I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Dân trí đưa tin: Ngày 21-7-2011, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã khai mạc trọng thể kỳ họp thứ nhất tại Thủ đô Hà Nội.
16h chiều 21/7, Tổng bí thư, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng đã đọc tờ trình dự kiến số lượng ủy viên Thường vụ Quốc hội là 18 vị. Số lượng Phó chủ tịch Quốc hội là 4 vị, tương đương khóa 12.
Theo tờ trình, 4 Phó chủ tịch Quốc hội khóa 13 sẽ phụ trách các lĩnh vực: văn hóa - xã hội, kinh tế - tài chính, pháp luật - tư pháp và an ninh - quốc phòng. Ngoài Chủ tịch Quốc hội, 13 ủy viên thường vụ còn lại sẽ là chủ nhiệm các ủy ban, Hội đồng... Quốc hội khóa 12 có 4 phó chủ tịch là các ông Nguyễn Đức Kiên, Uông Chu Lưu, Huỳnh Ngọc Sơn và bà Tòng Thị Phóng. Ngoại trừ ông Nguyễn Đức Kiên không tham gia khóa mới, 3 phó chủ tịch còn lại tiếp tục trúng cử đại biểu Quốc hội.
Số ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 12 là 18, trong đó 8 người trúng cử đại biểu Quốc hội khóa 13. Ngoài Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng và 3 phó chủ tịch nêu trên, còn có các ông bà: Phùng Quốc Hiển, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính Ngân sách; Trương Thị Mai, Chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội; Ksor Phước, Chủ tịch Hội đồng dân tộc và ông Đào Trọng Thi, Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng.
2. Báo Dân Việt đưa tin: Ngày 21.7, tại Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN - Trung Quốc diễn ra ở Bali (Indonesia), các Ngoại trưởng ASEAN và Trung Quốc đã nhất trí và chính thức thông qua Quy tắc hướng dẫn thực thi Tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông (DOC).
3. Trang VEF.VN có bài Việt Nam có ngành ôtô ‘xịn’: Ý tưởng lãng mạn? Bài báo phản ánh: Sau sự thất bại của quy hoạch ôtô 10 năm qua, kế hoạch xây Trung tâm cơ khí ôtô quốc gia tại Chu Lai với nhiều ưu đãi khiến độc giả sôi nổi tranh luận. Không dừng lại ở sự hoài nghi, nhiều ý kiến đặt vấn đề, liệu có nên phát triển ngành công nghiệp ôtô chính hiệu Việt Nam?
Sau bài viết "Siêu ưu đãi xây trung tâm ôtô quốc gia, lợi ai?" và "bàn tròn" ý kiến các doanh nghiệp Hyundai Thành Công, Trường Hải và Bộ Công Thương về chuyện có nên xây trung tâm này hay không, nổi lên sự thất vọng và hoài nghi trong lòng độc giả khi một lần nữa, các nhà làm chính sách, các ông chủ dự án chú trọng chỉ chăm chăm nhìn vào sự ưu đãi, thay vì các cam kết thực thi.
Xét cho cùng, ách tắc chính trong phát triển ngành ôtô ở Việt Nam chính là sự mẫu thuẫn về tư duy và quan điểm của Nhà nước về sản phẩm ôtô. Lẽ thường, muốn phát triển mạnh một ngành hàng hóa nào đó thì phải kích thích nhu cầu thị trường, kích cầu đầu tư. Nhưng ở ngành ôtô Việt Nam, ta lại chỉ muốn phát triển phần sản xuất nhưng lại không muốn phình to phần nhu cầu.
Độc giả Mylinh05 cho rằng, việc đầu tiên của Bộ Công Thương và Chính phủ là cần xem lại mục tiêu phát triển ngành này. Nếu hướng tới nội địa thì mâu thuẫn với chính sách hạn chế sử dụng ôtô cá nhân. Đó là lý do khiến thị trường ôtô nước ta cực kỳ nhỏ bé, không đủ là tiền đề để phát triển công nghiệp ôtô. Ngay cả công nghiệp lắp ráp cũng cực kỳ sơ khai, nội địa hóa được vài phần trăm. Nếu hướng cho mục tiêu xuất khẩu, lại càng nan giải hơn, vì không có trung tâm nghiên cứu phát triển ôtô nào của các thương hiệu lớn đặt tại Việt Nam. Vấn đề cơ bản của sản xuất ôtô hay các mặt hàng cao cấp khác đó là thương hiệu. Tất cả các thương hiệu lớn trên thế giới với các sản phẩm của mình luôn có một chuỗi các nhà cung ứng riêng. Liệu Việt Nam có tham gia được vào không?
Khá nhiều bạn đọc tưởng tượng, liệu 10-20 năm nữa, khi Việt Nam có thể sản xuất được xe du lịch chính hiệu thì thế giới bấy giờ đã đi phương tiện gì?
Độc giả Trần Lan Hương, Hà Nội hoài nghi, có cần một ngành công nghiệp ô tô "chính hiệu Việt Nam" không ? Vì đơn giản, thế kỷ 21 có phải của các ngành "cơ khí" không? Tại sao Việt Nam không nghĩ đến phát triển phần "mềm", tức phần "điều khiển" (instrumentation) trong công nghiệp ôtô? Tương tự, cho các ngành khác, kể cả nông nghiệp?
Vì "tiền lệ" không sáng sủa gì ở ngành ôtô nên hiện nay, xu hướng nhiều ý kiến đều "dị ứng" với hai chữ "ưu đãi" cho ngành này.
Việc Nhà nước nên làm là có chính sách ưu đãi về thuế cho các sản phẩm cần khuyến khích, hỗ trợ quảng bá xúc tiến thương mại, đơn giản hóa thủ tục hành chính, làm trọng tài đảm bảo tính cạnh tranh minh bạch giữa các DN, đảm bảo quyền sở hữu tài sản cũng như trí tuệ và bảo vệ môi trường. Còn các việc đầu tư ở đâu, quy mô ra sao, đầu tư như thế nào để các doanh nghiệp tự lo, DN tự chịu trách nhiệm về hiệu quả cuối cùng.
Ngoài ra, nếu phải có sự ưu đãi để làm động lực khuyến khích đầu tư phát triển thì Nhà nước phải giám sát được hiệu quả của những ưu đãi đó.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam đưa tin: Ngày 21/7, Đảng ủy Bộ Tư pháp tổ chức Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng cho toàn thể đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức Bộ Tư pháp.
Tại hội nghị này, các báo cáo viên sẽ truyền đạt nội dung Nghị quyết Đại hội Đảng XI qua 4 chuyên đề: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); những vấn đề về phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị và những vấn đề về hoàn thiện thể chế, bộ máy Nhà nước trong Văn kiện Đại hội XI.
Nhân Hội nghị học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội Đảng, phóng viên Báo Pháp luật Việt Nam đã có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Đinh Trung Tụng, Bí thư Đảng ủy Bộ Tư pháp về những giải pháp cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng vào quá trình thực hiện nhiệm vụ của Bộ, của ngành Tư pháp trong thời gian tới.
2. Báo Nhà báo & Công luận có bài Tạo chứng cứ giả… lấy quyết định thật. Bài báo phản ánh: Khu đất đang tranh chấp hiện ở thôn Ngọc Trì, xã Bình Định, Huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh, đang được gia đình anh Vũ Đình Sỹ làm nhà, đóng thuế và kê khai đất từ năm 1988. Theo Công văn của phòng TN&MT, phòng Tư pháp huyện Lương Tài, mảnh đất nhỏ nằm trong khu đất trên được cụ Vũ Thị Dụt (bà nội bà Vũ Thị Thấn) thừa hưởng từ tổ tiên. Đến năm 1954, do hai người con của cụ Dụt đều mất (bố mẹ bà Thấn), bà Vũ Thị Thấn còn nhỏ (6 tháng tuổi) nên được gia đình bên ngoại đón về nuôi, lúc đó cụ Dụt đã bị mù hai mắt, sống dựa vào chính sách xã hội và họ hàng chăm sóc. Nhưng thực tế cụ Dụt được ông Vũ Đình Uồn (bố anh Sỹ) đón về nuôi và chăm sóc cho đến khi mất vào năm 1977. Trong thời gian đó, bà Thấn đã hơn 20 tuổi, không thể lấy lý do quá bé nên… không thể báo hiếu được, ngay cả khi cụ Dụt mất, việc ma chay và kinh tế đều do gia đình anh Sỹ đứng ra lo liệu. Sau khi ông Uồn mất thì toàn bộ khu đất được anh Vũ Đình Sỹ trực tiếp quản lý và sử dụng từ năm 1983 cho đến nay.
Năm 2004, lấy cớ muốn thờ tổ tiên, bà Thấn “xin” lại một mảnh đất…gần 150m2 nhưng không được chấp thuận nên ngày 10/3/2005 bà Thấn đã khởi kiện để đòi lại thửa đất với lý do gia đình anh Sỹ đang ở nhờ đất của gia đình bà.
Theo PV điều tra được biết, hiện tại gia đình anh Sỹ không có bất kỳ một thỏa thuận nào như mua bán, cho mượn, cho thuê hay ở nhờ đối với bà Thấn trên khu đất đang tranh chấp. Tuy bà Thấn luôn cho rằng, khu đất 433 m2 là thuộc quyền của gia đình bà, nhưng ngay cả diện tích khu đất là bao nhiêu, sơ đồ địa chính thế nào bà Thấn cũng không biết và cũng chưa chứng minh được quyền hưởng thừa kế khu đất của mình. Trong nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Nghị quyết 02 ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán TANDTC thì quyền thừa kế mở trước ngày 01/7/1991 là 10 năm. Dựa vào đó, bà Thấn có thể chứng minh được ông bà có để lại di sản cho bà thừa kế thì được quyền khởi kiện xin chia thừa kế di sản trước ngày 01/07/2001. Tuy nhiên đến ngày 10/3/2005, vì muốn chiếm lại khu đất, bà Thấn mới khởi kiện, nghĩa là đã hết thời hiệu khiếu kiện xin chia thừa kế di sản.
Ngày 17/01/2006, phòng Tài nguyên Môi trường, phòng Tư pháp huyện Lương Tài đã có Công văn liên ngành số 01 CV/LN-TN-MT-TP (Công văn 01) trả lời đề nghị của bà Vũ Thị Thấn về việc tranh chấp đất đai. Trong Công văn 01 đã xác nhận khu đất hiện gia đình anh Sỹ đang sử dụng có nguồn gốc là đất của ông, bà nội của bà Thấn. Nhưng thực tế thì cụ Dụt chỉ có một mảnh đất nhỏ, và khi mất năm 1977 cũng không hề để lại di chúc bằng văn bản. Phòng TN&MT, phòng Tư pháp huyện Lương Tài không những xác nhận sai, thiếu minh bạch về khu đất đang tranh chấp mà còn tự ý xác nhận bà Vũ Thị Thấn là người thừa kế duy nhất, buộc anh Sỹ phải trả lại đất cho bà Thấn. Theo Công văn 01, anh Sỹ hiện không có bất cứ giấy tờ gì chứng minh được nguồn gốc khu đất và cho rằng anh đang chiếm hữu ngay tình, công khai và tự kê khai trong hồ sơ đất do UBND xã Bình Định lập năm 2002.
Công văn 01 dựa theo một “Văn bản thỏa thuận” mà bà Thấn cung cấp để coi là bằng chứng để đòi lại khu đất của gia đình anh Sỹ. Theo anh Vũ Đình Sỹ, ngày 18/2/2005 tại trụ sở UBND xã Bình Định, bà Thấn đã khẳng định khu đất trên chỉ có thỏa thuận miệng về việc trông nom, nay không biết bằng cách nào lại biên từ thỏa thuận miệng thành văn bản? Thêm một chi tiết nữa, bố anh Sỹ là ông Uồn không hề biết chữ, vậy thì làm sao có thể đọc và ký vào “Văn bản thỏa thuận” được. Do đó có thể khẳng định, toàn bộ các văn bản, lời khai bà Thấn cung cấp là hoàn toàn giả mạo, phòng TN&MT, phòng Tư pháp huyện Lương Tài đã không xem xét kỹ tính chính xác, trung thực và giá trị pháp lý của văn bản đã “vội vàng” đi đến kết luận giữa ông Uồn và bà Thấn có làm văn bản cho mượn đất, thuê đất vào ngày 02/2/1977, đồng thời yêu cầu anh Sỹ phải hoàn trả đất cho bà Thấn. Dựa vào đó, UBND huyện Lương Tài cũng không kiểm tra, xem xét từ thực tế đã ra quyết định 1087/QĐ-UBND, ngày 29/9/2009 và quyết định bổ sung 63/QĐ-UBND, ngày 12/01/2011, yêu cầu gia đình anh Sỹ phải giao lại khu đất 133 m2 cho bà Thấn.
Hiện gia đình anh Sỹ đang rất bất bình vì các quyết định thiếu minh bạch, đề nghị các cơ quan chức năng sớm làm rõ, Công văn 01 liên ngành của Phòng Tư pháp, Phòng Tài nguyên và Môi trường có dựa vào những chứng cứ “ma” để thực hiện hay không? Xem xét trách nhiệm pháp lý của bà Vũ Thị Thấn trong việc cung cấp chứng cứ giả mạo cho cơ quan Nhà nước. Dư luận rất mong vụ việc sớm được giải quyết và mong muốn các cơ quan chức năng cần có một quyết định đúng đắn, minh bạch để đảm bảo tính công bằng của pháp luật.
3. Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh có bài 17 năm khổ sở vì một quyết định thi hành án “kỳ lạ”. Bài báo phản ánh: Theo đơn khiếu nại của ông Vĩnh Khánh (ngụ 252/1C Hưng Phú, quận 8, TPHCM), cha mẹ ông là ông Bửu Túc và bà Lê Thị Ra sở hữu chung căn nhà số 53 Sinh Trung, phường Vạn Thành, TP. Nha Trang, tháng 3-1991, cha mẹ ông có lập chung di chúc cho ông Khánh được thừa hưởng di sản thừa kế căn nhà trên sau khi họ qua đời.
Đến năm 1992, giữa cha và mẹ ông Khánh xảy ra tranh chấp tài sản (căn nhà số 53 Sinh Trung, TP. Nha Trang). Trước đó, ông Bửu Túc đã đồng ý bán một nửa căn nhà nói trên và nhận cọc (năm lượng vàng) của ông Thái Văn Tào. Bà Ra cũng bán nửa căn nhà này cho ông Tào và nhận cọc 2,2 lượng vàng nên sự việc được đưa ra TAND tỉnh Khánh Hòa giải quyết. Qua hai phiên xét xử, tòa đã tuyên bản án phúc thẩm số 08/PT-HNGĐ với nội dung: chấp nhận yêu cầu bà Lê Thị Ra về việc phân chia tài sản, bà Ra được sở hữu một nửa căn nhà số 53 Sinh Trung. Đồng thời tuyên hủy hợp đồng đặt cọc mua bán nhà giữa ông Túc và ông Tào, buộc ông Túc phải trả lại cho ông Tào 7,5 lượng vàng (trong đó 2,5 lượng là bồi thường hợp đồng). Mặt khác, tòa vẫn công nhận sự thỏa thuận giữa bà Ra và ông Tào trong việc bán một nửa còn lại của căn nhà như đã nói trên với giá 2,2 lượng vàng. Ông Tào có nghĩa vụ phải giao tiếp cho bà Ra 13,8 lượng vàng (vàng y 96%) còn lại.
Sự việc tưởng chừng được giải quyết êm xuôi. Năm 1993, ông Bửu Túc và bà Ra lần lượt qua đời. Tiếp đó, ngày 17-9 cùng năm, Cơ quan thi hành án dân sự TP. Nha Trang (THANT) ra quyết định số 31/THA buộc ông Bửu Túc (lúc này đã chết) và bà Tô Thị Hoa giao nửa căn nhà mà tòa đã phân xử cho bà Lê Thị Ra... Nhận thấy mình đang thi hành án trực tiếp với... người chết, nên sau đó THANT lại ra tiếp quyết định bổ sung số 02/THA (ngày 21-10-1994) với nội dung: “Buộc bà Tô Thị Hoa (là con dâu ông Túc) phải giao nửa căn nhà như đã nói trên cho bà Ra”. Ông Khánh bức xúc: “Không rõ THANT dựa vào đâu mà lại ra quyết định buộc bà Hoa phải thi hành án theo quyết định của họ trong khi bà Hoa không có nghĩa vụ và quyền lợi trong vụ việc này?”. Tuy nhiên với quyết định “lạ đời” như thế, THANT vẫn tiến hành cưỡng chế nửa căn nhà này giao cho ông Tào, trong khi đó số vàng bán nhà ông Tào đang nợ bà Ra (đã chết) cũng chưa được thi hành án. Mà cụ thể là ông Vĩnh Khánh (người được thừa kế) sẽ chịu trách nhiệm thực hiện quyền lợi này.
Bức xúc trước việc làm “kỳ lạ” của cơ quan thi hành án, từ năm 1994 ông Khánh đã nhiều lần gửi các đơn thư khiếu nại về vấn đề này, nhưng ngoài việc thừa nhận “những sơ suất nhỏ”, cơ quan thi hành án vẫn bảo lưu ý kiến của mình. Đồng thời cơ quan này gửi công văn cho Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất, ngăn chặn việc cấp sổ hồng đối với nửa căn nhà thuộc quyền thừa kế của ông Khánh. Nếu ông không thanh toán cho ông Tào 7,5 lượng vàng thì sẽ tiến hành kê biên nhà đất số 53 Sinh Trung. Theo ông Khánh: “Cơ quan thi hành án đã không trả lời thỏa đáng những khiếu nại của tôi lại còn ngăn chặn việc cấp sổ hồng là hết sức vô lý. Một mặt họ công nhận quyền thừa kế, mà cụ thể là nghĩa vụ của tôi trong việc thi hành án 7,5 lượng vàng, mặt khác lại bỏ mất quyền lợi của tôi trong việc thanh toán 13,8 lượng vàng của mẹ tôi. Họ lại còn trả lời rất vô trách nhiệm rằng mẹ tôi đã không yêu cầu thi hành án”. Tuy nhiên trên thực tế, vào tháng 10-1993 bà Ra đã có đơn yêu cầu thi hành án, thể hiện ở hai tờ đơn gửi TAND tỉnh Khánh Hòa và THANT. Nhưng không hiểu vì sao đến năm 2007, THANT lại trả lời ông Khánh “... Bà Ra không yêu cầu ông Tào phải thanh toán 13,8 lượng vàng, do vậy cơ quan thi hành án không thi hành nội dung này...”.
Chưa dừng lại ở đó, càng tìm hiểu ông Khánh càng vỡ lẽ, số vàng 13,8 lượng nói trên thực chất đã được thi hành án từ năm 1994. Mà cụ thể vợ chồng ông Vĩnh Văn (con nuôi của ông Túc và bà Ra) đã đứng ra nhận số vàng còn lại từ ông Tào. Điều đáng nói vợ chồng ông Vĩnh Văn không hề chứng minh quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong việc thi hành án nói trên. Cho nên, chỉ hai ngày sau khi nhận vàng, một nửa căn nhà đã bị cưỡng chế. Như vậy sau hơn 17 năm theo tìm công lý, ông Khánh mới vỡ lẽ cơ quan thi hành án đã thi hành “nhầm” đương sự. Ông buộc phải thanh toán 7,5 lượng vàng mà người cha còn thiếu nợ người khác nhưng không được nhận 13,8 lượng vàng do mẹ để lại. Quan trọng hơn, nửa căn nhà còn lại có nguy cơ bị kê biên vì kiểu thi hành án “lạ lùng” này. Trong khi đó, bà Tô Thị Hoa và ông Vĩnh Văn lại “thay mặt” đứng ra thi hành án, không hiểu cơ quan thi hành án dựa vào đâu để thực hiện việc này?” - ông Khánh nhấn mạnh.
4. Báo Dân trí có bài Những “bí mật” vụ cưỡng chế ngôi nhà 194 phố Huế “lộ sáng”. Bài báo phản ánh: Sau loạt bài thông tin về vụ cưỡng chế ngôi nhà số 194 phố Huế, bạn đọc đã thấy nhiều điều “bất bình thường” từ vụ việc này. Vậy, Cơ quan Thi hành án quận Hai Bà Trưng đã báo cáo cấp trên những gì?
Ngày 09/09/2009, Cơ quan Thi hành án (THA) quận Hai Bà Trưng đã có công văn số 83/CV-THA gửi các cơ quan chức năng báo cáo quá trình giải quyết thi hành án cho tới khi nhận được Quyết định kháng nghị số 29/QĐ – KNGĐT – V12 của VKSNDTC (do ông Trịnh Ngọc Chung – Chi cục trưởng ký), trong đó nêu rõ: “Cơ quan THADS quận Hai Bà Trưng xác định ông Hoàng Đình Mậu và Công ty TNHH Bắc Sơn có hai tài sản có giá trị nhất là nhà đất tại 194 phố Huế phường Ngô Thì Nhậm, Hà Nội và nhà xưởng lắp ráp xe máy tại xã Nam Hồng, Đông Anh, Hà Nội.
Về nhà xưởng lắp ráp xe máy tại xã Nam Hồng, Đông Anh, Hà Nội sau khi tiến hành xác minh chúng tôi thấy như sau:
Trong quá trình giải quyết việc thi hành án THDS quận Hai Bà Trưng nhận thấy công ty TNHH Bắc Sơn đã tẩu tán toàn bộ dây chuyền sản xuất (đã thế chấp ngân hàng), hiện tại khu đất trên chỉ còn khung nhà và đất. Sau khi xem xét thấy số đất của UBND thành phố cho thuê 25 năm, đất mua thêm giao 20 năm mà thời gian còn lại ít. Giá trị nhà và quyền sử dụng đất không cao. Bởi vậy việc kê biên phần diện tích và tài sản tại xã Nam Hồng, Đông Anh không đủ để đảm bảo thi hành các bản đã nêu trên.
Về nhà 194 phố Huế, Ngô Thì Nhậm, Hà Nội: Thực tế phần diện tích đất tại nhà 194 phố Huế hiện nay là phần diện tích của cả ba số nhà 192, 194 và 196 phố Huế có tổng diện tích mặt bằng là 172 m2.
Cơ quan THADS quận hai Bà trưng đã tiến hành giải quyết hồ sơ thi hành án theo đúng thủ tục quy định của pháp luật. Đến ngày 24/4/2009 anh Hoàng Ngọc Minh và bà Nguyễn Thị Hồng đại diện cho những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã tự nguyện giao phần diện tích còn lại ngoài thông báo phong tỏa của THADS thành phố Hà Nội để cơ quan THADS quận Hai Bà Trưng xử lí theo pháp luật.
Ngày 28/4/2009, Cơ quan THADS Hai Bà Trưng đã tiến hành cho hai bên đương sự thỏa thuận giá và đi đến thống nhất 139,86m2 x 250.000.000đ/m2 = 34.920.000.000 đồng và hai bên cùng thống nhất lùi thời gian 01 tháng để bên phải thi hành án tự bán để giảm chi phí. Ngày 24/8/2009, tại trụ sở Công ty cổ phần bán đấu giá Hà Nội đã tổ chức bán đấu giá thành công cho ông Đặng Văn Thoán, ở 59 phố Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội với giá là 31.528.000.000 đồng. Ngày 8/8/2009, THADS quận Hai Bà Trưng đã nhận được ủy nhiệm chi đề ngày 7/7/2009 của Công ty cổ phần bán đấu giá Hà Nội chuyển toàn bộ số tiền đã bán đấu giá về tài khoản của THADS quận Hai Bà Trưng. Ngày 9/9/2009, Cơ quan THADS thành phố Hà Nội đã chuyển cho cơ quan THADS quận Hai Bà Trưng quyết định kháng nghị số 29/QĐ-KNGĐT-V12 ngày 4/9/2009 đối với quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 143/QĐST-KDTM ngày 20/12/2007 của TAND thành phố Hà Nội do bà Phó Viện trưởng VKSND Tối cao Nguyễn Thị Thủy Khiêm ký.
Cơ quan THADS quận Hai Bà Trưng đã chấp hành quyết định trên, tạm đình chỉ việc thi hành án. Nhưng do tính chất vụ việc liên quan đến quyền lợi của người mua được tài sản, người được thi hành án để tráng gây bức xúc dẫn đến khiếu kiện về sau. Cơ quan THADS quận Hai Bà trưng kính mong các cấp lãnh đạo có thẩm quyền quan tâm xem xét cho ý kiến chỉ đạo để thực hiện…”
Tưởng những luận giải chi tiết, kín kẽ và đầy tính thuyết phục của ông Trịnh Ngọc Chung, Trưởng Thi hành án quận Hai Bà Trưng trên đây đã làm “hài lòng” dư luận và các Cơ quan có thẩm quyền, nhưng một thời gian sau đó, khi biết được có sự “hiện diện” của công văn số 83 nói trên, ông Hoàng Ngọc Minh cũng đã “phản pháo” bằng “Đơn khiếu nại” ngày 16/09/2009 và “Đơn tố giác tội phạm” ngày 30/06/2011 gửi VKSNDTC, TANDTC, Tòa Kinh tế - TANDTC, Cục Thi hành án dân sự Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp… Trong đó phản bác hầu hết các vấn đề ông Chung đã đề cập. Để bạn đọc hiểu rõ hơn về sự việc, Dân trí xin đăng tải một số nội dung của lá đơn này:
“Ông Chung cố ý giải trình sai sự thật: Biết được VKSNDTC đang xác minh để kháng nghị quyết định hòa giải thành nên ông Chung câu kết với Ngân hàng và cơ quan bán đấu giá bất chấp quy định mọi cách bán căn nhà. Ngoài ra, ông Chung cố tình giải trình tại công văn số 83 với nội dung sai sự thật một cách có chủ ý:
Báo cáo viết: “Trong quá trình giải quyết THA nhận thấy Công ty Bắc Sơn đã tẩu tán toàn bộ dây chuyền sản xuất đã thế chấp. Hiện khu đất chỉ còn lại khung nhà và đất…”. Thực tế, dây chuyền này vẫn còn nguyên, cán bộ Cơ quan THA quận Hai Bà Trưng chưa từng đặt chân vào nhà máy của Công ty Bắc Sơn, tại sao ông Trịnh Ngọc Chung báo cáo như vậy?
Báo cáo viết: “Cơ quan THA tiến hành giải quyết đúng quy định. Đến ngày 24/4/2009, anh Minh và bà Hồng đại diện cho những người có quyền lợi liên quan đã tự nguyện bàn giao phần diện tích còn lại …”.
Thự tế, từ ngày 21/4 đến ngày 29/4/2009 anh Minh đang ở nước ngoài, không có mặt ở Việt Nam thì làm sao có thể ký quyết định tự nguyện bàn giao tài sản?
Báo cáo viết: “Thực tế nhà phần diện tích tại 194 Phố Huế hiện nay là phần diện tích của 3 số nhà 192, 194, 196 Phố Huế có tổng diện tích 172 m2…”.
Thực tế cũng như hồ sơ pháp lý thì nhà 192 và 196 không liên quan đến nhà 194 Phố Huế. Nhà 192 của gia đình ông Nguyễn Văn Tảo, hiện gia đình ông Tảo vẫn sinh sống tại đây. Nhà 196 do gia đình ông Minh thuê của Công ty quản lý nhà số II để kinh doanh.
Báo cáo viết: “Ngày 28/4/2009 Cơ quan THADS Hai Bà trưng đã cho hai bên thỏa thuận giá và thống nhất 139,86 m2 x 250 triệu đ/m2 = 34,92 tỷ đồng và hai bên thống nhất lùi thời gian 01 tháng để bên phải thi hành án tự bán tài sản nhằm giảm chi phí”.
Ông Minh chỉ đề nghị bán nhà máy sản xuất xe máy tại Đông Anh, ông Minh không bao giờ có ý định bán nhà Phố Huế. Vì vậy, nội dung trên chỉ do chấp hành viên tự trình bày để hồ sơ phù hợp pháp luật. Văn bản vẫn còn lưu vậy ông Minh đề nghị cho giám định chữ ký để làm rõ sự thật mà ông Chung đã giải trình một cách sai sự thật tại công văn số 83/CV-THA.
Ngoài ra, báo cáo viết: “Ngày 8/8/2009 THADS quận Hai Bà Trưng đã nhận được ủy nhiệm chi đề ngày 7/7/2009 của Công ty Cổ phần bán đấu giá Hà Nội chuyển toàn bộ số tiền đã bán đấu giá về tài khoản của THA quận Hai Bà Trưng”.
Thực tế, lại thêm một sự bịa đặt rất rõ ràng của người thực thi pháp luật. Bởi ngày 7/7/2009, ông Chung ký quyết định giảm giá tài sản số 01/QD-THA. Điều này có nghĩa trong ngày 7/7/2009 chưa thể bán được tài sản, lại càng không thể kịp để nộp toàn bộ tiền mua tài sản để chuyển vào tài khoản của cơ quan THADS quận Hai Bà Trưng? Theo hợp đồng bán đấu giá thì đến ngày 24/8/2009, tại trụ sở Công ty Cổ phần bán đấu giá Hà Nội việc bán cho ông Thoán thành công…