I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo điện tử Chính phủ có bài Ban Bí thư thành lập Bộ phận giúp đẩy mạnh học và làm theo Bác. Bài báo đưa tin: Ban Bí thư Trung ương Đảng vừa ban hành Quyết định số 21 QĐ/TW thành lập Bộ phận giúp việc về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Quyết định trên vừa được công bố tại cuộc họp sáng 20/7 do Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức nhằm triển khai Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Theo quyết định, Bộ phận giúp việc gồm 35 thành viên là đại diện lãnh đạo các bộ, ban, ngành, đoàn thể Trung ương và Bộ phận chuyên trách đặt tại Ban Tuyên giáo Trung ương.
Bộ phận giúp việc làm việc dưới sự chỉ đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng, thường xuyên và trực tiếp là đồng chí Tổng Bí thư, Thường trực Ban Bí thư, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương; giúp Ban Bí thư chỉ đạo triển khai thực hiện việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong Đảng, trong xã hội. Từng thành viên trực tiếp theo dõi, chịu trách nhiệm về công tác triển khai tại lĩnh vực, ngành, cơ quan, đơn vị mình.
Tại cuộc họp, các đại biểu thảo luận cho ý kiến vào các Dự thảo: Hướng dẫn thực hiện Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của Ban Tuyên giáo Trung ương; Quy chế làm việc của Bộ phận giúp việc Ban Bí thư về học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; Kế hoạch triển khai thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị và Kế hoạch 03-KH/TW của Ban Bí thư trong năm 2011.
2. Báo Đại doàn kết có bài Hà Nội: Dự kiến thành lập 16 toà án sơ thẩm khu vực. Bài báo phản ánh: Chiều ngày 19-7, Đoàn khảo sát của TAND TC do Chánh án TAND TC Trương Hoà Bình làm Trưởng đoàn đã có buổi làm việc với Ban chỉ đạo cải cách tư pháp Thành uỷ Hà Nội về Đề án thành lập TAND sơ thẩm khu vực trên địa bàn thành phố.
Căn cứ vào các tiêu chí về số lượng các loại vụ án, về số lượng dân cư, về quy mô địa giới hành chính, theo đó thay cho toà án 29 quận, huyện như hiện nay, trên địa bàn TP Hà Nội dự kiến thành lập 16 toà án sơ thẩm khu vực. Cơ bản nhất trí với dự kiến thành lập 16 toà án khu vực của Hà Nội, Chánh án TAND Tối cao Trương Hoà Bình đề nghị Hà Nội cần rà soát kỹ hơn để tạo thuận lợi tốt nhất cho người dân, bảo đảm chất lượng xét xử và phù hợp với xu thế phát triển của Thủ đô những năm tới.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Món quà ý nghĩa của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Bài báo phản ánh: Hôm qua (19/7), tại làng Têl, xã Ia Pnôn, UBND huyện Đức Cơ và xã Ia Pnôn đã tổ chức Lễ khánh thành, bàn giao Nhà sinh hoạt cộng đồng cho đồng bào các dân tộc làng Têl, xã Ia Pnôn, huyện Đức Cơ, tỉnh Gia Lai. Đây là món quà của Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường trao tặng, được tài trợ bởi VietinBank.
2. Báo điện tử Chính phủ có bài Kế hoạch triển khai thi hành Luật Phòng, chống mua bán người. Bài báo đưa tin: Luật Phòng, chống mua bán người sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2012. Để việc triển khai thi hành Luật đảm bảo thống nhất, hiệu quả, Thủ tướng Chính phủ đã phân công nhiệm vụ cụ thể cho các Bộ, ngành, địa phương.
Theo Kế hoạch, Bộ Công an là đơn vị chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan tổ chức tuyên truyền, phổ biển về Luật Phòng, chống mua bán người và các văn bản hướng dẫn nhằm nâng cao trách nhiệm, thống nhất nhận thức cho đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý, cán bộ trực tiếp làm công tác phòng, chống mua bán người và cho nhân dân.
Các Bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, tổ chức rà soát văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến phòng, chống mua bán người, thống kê những văn bản cần sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ để phù hợp với Luật Phòng, chống mua bán người gửi Bộ Công an để tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Công tác rà soát, hệ thống hóa các văn bản quy phạm pháp luật về phòng chống mua bán người phải được hoàn thành trong quý IV/2011.
Thủ tướng giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan trong tháng 10/2011 trình dự thảo Nghị định của Chính phủ quy định việc xác định nạn nhân bị mua bán và bảo vệ an toàn cho nạn nhân, người thân thích của họ.
Cũng trong tháng 10/2011, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (LĐTBXH) chủ trì trình dự thảo Nghị định quy định về cơ sở hỗ trợ; chế độ hỗ trợ; trình tự, thủ tục hỗ trợ đối với nạn nhân bị mua bán.
Đến tháng 4/2012, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) chủ trì hoàn thành việc xây dựng Thông tư liên tịch của các Bộ Công an, Quốc phòng, Tư pháp, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, TANDTC hướng dẫn xử lý hành vi phạm tội mua bán người; Bộ Công an chủ trì hoàn thành việc xây dựng Thông tư liên tịch của các Bộ: Công an, Quốc phòng, LĐTBXH, Ngoại giao hướng dẫn quan hệ phối hợp tiếp nhận, xác minh nạn nhân bị mua bán.
Ngoài ra, Thông tư quy định chi tiết các biện pháp bảo vệ an toàn cho nạn nhân bị mua bán và người thân thích của họ sẽ do Bộ trưởng Bộ Công an ban hành. Còn Thông tư quy định cụ thể các biện pháp của Quân đội nhân dân trong đấu tranh phòng, chống mua bán người và các hành vi vi phạm khác có liên quan sẽ do Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành.
Để việc triển khai đạt hiệu quả cao, Thủ tướng yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương được giao nhiệm vụ phải chủ động, tích cực triển khai thực hiện, bảo đảm đúng tiến độ, chất lượng công việc, tiết kiệm, tránh hình thức, lãng phí.
3. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Kỳ 1: Sửa Hiến pháp – nên chăng vẫn đi con đường cũ? Bài báo giới thiệu bài viết của luật sư Nguyễn Tiến Lập về vấn đề sửa đổi Hiến pháp.
Hiến pháp không thể đơn giản là một đạo luật, bởi luật là do cơ quan lập pháp làm ra, tức sản phẩm của bộ máy nhà nước, theo đó, nhà nước (thông qua nghị viện hay quốc hội) có thể thay đổi nó. Hiến pháp không như vậy, nó là khế ước tinh thần và pháp lý của toàn xã hội.
Đang có một sự bàn luận sôi nổi trong giới học thuật về sửa Hiến pháp. Với tư cách là một người làm nghề luật, tôi cũng rất quan tâm, tuy nhiên tự hỏi: sửa Hiến pháp, đó là sự kiện “trọng đại” hay “bình thường”?
Ngẫm nghĩ, câu hỏi đó không dễ trả lời. Ở nhiều quốc gia, việc sửa đổi hiến pháp có ý nghĩa rất trọng đại, có khi phải trả giá bằng cả một cuộc cách mạng. Bởi vậy, người ta rất ít khi sửa đổi hiến pháp, và chỉ tiến hành khi đại đa số người dân thấy bức thiết phải làm điều đó.
Ở nước ta, Hiến pháp đã được sửa nhiều lần, trung bình khoảng 15 năm lại sửa. Và như vậy, hầu như nó đã trở thành việc bình thường. Điều này, đối chiếu với thông lệ chung, có gợi cho chúng ta điều gì không?
Tôi nhớ các nhà luật học Xô Viết trước đây đã coi Hiến pháp Liên Xô là một cương lĩnh chính trị hay một văn bản có tính chất như vậy. Nhận thức đó đã từng trở thành một học thuyết về hiến pháp. Tại sao như vậy? Bởi đọc hiến pháp người ta thấy cả một bức tranh đẹp đẽ mô tả tổng thể xã hội và đất nước, bao gồm cái đã có, đang có và cả cái sẽ có trong tương lai. Thêm nữa, và quan trọng hơn, hiến pháp được ban hành trên cơ sở cương lĩnh chính trị hoặc các nghị quyết của Đảng về đường lối, chiến lược xây dựng đất nước. Vậy, hiến pháp là “nghị quyết” hay “luật”? Câu trả lời là “cả hai”, vì nội dung của nó giống với “nghị quyết” nhưng gọi tên là “hiến pháp” để có hiệu lực như “luật”. Bởi rằng, “nghị quyết” chỉ có thể áp dụng trong phạm vi một tổ chức, còn “luật” thì có hiệu lực đối với toàn xã hội.
Hiến pháp của nước ta có được làm theo xu hướng như vậy không, khi mà đọc nó chúng ta dường như cũng thấy tất cả, từ mô hình tổ chức quyền lực nhà nước cho tới các vấn đề cụ thể như quyền “tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” hay “sinh đẻ và kế hoạch hoá gia đình”?
Suy xét, tôi vẫn cho rằng hiến pháp không thể là “cương lĩnh”, nhưng cũng không đơn giản là “luật” (dù là “luật cơ bản” như nhiều người muốn đề cao), mà hơn thế. Về bản chất, hiến pháp chính là “khế ước xã hội”. Nó là thoả thuận và cam kết của mọi người dân với nhau và với nhà cầm quyền của một quốc gia về trạng thái, bản chất và sự phát triển chính trị của quốc gia đó gắn với một giai đoạn lịch sử có tính thời đại. Hãy đọc một số hiến pháp của các quốc gia. Hiến pháp Mỹ, vẻn vẹn với bảy điều, chỉ xoáy quanh câu chuyện kiểm soát quyền lực nhà nước, làm sao để quyền lực nhà nước không ngày càng phình to, lấn át và đè bẹp tự do của người dân, bằng cách các cơ quan nhà nước tự giám sát và kiềm chế lẫn nhau. Hiến pháp CHLB Đức tập trung khẳng định các quyền cơ bản của người dân và thể chế dân chủ, vốn là điều mà người Đức trước đó, do chủ quan, đã để mất bởi chế độ phátxít Hitler. Còn Hiến pháp Nhật Bản, được xây dựng sau Thế chiến thứ hai, thể hiện cam kết hùng hồn của người dân Nhật Bản về xây dựng một nước Nhật yêu chuộng hoà bình và không quân phiệt.
Tóm lại, hiến pháp như một “áng linh hồn” cần ghi nhận được những điều gì mà người dân đau đáu nhất. Sau nhiều thế kỷ phát triển chín muồi của chế độ quân chủ, người dân Anh không còn “đau đáu” vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước mà hội tụ niềm tin vào đức vua hay nữ hoàng, do đó, họ không cần một hiến pháp viết thành văn. Nhưng không vì thế mà nước Anh bớt đi sự văn minh và dân chủ.
Hiến pháp không thể đơn giản là một đạo luật, bởi luật là do cơ quan lập pháp làm ra, tức sản phẩm của bộ máy nhà nước, theo đó, nhà nước (thông qua nghị viện hay quốc hội) có thể thay đổi nó. Hiến pháp không như vậy, nó là khế ước tinh thần và pháp lý của toàn xã hội, không ai có quyền thay đổi nó trừ khi đạt được thống nhất ý chí của đa số người dân hoặc bằng một cuộc cách mạng. Hiến pháp đứng trên các đạo luật bởi nó chế ước cả nhà nước và không ai được phép vượt qua nó.
Có một nguyên lý chung là luật được làm ra như thế nào thì sửa nó như thế. Đối với Hiến pháp, phải chăng cũng như vậy? Tôi còn nhớ luật gia Phùng Văn Tửu, nguyên phó chủ tịch Quốc hội, lúc sinh thời có nói vào những năm 80 (thế kỷ trước) rằng “Hiến pháp của chúng ta tự sửa”. Có nghĩa rằng Hiến pháp của chúng ta quy định rất nhiều điều mà không thể thực hiện được, vì vậy, một cách tự nhiên do nhu cầu thực tiễn, các luật, pháp lệnh hay thậm chí nghị định đã phải điều chỉnh nó “cho phù hợp”. Lâu dần, đến một lúc nào nào đó, ta “tổng kết thực hiện” và sửa Hiến pháp cho tương thích với thực tiễn đời sống và mặt bằng pháp luật hiện hành. Nếu theo lý thuyết “Hiến pháp của chúng ta tự sửa” (cho tương thích với thực tiễn đời sống và mặt bằng pháp luật hiện hành) thì sẽ vấp phải một thực tế là người dân dần dần quên sự tồn tại của Hiến pháp mà chỉ còn chú ý đến các văn bản pháp lý thi hành hàng ngày.
Có người có trọng trách cho rằng hãy sửa Hiến pháp sao cho nó có thể tồn tại lâu dài hơn, tránh “sửa đi, sửa lại”. Liệu rằng điều kiện thực tế đã chín muồi để đạt được điều này hay chưa còn là câu chuyện phải bàn, tuy nhiên, theo tôi, vẫn có một lối đi tới mục đích đó nếu cùng nhau xác lập và thống nhất các nguyên lý sau đây về Hiến pháp:
Thứ nhất, Hiến pháp không cần và không nên quy định những điều cụ thể thuộc phạm vi của các luật đơn hành. Đọc Hiến pháp năm 1992, chúng ta thấy sự trùng lắp như vậy khá nhiều, chẳng hạn giữa Hiến pháp với bộ luật Dân sự, luật Đất đai, luật Doanh nghiệp nhà nước, hay thậm chí cả luật Thể dục thể thao và luật Du lịch.
Thứ hai, Hiến pháp không quy định những điều đã trở thành hiển nhiên cũng như những điều xa vời mà không thể đạt tới được. Hãy xem tại sao Hiến pháp Mỹ không hề nói tới các quyền cơ bản của công dân, vì tự do cá nhân đã trở thành giá trị hiển nhiên của xã hội Mỹ, nên hiến pháp chỉ cần quy định cơ chế bảo đảm nó mà thôi. Đối với nước ta, chẳng hạn, nếu cho rằng nguyên lý “Nhà nước của dân do dân và vì dân” và “Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần” là hiển nhiên thì không cần thiết quy định; đồng thời cũng nên xoá bỏ quy định về việc công dân có nhà ở và việc làm như một quyền cơ bản vì không thể thực thi được.
Thứ ba, Hiến pháp hãy chỉ tập trung quy định những điều gì mà một cách tự nhiên, cơ quan nhà nước dễ dàng vi phạm nhất và các cơ chế để người dân sử dụng hay đấu tranh nhằm bảo đảm tính thực thi của những gì đã nghi nhận trong Hiến pháp, đặc biệt liên quan đến các quyền cơ bản của họ. Cơ chế này ở các nước, chẳng hạn là nguyên tắc phân chia quyền lực và toà án Hiến pháp.
Một hiến pháp như vậy sẽ đơn giản, “gọn nhẹ” nhưng thiêng liêng, bởi chắt lọc những điều bản chất và cốt lõi, thể hiện các giá trị cao cả và niềm tin tối thượng của một quốc gia và xã hội.
4. Thời báo kinh tế Sài Gòn có bài Nhân lực, tài chính và lãnh đạo. Bài báo phản ánh: RIA (đánh giá tác động pháp luật) đóng một vai trò vô cùng hữu ích trong việc hình thành các chính sách pháp luật của quốc gia. Nhưng làm thế nào để RIA thực sự được áp dụng hiệu quả tại Việt Nam? Xung quanh vấn đề này, TBKTSG đã có cuộc phỏng vấn với TS. NGUYỄN ĐÌNH CUNG, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và ông FAISAL NARU, Cố vấn trưởng về cải cách thể chế, Dự án Sáng kiến cạnh tranh Việt Nam - USAID/VNCI.
TBKTSG: Trong thời gian qua, có không ít chính sách pháp luật đã được ban hành nhưng hiệu quả thực thi kém. Ví dụ quy định cấm xe ba gác; quy định về đăng ký bắt buộc đối với xe ôm; quy định về bán hàng rong; quy định về giấy tờ nhà đất...Ông đánh giá gì về hiện tượng này?
- Ông NGUYỄN ĐÌNH CUNG: Hiện nay, công tác xây dựng pháp luật nổi lên hai vấn đề, đó là chất lượng và số lượng.
Về số lượng, có thể thấy số lượng quy định mới ngày càng tăng. Năm 2009, số văn bản quy phạm pháp luật ban hành là gần 1.500 và văn bản không chứa quy phạm pháp luật là 5.467. Năm 2010 con số này còn cao hơn với trên 1.500 văn bản quy phạm pháp luật và 6.412 văn bản không chứa quy phạm pháp luật.
Bây giờ nếu đặt hai vấn đề bên cạnh nhau, tức là có rất nhiều quy định nhưng chúng ta không kiểm soát được chất lượng, thì chất lượng của thể chế và các quy định pháp luật có thể giảm xuống. Qua đó, năng lực cạnh tranh của môi trường kinh doanh nước ta cũng giảm sút. Theo tôi, nên coi trọng vấn đề chất lượng hơn là số lượng trong ban hành pháp luật, chính sách.
TBKTSG: Theo ông, việc thực hiện RIA trong quy trình làm luật hiện nay liệu có liên quan gì đến hiện tượng trên? Đâu là vai trò của RIA?
- Ông NGUYỄN ĐÌNH CUNG: Nếu khi soạn thảo một văn bản pháp luật, ban soạn thảo không xác định được vấn đề cụ thể cần giải quyết (bản chất, quy mô và phạm vi của nó), không hiểu rõ gốc rễ của vấn đề đó, không xác định được mục tiêu cụ thể cần đạt được và cách thức thực hiện, không dựa trên tham vấn ý kiến của người dân và doanh nghiệp một cách thực chất, thì nguy cơ thất bại trong giải quyết vấn đề đó là rất lớn, thậm chí còn làm phát sinh thêm vấn đề.
RIA là một công cụ giúp ngăn chặn được tình trạng nói trên bằng cách đặt ra các câu hỏi quan trọng như vấn đề bất cập người dân, doanh nghiệp đang gặp phải là gì; liệu có cần phải ban hành quy định/luật để giải quyết vấn đề đó hay không; nếu cần thì nên quy định như thế nào là tối ưu. Sau đó tham vấn công khai và trên tinh thần cầu thị với người dân, doanh nghiệp để cùng nhau tìm ra giải pháp hiệu quả nhất, ít tốn kém nhất cho xã hội.
Việc thực hiện quy trình như vậy là để đảm bảo rằng trước hết: a) pháp luật chỉ được ban hành khi cần thiết; b) phải xem xét ý kiến của các đối tượng liên quan để pháp luật được xây dựng dựa trên bằng chứng và giải quyết các vấn đề thực thi trước khi ban hành.
- Ông FAISAL NARU: RIA giúp cho chất lượng pháp luật được nâng cao theo hướng giảm gánh nặng về chi phí cho người dân, doanh nghiệp và xã hội; đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Công cụ RIA giúp cho Chính phủ biết khi nào cần can thiệp bằng quy định và can thiệp như thế nào. Nhờ vậy, trong khuôn khổ nguồn lực có hạn của mình Chính phủ giải quyết vấn đề bất cập của xã hội một cách hiệu quả hơn.
TBKTSG: Thách thức trong áp dụng RIA tại Việt Nam là gì?
- Ông FAISAL NARU: Một trong những thách thức lớn là thay đổi tư duy làm luật. Đây là cách nhìn mới về mối quan hệ giữa Chính phủ và xã hội. Chính phủ là người tạo điều kiện cho xã hội vận hành chứ không phải là người kiểm soát. Chính phủ không có đủ nguồn lực để kiểm soát xã hội và cũng không nên kiểm soát. Thay vào đó, Chính phủ nên cải thiện sự vận hành thị trường và chỉ can thiệp khi thị trường và xã hội có vấn đề bất cập.
Do đó, Chính phủ nên sử dụng nguồn lực một cách chiến lược để tạo ra môi trường và động lực cho sự thay đổi thay vì áp dụng các biện pháp can thiệp trực tiếp để thay đổi. Nghiên cứu quốc tế cũng đã chứng minh can thiệp hành chính và trực tiếp của Chính phủ là phương thức điều hành ít hiệu quả nhất nhưng lại tốn kém nhất.
TBKTSG: RIA là một yêu cầu bắt buộc nhưng theo ông, lý do gì khiến các cơ quan soạn thảo không thực hiện hoặc tuân thủ đầy đủ RIA trong quá trình ban hành chính sách pháp luật?
- Ông NGUYỄN ĐÌNH CUNG: Đây là vấn đề chúng tôi hết sức quan tâm. Mới đây, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương phối hợp với dự án USAID/VNCI thực hiện khảo sát sơ bộ đối với các cán bộ soạn thảo, cán bộ thẩm tra, thẩm định pháp luật về RIA. Kết quả bước đầu cho thấy một trong những nguyên nhân là do hạn chế về năng lực. Chỉ có 43% cán bộ soạn thảo tham gia khảo sát cho biết họ đã được tập huấn về RIA, và chỉ hơn 50% cán bộ thẩm tra, thẩm định trả lời chính xác câu hỏi về RIA dưới góc độ một quy trình nghiên cứu và phân tích chính sách.
Ngoài ra, nguồn lực tài chính để thực hiện RIA cũng là một vấn đề. Trước kia, kinh phí để thực hiện một báo cáo RIA chỉ có 700.000 đồng và mới đây theo Thông tư liên tịch số 192/2010/TTLT-BTC-BTP-VPCP đã tăng lên 6 triệu đồng. Tuy nhiên, theo tôi chừng đó vẫn không thể đủ để thu thập số liệu, chưa nói đến chuyện thực hiện khảo sát chuyên sâu và tham vấn công chúng.
TBKTSG: Theo ông, cần có những thay đổi như thế nào để nâng cao chất lượng thực hiện RIA?
- Ông NGUYỄN ĐÌNH CUNG: Thứ nhất là phải có thay đổi tư duy và cam kết mạnh mẽ của những người đứng đầu cơ quan soạn thảo về sự cần thiết phải ban hành chính sách, pháp luật dựa trên bằng chứng khoa học và thực tiễn. Và như thế, RIA chính là công cụ cung cấp những phân tích và bằng chứng khách quan để các nhà lãnh đạo đưa ra được những quyết định đúng đắn nhất vì lợi ích quốc gia. Do đó, phải có sự cam kết của lãnh đạo về việc thực hiện RIA thì RIA mới có thể được thực hiện một cách hiệu quả.
- Thứ hai, cần cải thiện năng lực của cán bộ và tăng nguồn lực tài chính cho việc thực hiện RIA. Thứ ba, nên thành lập một cơ quan trung ương độc lập phụ trách việc kiểm soát chất lượng của RIA. Cơ quan này có trách nhiệm giám sát việc thực hiện RIA và đảm bảo RIA được tiến hành một cách thực chất và có chất lượng. Đây là mô hình mà nhiều quốc gia đã và đang áp dụng.