trận thôn, trưởng thôn, bí thư thôn, nông dân, phụ nữ, thanh niên, hội cựu chiến binh và các thành viên có uy tín cao trong cộng đồng), được bầu chọn công khai, dân chủ trong các khu dân cư, được chủ tịch UBND cấp xã ra quyết định công nhận thành viên tổ hoà giải. Tổ viên tổ hoà giải là những người sống tại địa bàn dân cư, họ nắm bắt được thực tiễn tại địa bàn, hiểu được tâm lý, truyền thống, dân cư ở địa phương nên phát hiện kịp thời những mâu thuẫn, tranh chấp và đưa ra giải pháp giải quyết phù hợp, củng cố tình đoàn kết trong toàn khu dân cư.

Kết quả hoạt động của tổ hoà giải:

          Cùng với sự phát triển của đất nước, kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Ngãi trong những năm qua cũng đã phát triển không ngừng, đời sống nhân dân ngày càng nâng lên. Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường cũng đã tác động ít nhiều đến đời sống nhân dân, tình hình trật tự xã hội ngày càng diễn biến phức tạp, tình trạng tranh chấp, mâu thuẫn, khiếu kiện trong nhân dân xảy ra khá phổ biến. Trước tình hình đó, công tác hoà giải ở cơ sở được phát huy tối đa cùng với sự nhiệt tình có trách nhiệm của hoà giải viên, sự quan tâm chỉ đạo của các cấp và đoàn thể ở cơ sở đã góp phần ổn định trật tự xã hội, xây dựng đời sống kinh tế văn hoá khu dân cư. Mười năm qua, trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, số vụ việc nhận hoà giải: 29.376 vụ; Số vụ việc hoà giải thành: 24.287 vụ; Số vụ việc hoà giải không thành: 2210 vụ; Số vụ việc hướng dẫn chuyển cơ quan chức năng giải quyết: 2740 vụ; Số vụ việc đang hoà giải: 285 vụ

          Quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở:

Sở Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở. Hàng năm theo Kế hoạch phổ biến giáo dục pháp luật, Sở tổ chức hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện công tác hoà giải; theo dõi việc thực hiện chế độ báo cáo, thống kê; tổ chức sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng trong công tác hoà giải ở cơ sở. Mười năm qua, Sở Tư pháp đã phối hợp với các tổ chức đoàn thể như phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, UBND các huyện …tổ chức nhiều lớp tập huấn pháp luật, nâng cao nghiệp vụ hoà giải cho cán bộ làm công tác hoà giải, trung bình mỗi năm tổ chức từ 01-02 lớp tập huấn; đặc biệt từ năm 2006 -2008, Sở đã tổ chức 08 lớp tập huấn nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật cho hơn 1.100 cán bộ cấp xã và hoà giải viên, nâng cao kỹ năng hoà giải; tổ chức 02 hội thi “hoà giải viên giỏi” tạo điều kiện để hoà giải viên có dịp gặp gỡ, giao lưu, trao đổi kinh nghiệm giữa những người làm công tác hoà giải; biên soạn, in và cấp phát hơn 20.000 cuốn sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ; gần 100.000 tờ rơi và các tài liệu khác để hướng dẫn, nâng cao nghiệp vụ công tác hoà giải ở cơ sở. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế tỉnh nhà còn nhiều khó khăn nên vấn đề về kinh phí và các điều kiện vật chất khác phục vụ công tác hoà giải chưa được giải quyết thoả đáng, ngân sách cấp xã chưa đủ để chi cho công tác hoà giải, hiện nay chỉ có một số ít xã, phường, thị trấn thuộc các huyện đồng bằng như Đức Phổ, Bình Sơn, Sơn Tịnh…mới phân bổ được nguồn kinh phí này nhưng rất ít, chỉ chủ yếu phục vụ cho việc chi sổ sách, văn phòng phẩm…(khoảng 50.000đ/vụ hoà giải thành/tổ hoà giải), còn việc chi trả thù lao cho hoà giải viên hầu như không có.

Sự phối hợp giữa cơ quan Tư pháp với Mặt trận tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong công tác hoà giải ở cơ sở.

Hoà giải ở cơ sở là trách nhiệm không chỉ riêng đối với một ngành, một cấp hay một cơ quan nào mà phải huy động được cả hệ thống chính trị cùng tham gia. Để làm được điều đó đòi hỏi các cơ quan hữu quan phải có sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ. Mười năm qua, các cơ quan Tư pháp địa phương đã có sự phối hợp với Mặt trận tổ quốc các cấp và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc phổ biến giáo dục pháp luật nói chung cũng như thực hiện công tác hòa giải ở cơ sở. Hội đồng phối hợp công tác phổ biến giáo dục cấp tỉnh và cấp huyện được thành lập và kiện toàn với đầy đủ các thành phần của các cơ quan hữu quan, và hoạt động trên cơ sở quy chế hoạt động do UBND tỉnh ban hành.

Ở cấp tỉnh: từ năm 2003, Sở Tư pháp đã ký kế hoạch phối hợp với Hội Nông dân tỉnh trong việc phổ biến giáo dục pháp luật và giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân (theo chỉ thị 26/2001/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ), mở 19 lớp tập huấn về các luật (Khiếu nại, tố cáo; Hôn nhân - gia đình; Đất đai 2003, một số quy định về Thừa kế trong bộ Luật Dân sự và kỹ năng hoà giải ở cơ sở) cho cán bộ ban chấp hành hội nông dân, trưởng thôn và thành viên các tổ hoà giải ở cơ sở của 10 xã. Tổ chức 10 đợt tập huấn phổ biến pháp luật cho 1.150 hoà giải viên. Tư pháp cấp xã đã tuyên truyền, tập huấn pháp luật  cho 10.000 lượt hoà giải viên và nông dân, cấp phát 10.000 tờ gấp pháp luật. Bên cạnh đó, Sở Tư pháp phối hợp với UBMTTQVN tỉnh và các cơ quan đơn vị khác như: Liên đoàn lao động, Hội Cựu chiến binh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Sở Văn hoá –Thông tin (nay là Sở Văn hoá – Thể thao – Du lịch), Sở Tài nguyên và môi trường, Thanh tra… mở hàng chục lớp tuyên truyền, tập huấn các văn bản có liên quan đến nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em; hôn nhân và gia đình; bình đẳng giới; nghiệp vụ phổ biến giáo dục pháp luật; nghiệp vụ báo cáo viên, tuyên truyền viên và tập huấn kỹ năng hoà giải ở cơ sở cho các cán bộ và hội viên.

Ở cấp huyện: Căn cứ ý kiến chỉ đạo của UBND huyện, thành phố, các phòng tư pháp đã xây dựng Kế hoạch phối hợp với UBMTTQVN và các đoàn thể trong công tác xây dựng và thực hiện hương ước cộng đồng dân cư, quy ước bảo vệ và phát triển rừng… của các thôn theo đúng trình tự thủ tục pháp luật quy định, bảo đảm phát huy tính dân chủ ở cơ sở.  Hoà giải viên vận dụng hương ước, quy ước và quy định của pháp luật để giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn, các vụ vi phạm trật tự an toàn xã hội ở cộng đồng dân cư, đồng thời tăng cường công tác vận động xây dựng gia đình văn hoá, khu dân cư tiên tiến, thôn văn hoá

Ở cấp xã: UBND các xã, phường, thị trấn đã phối hợp khá tốt với Mặt trận tổ quốc cùng cấp để chỉ đạo các bộ phận chuyên môn, trưởng thôn, ban công tác mặt trận thôn và các đoàn thể lựa chọn, giới thiệu người có uy tín tham gia thành viên tổ hoà giải để nhân dân bầu theo hình thức biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín. Trong hoạt động của các tổ hoà giải luôn có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể.

Một số khó khăn, tồn tại.

          Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác hoà giải ở cơ sở ở Quảng Ngãi vẫn tồn tại những khó khăn nhất định, đó là:

Thứ nhất, Đội ngũ hoà giải viên còn nhiều hạn chế về trình độ, kiến thức, ít được tập huấn, do vậy việc nắm bắt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước còn nhiều hạn chế, ngoài ra Đội ngũ này thường biến động, thay đổi công tác nên việc theo dõi, thống kê và quản lý gặp nhiều khó khăn trong khi một số địa phương chưa chỉ đạo, quản lý tốt công tác hoà giải, chưa thực hiện các thủ tục bầu, công nhận các tổ hoà giải và hoà giải viên theo đúng quy định, không thống kê được số lượng tổ hoà giải và hoà giải viên, làm ảnh hưởng đến hoạt động và chất lượng công tác này tại địa phương. Mặt khác, thành phần cán bộ làm công tác hoà giải thường được lồng ghép là thành phần cán bộ thôn, tổ dân phố, do vậy việc mệnh lệnh hoá công tác hoà giải là khá nhiều, nhiều vụ việc hoà giải mang tính hình thức, áp đặt không đúng bản chất của công tác hoà giải là dàn xếp, phân tích thuyết phục các bên;

Thứ hai, thực tế hiện nay việc khiếu nại, khiếu kiện tranh chấp về đất đai đều được tiến hành hoà giải ở cơ sở. Tuy nhiên đội ngũ hoà giải viên ở cơ sở còn rất yếu về hiểu biết pháp luật nhất là Luật đất đai, Luật khiếu nại tố cáo và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Nên việc hoà giải trong lĩnh vực này diễn ra rất sơ sài, làm chiếu lệ, làm lấy có, mà chưa thực sự đạt được mục đích của công tác hoà giải ở cơ sở.

Thứ ba, Ban tư pháp xã, phường, thị trấn có đủ thành phần, nhưng chỉ có từ 1-2 cán bộ chuyên trách phải đảm nhận quá nhiều công việc như: hộ tịch, tuyên truyền pháp luật, hoà giải, chứng thực, thi hành án dân sự… và các công việc khác do UBND xã phân công, khó có thể tập trung tham mưu chỉ đạo sâu sát công tác hoà giải ở cơ sở.

Thứ tư, về cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà nước với mặt trận và các tổ chức thành viên của mặt trận trong công tác hoà giải ở cơ sở: Sự phối hợp giữa chính quyền cơ sở với mặt trận và các tổ chức đoàn thể về công tác hoà giải một số nơi còn thiếu chặt chẽ, đồng bộ, chủ yếu vẫn giao cho trưởng thôn hoặc tổ trưởng khu dân cư trong việc lựa chọn, bầu hoà giải viên cũng như hoạt động cụ thể của hoà giải viên.

Thứ năm, về kinh phí cho hoạt động công tác hoà giải ở cơ sở và chế độ bồi dưỡng đối với hoà giải viên, tổ viên tổ hoà giải hầu như chưa có nên không khuyến khích động viên họ tham gia.

          Nguyên nhân của những tồn tại nói trên là do cấp uỷ, chính quyền địa phương một số nơi chưa thật sự quan tâm đến công tác hoà giải, nhiều nơi các cấp các ngành cho đây là công việc của cơ quan tư pháp, chưa huy động được cả hệ thống chính trị tham gia vào công tác hoà giải ở cơ sở. Thậm chí ở một số xã còn “khoán trắng” công tác hoà giải cho cán bộ tư pháp cấp xã. Trình độ năng lực của đội ngũ hoà giải viên còn hạn chế, một số thiếu nhiệt tình, né tránh, ngại va chạm nên hiệu quả công tác hoà giải chưa cao. Một số tổ hoà giải được thành lập nhưng không hoạt động hoặc có hoạt động nhưng cầm chừng, không có sổ theo dõi, thống kê, không lưu hồ sơ vụ việc. Và một nguyên nhân nữa là ngân sách cấp xã ở tỉnh Quảng Ngãi hầu hết thu không đủ chi, do vậy chưa bố trí được khoản kinh phí cho công tác hoà giải ở cơ sở.

Từ những tồn tại và nguyên nhân đó, bài học kinh nghiệm rút ra là ở nơi nào mà cấp uỷ, chính quyền địa phương có nhận thức đúng và quan tâm đúng mức đến công tác hoà giải ở cơ sở thì tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở nơi đó khá ổn định, tình trạng đơn thư khiếu nại, tố cáo vượt cấp giảm hẳn. Ngược lại nơi nào cấp uỷ, chính quyền địa phương thiếu quan tâm đến công tác hoà giải ở cơ sở, chỉ đạo không kịp thời giải quyết các tranh chấp, mâu thuẫn thì nơi đó kết quả hoà giải thành rất hạn chế, thậm chí phát sinh thêm những vấn đề phức tạp. Sự chỉ đạo, quản lý, hướng dẫn của UBND cấp xã đóng vai trò quyết định và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả của công tác hoà giải ở cơ sở, đồng thời sự phối hợp tốt giữa chính quyền địa phương với Uỷ ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các hội, đoàn thể ở cơ sở đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình triển khai thực hiện hoà giải ở cơ sở các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xây dựng khu dân cư văn hoá.

Ngoài ra, Hoà giải viên có trình độ, am hiểu pháp luật, có uy tín và nhiệt tình trong công tác là yếu tố quyết định đến hiệu quả của công tác hoà giải ở cơ sở. Vì vậy phải thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, trao đổi nghiệp vụ về phổ biến giáo dục pháp luật và kỹ năng hoà giải ở cơ sở cho đội ngũ tuyên truyền viên, hoà giải viên ở cơ sở. Cung cấp tài liệu, thông tin cần thiết hoặc những vụ việc đã được hoà giải thành công… để nâng cao chất lượng công tác hoà giải.

Công tác hoà giải ở cơ sở phải được kết hợp đồng bộ với việc thực hiện dân chủ ở cơ sở, với việc xây dựng khu dân cư văn hoá, với việc bảo vệ an ninh trật tự…thì mới có hiệu quả cao. Kết hợp thực hiện tốt chế độ báo cáo định kỳ công tác hoà giải, thường xuyên kiểm tra, đôn đốc nhằm kịp thời phát hiện, xử lý và giải quyết những khó khăn, vướng mắc, những vấn đề không phù hợp cần điều chỉnh, bổ sung trong quá trình thực hiện công tác hoà giải ở cơ sở, đồng thời kịp thời khen thưởng những cá nhân, tập thể có thành tích trong công tác hoà giải.

Phương hướng và đề xuất các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở

          Hiện nay, tỉnh Quảng Ngãi cùng với cả nước đang thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 đưa nước ta trở thành nước có nền công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp – thương mại - dịch vụ phát triển, quá trình thực hiện mục tiêu này sẽ nảy sinh nhiều vấn đề liên quan đến xây dựng khu công nghiệp, cụm công nghiệp, thu hồi, giải phóng mặt bằng, đất đai, tái định cư… Bên cạnh đó, mặt trái của nền kinh tế thị trường sẽ nảy sinh nhiều tiêu cực, nhiều tranh chấp, và sẽ có nhiều yếu tố tác động mạnh đến đời sống sinh hoạt của nhân dân, nhất là các tranh chấp, khiếu kiện, mâu thuẫn trong giải quyết thu hồi, đến bù giải toả. Vì vậy hoạt động hoà giải ở cơ sở vẫn sẽ là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, không thể thiếu trong hoạt động thực hiện nhiệm vụ của từng địa phương. Trong thời gian tới, để ngày càng phát huy hiệu quả của công tác hoà giải ở cơ sở, ở tỉnh Quảng Ngãi cần tiếp tục làm tốt một số nội dung trọng yếu sau đây:

Trước hết, cấp uỷ, chính quyền các cấp phải thật sự coi trọng công tác hoà giải ở cơ sở, coi đây là nhiệm vụ chính trị của địa phương mình. Thường xuyên kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở việc củng cố, kiện toàn các tổ hoà giải và hoà giải viên đủ năng lực, có uy tín, am hiểu pháp luật để đáp ứng nhu cầu công tác hoà giải ở cơ sở.

Thứ hai, các cơ quan tư pháp ở địa phương là cơ quan đầu mối giúp UBND cùng cấp quản lý công tác hoà giải ở cơ sở, do vậy cần nắm chắc số lượng, chất lượng hoà giải viên ở địa phương để có kế hoạch xây dựng, củng cố phát triển đội ngũ hoà giải viên ở cơ sở. Đồng thời tăng cường tổ chức bồi dưỡng, tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho hoà giải viên, biên soạn, in và cấp phát tài liệu phục vụ công tác hoà giải ở cơ sở. 

Thứ ba, tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành trong công tác hoà giải ở cơ sở, nhất là sự phối hợp giữa Uỷ ban mặt trận tổ quốc cùng các thành viên Mặt trận với cơ quan Tư pháp các cấp trong việc lựa chọn, giới thiệu, bầu, công nhận hoà giải viên và tổ hoà giải cũng như trong việc xác định tiêu chuẩn, công nhận thôn, xóm, làng văn hoá.

Thứ tư, các cơ chức năng thuộc UBND tỉnh cần nghiên cứu các chế độ chính sách của nhà nước để vận dụng vào tình hình thực tế của địa phương, trình UBND tỉnh ban hành chính sách và giải quyết chế độ cho công tác hoà giải ở cơ sở trong đó có chế độ bồi dưỡng đối với hoà giải viên, nhằm động viên đối tượng này làm tốt công tác hoà giải ở cơ sở.

Đề xuất các giải pháp cụ thể trước mắt để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở

Thứ nhất, Cần sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, quy định cụ thể hơn trách nhiệm của các cấp, các ngành cũng như chế độ, kinh phí, việc tập huấn, bồi dưỡng, nội dung công tác hoà giải, biên bản, sổ sách…để đảm bảo cho công tác hoà giải phát huy hiệu quả hơn nữa.

Thứ hai, Có sự đổi mới trong công tác tổ chức và triển khai thực hiện công tác hoà giải như tổ chức khảo sát, kiểm tra thực tế số liệu về số lượng, chất lượng hoà giải viên và hiệu quả hoạt động của các tổ hoà giải… hoặc tham gia trực tiếp các vụ hoà giải để có những đúc kết kinh nghiệm thực tiễn và đề ra những chính sách, phương pháp phù hợp cho công tác này.

Thứ ba, Các bộ, ngành trung ương cần phải có sự hỗ trợ nhất định cho công tác hoà giải ở cơ sở ở địa phương: Hỗ trợ về mặt trao đổi nghiệp vụ, về tài liệu tuyên truyền và hỗ trợ kinh phí cho các đợt tập huấn nghiệp vụ cho đội ngũ hoà giải viên;

Thứ tư, Cần phải có một văn bản riêng hướng dẫn về việc sử dụng kinh phí cho công tác hoà giải ở cơ sở (hiện nay còn đang thực hiện theo Thông tư 63/2005/TT-BTC ngày 05/8/2005 của Bộ Tài chính nhưng văn bản này có nhiều hạn chế, còn rất chung chung, khó áp dụng).

Thứ năm, Giữa Bộ Tư pháp và Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có một văn bản phối hợp chỉ đạo xuống địa phương để địa phương có cơ sở thực hiện.          

Thanh Ngọc