Điểm tin báo chí sáng ngày 20 tháng 7 năm 2011

20/07/2011
Trong buổi sáng ngày 20/7/2011, một số báo đã có bài phản ánh những vấn đề nổi bật của đất nước và những vấn đề liên quan đến công tác tư pháp như sau:
 

I-           THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC

1. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Quốc hội sẽ thảo luận về biển Đông, bầu lãnh đạo cao cấp. Bài báo đưa tin: Chiều ngày 19.7, Văn phòng Quốc hội (VPQH) đã tổ chức họp báo công bố nội dung kỳ họp đầu tiên của Quốc hội khoá XIII. Dự kiến phiên khai mạc kỳ họp sẽ bắt đầu từ ngày 21.7 và kết thúc vào ngày 6.8.2011.

Theo ông Nguyễn Sĩ Dũng, phó chủ nhiệm VPQH, trong chương trình nghị sự, Quốc hội sẽ dành ra 11 ngày để xem xét, quyết định về công tác tổ chức và nhân sự. Cụ thể, ngay sau phiên họp khai mạc, Quốc hội sẽ tiến hành thẩm tra tư cách đại biểu Quốc hội và thông qua nghị quyết về việc xác nhận tư cách đại biểu Quốc hội khoá XIII. “Người trúng cử ĐBQH chính thức trở thành ĐBQH sau phần xác nhận tư cách này”, ông Dũng nói.

Cũng theo ông Dũng, Quốc hội sẽ dành phần lớn thời gian xem xét, quyết định về tổ chức, nhân sự, bầu các chức danh lãnh đạo cấp cao của các cơ quan nhà nước: Chủ tịch Quốc hội, các phó chủ tịch Quốc hội, các uỷ viên uỷ ban Thường vụ Quốc hội, thành viên hội đồng dân tộc, các uỷ ban của Quốc hội. Quốc hội cũng sẽ xem xét bầu Chủ tịch nước, phó chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng kiểm toán Nhà nước; quyết định cơ cấu tổ chức của Chính phủ, phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm các phó Thủ tướng, các bộ trưởng và thành viên của Chính phủ, Chủ tịch Nước sẽ đề xuất danh sách các phó chủ tịch nước và uỷ viên Hội đồng quốc phòng và an ninh. Quốc hội sẽ xem xét, phê duyệt đề nghị này.

Ông Trần Đình Đàn, chủ nhiệm VPQH cho biết, đến thời điểm này vẫn chưa rõ số lượng các phó chủ tịch Quốc hội, số phó Chủ tịch nước, số phó thủ tướng... dự kiến để Quốc hội phê duyệt. “Việc đó phải chờ sau khi có các quyết định chính thức về nhân sự cấp cao nhất”, ông Đàn khẳng định.

Trong chương trình xây dựng pháp luật, Quốc hội sẽ xem xét, thông qua nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2012; thông qua nghị quyết về chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 và thành lập uỷ ban sửa đổi Hiến pháp. “Quốc hội sẽ thảo luận và có định hướng lớn về việc này cho phù hợp những sửa đổi cương lĩnh của Đảng. Chưa rõ sửa bao nhiêu điều. Nhưng Quốc hội sẽ thành lập uỷ ban sửa đổi Hiến pháp, nghiên cứu, tổng kết thực tiễn…để trình Quốc hội hướng sửa đổi Hiến Pháp”, ông Dũng cho biết.

Quốc hội cũng dành ra 2 ngày để nghe và thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội, quyết định quyết toán ngân sách năm 2009. Đáng chú ý, trong kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét các tờ trình của Chính phủ để ban hành một nghị quyết về bổ sung một số giải pháp về thuế để tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp và cá nhân. Theo tờ trình, Chính phủ đề xuất giảm 30% số thuế thu nhập doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp thuộc đối tượng được gia hạn nộp thuế; giảm 50% mức thuế khoán thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân từ quý III năm 2011 đến hết năm 2011 cho các cá nhâm, hộ kinh doanh nhà trợ, phòng trợ với học sinh, sinh viên, công nhân…

Chính phủ cũng đề nghị miễn thuế thu nhập cá nhân từ 1.8.2011 đến hết năm 2012 với cổ tức được chia cho các cá nhân (trừ cổ tức của các ngân hàng, các quỹ đầu tư tài chính, các tổ chức tín dụng) từ hoạt động đầu tư vào thị trường chứng khoán cá nhân. Ngoài ra, Chính phủ cũng đề nghị miễn thuế thu nhập cá nhân từ 1.8 năm nay đến hết năm 2012 với hoạt động chuyển nhượng chứng khoán của cá nhân; miễn thuế thu nhập cá nhân từ 1.8 năm nay đến 31.12.2011 với các cá nhân có thu nhập tính thuế từ tiền lương, tiền công và từ kinh doanh đến mức phải chịu thuế thu nhập cá nhân ở bậc một trong biểu thuế thu nhập.

Đặc biệt, ông Dũng cho biết, Quốc hội sẽ nghe báo cáo về tình hình Biển Đông: làm thế nào để đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo hoà bình để đất nước phát triển.

Trả lời câu hỏi của báo Sài Gòn Tiếp thị tại cuộc họp báo về buổi họp nghe, thảo luận báo cáo của Chính phủ về tình hình Biển Đông, ông Trần Đình Đàn, chủ nhiệm VPQH nói rằng, trong phiên thảo luận kinh tế xã hội, tuỳ vào mức độ quan tâm, các đại biểu Quốc hội có thể sẽ tham gia thảo luận về vấn đề Biển Đông. Ông Đàn cũng nói rằng, sẽ bố trí thời gian để đại biểu Quốc hội nghe Chính phủ báo cáo về tình hình biển Đông trong khoảng 60 hoặc 90 phút. Đồng thời, Đoàn chủ tịch sẽ xin ý kiến Quốc hội vấn đề nào sẽ cần ban hành nghị quyết. Về ý kiến VPQH đã nhận được kiến nghị của cử tri về vấn đề Biển Đông hay chưa, ông Đàn cho biết chưa nhận được bản kiến nghị này do đó ông chưa có ý kiến về việc này.

2. Báo Đầu tư có bài CPI tháng 7/2011 khó giữ vì giá thực phẩm. Bài báo phản ánh: Cục quản lý giá, Bộ Tài chính vừa cho biết, trong 15 ngày đầu tháng 7/2011 giá cả một số loại nguyên vật liệu, hàng hóa trên thị trường thế giới như đường, phân bón urê, gạo, xăng dầu... có xu hướng tăng đang tạo áp lực cho việc kiềm chế tốc độ tăng giá đối với thị trường trong nước.

Không chỉ  chịu “lực đẩy” của thị trường thế giới đối với những mặt hàng tham gia vào thị trường xuất-nhập khẩu như phân bón, gạo, xăng dầu, sắt thép, ximăng..., Cục quản lý giá còn cho biết, thị trường trong nước đang chịu áp lực rất  lớn do giá thực phẩm và rau xanh tăng mạnh.

Với diễn biến của thị trường trong nước và thế giới trong thời gian gần đây, ông Nguyễn Lộc An, Phó vụ trưởng Vụ thị trường trong nước (Bộ Công thương cho rằng), tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong tháng 7 khó có thể ở mức dưới 1%. Và nếu nguồn cung các mặt hàng lương thực, thực phẩm, rau củ quả tăng mạnh trong thời gian tới, cộng với việc thực hiện quyết liệt và đồng bộ các chính sách tài chính - tiền tệ chặt chẽ thì khả năng tốc độ tăng CPI năm 2011 cũng phải ở mức 17%.

3. Báo VnExpress có bài Xuất khẩu vàng tiếp tục tăng mạnh. Bài báo phản ánh: Theo số liệu mới công bố của Tổng cục Hải quan, kim ngạch xuất khẩu đá quý, kim loại quý và sản phẩm tính đến 30/6 đạt 1,203 tỷ USD; riêng tháng 6 xuất tới 806,255 triệu USD, tăng 133% so với tháng trước.

Chiếm đại đa số trong nhóm hàng này là vàng trang sức và với giá vàng nguyên liệu khoảng 50 triệu USD mỗi tấn hiện nay, lượng xuất đi trong tháng 6 ước đạt hơn 14 tấn và trong cả 6 tháng đầu năm là hơn 24 tấn.

Một nguồn tin từ Hiệp hội Kinh doanh Vàng Việt Nam cho biết, xuất khẩu sôi động nhất vào tháng 5 và tháng 6, khi giá trong nước thấp hơn nhiều so với thế giới, giúp doanh nghiệp thu lãi trên 2 tỷ đồng mỗi tấn. Hoạt động này có thể chậm lại trong tháng 7, do chênh lệch giữa vàng trong nước và thế giới đang thu hẹp dần.

Xuất khẩu vàng được xem là một cứu cánh giúp cán cân ngoại thương của Việt Nam 6 tháng đầu năm bớt u ám. Kim ngạch nhập khẩu nhóm hàng này chỉ đạt 20,6 triệu USD và 6 tháng đầu năm đạt 425,5 triệu USD. Nhờ xuất siêu vàng tới gần 800 triệu USD, nên tỷ lệ nhập siêu của cả nước giảm mạnh, từ mức trên 20% kim ngạch xuất khẩu trước đó xuống vỏn vẹn 15,7% đến cuối tháng 6.

Việt Nam vẫn hạn chế xuất khẩu vàng miếng và nguyên liệu thông qua cơ chế cấp quota cho một số đầu mối. Trong khi đó, nữ trang được coi là một loại hàng hóa thông thường, được khuyến khích sản xuất và xuất khẩu nhằm phát triển các làng nghề truyền thống, tạo công ăn việc làm trong nước. Vì vậy, xuất khẩu nữ trang thời gian qua không cần giấy phép và từng được áp thuế 0%.

Song điều cơ quan chức năng lo ngại chính là nguy cơ vàng nguyên liệu bị xuất đi dưới dạng trang sức, mỹ nghệ. Thực tế đã có trường hợp xuất khẩu mỹ nghệ là con trâu bằng vàng hàm lượng trên 99%.

Đầu năm nay, Bộ Tài chính quyết định áp thuế xuất khẩu 10% thay vì 0% với nữ trang hàm lượng vàng 99%. Trong dự thảo Nghị định quản lý Kinh doanh vàng trình Chính phủ cuối tháng 6, Ngân hàng Nhà nước đề xuất giảm hàm lượng này xuống còn 20K (tương đương hàm lượng 83,3%). Nếu điều này thành sự thật, doanh nghiệp sẽ phải mất thêm công "hạ tuổi vàng" và lượng vàng hao hụt trong quá trình gia công sẽ lớn hơn.

Ủng hộ quan điểm cần hạn chế nguy biến tướng trong hoạt động xuất khẩu nữ trang, tuy nhiên, Chủ tịch Tập đoàn Vàng bạc đá quý DOJI Đỗ Minh Phú cho rằng nếu thắt chặt quá sẽ gây khó cho các doanh nghiệp hoạt động chân chính. Theo ông, với quy định hiện hành, để thu được một đồng lợi nhuận từ xuất khẩu nữ trang, doanh nghiệp phải bỏ ra tới hai đồng bao gồm chi phí gia công, vận chuyển và thuế.

Theo ông, cần khuyến khích xuất khẩu nữ trang, không chỉ vì tạo công ăn việc làm trong nước, mà còn giúp tăng nguồn thu ngoại tệ một cách nhanh chóng. Một lô vàng xuất khẩu, thông thường chỉ sau 3 ngày doanh nghiệp được thanh toán 70-80% và chậm nhất trong vòng một tuần được thanh toán toàn bộ. Mặt khác, khi giá trong nước thấp hơn thế giới, nếu không xuất được qua đường chính ngạch, vàng sẽ chảy ra ngoài qua đường tiểu ngạch hoặc thậm chí xuất lậu, làm thất thu thuế của Nhà nước và không kiểm soát được nguồn ngoại tệ.

Trong công văn gửi Ngân hàng Nhà nước tham gia góp ý cho dự thảo Nghị định quản lý Kinh doanh vàng, Hiệp hội Kinh doanh Vàng Việt Nam cũng đề nghị cân nhắc lại hàm lượng vàng khi xuất khẩu. Hiệp hội đề nghị không nên áp dụng tỷ lệ từ 20K (83,3%) trở lên, mà chỉ áp dụng theo quy định hiện hành (tức là từ 99% trở lên).

Tuy nhiên, theo nguồn tin riêng của VnExpress, đề nghị này khó được chấp nhận. Thậm chí Ngân hàng Nhà nước còn muốn siết chặt hơn, và có thể đề xuất áp thuế ngay từ tỷ lệ 80% trở lên.

II-         THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP

1. Báo Tầmnhìn.net có bài Thuế thu nhập cá nhân cần điều chỉnh. Bài báo phản ánh: Có lẽ ít có loại thuế nào ở nước ta lại “vất vả” như Luật thuế TNCN (thu nhập cá nhân). Dù được nâng lên đặt xuống nhiều lần để lấy ý kiến phản biện và bảo đảm đồng thuận xã hội, được Quốc hội khóa XII thông qua ngày 21 tháng 11năm 2007; được chậm và giãn tiến độ triển khai do gặp khủng hoảng kinh tế-tài chính thế giới trong khuôn khổ gói kích cầu của Chính phủ, vậy mà chỉ sau 2 năm thực hiện chính thức (áp dụng từ 1/ 1/ 2009, nhưng theo Thông tư số 160/2009/TT-BTC ngày 12/8/2009, tất cả mọi cá nhân đều được miễn thuế TNCN tính trên phần thu nhập của 6 tháng đầu năm 2009, không phân biệt thời điểm chi trả thu nhập), Luật này đã sớm lạc hậu, đòi hỏi cần có thêm những chỉnh sửa cần thiết mới.

Trong cuộc họp báo thường kỳ Chính phủ, Thứ trưởng Bộ Tài chính Trương Chí Trung cho biết, Bộ Tài chính đã làm việc với Bộ Tư pháp để trình Chính phủ về vấn đề xem xét việc sửa đổi Luật Thuế TNCN trong chương trình sửa đổi luật năm 2011 và 2012. Thủ tướng đã thông qua chương trình sửa đổi, bổ sung luật, pháp lệnh năm 2011 và 2012 để Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét.

Cùng với tốc độ lạm phát cao trong 4 năm qua (tổng cộng tới trên dưới 50%), cũng như với việc Việt Nam chính thức ra khỏi danh sách các nước nghèo, bước chân vào câu lạc bộ các nước có thu nhập trung bình trên thế giới (sớm hơn 1 năm so với dự báo của WB), mức ngưỡng khởi điểm tính thuế TNCN 4 triệu đồng (tr.đ) đã nhanh chóng trở nên lạc hậu. Nếu trước đây, chỉ với khoảng 10 tr.đ/tháng, 1 gia đình 4 nhân khẩu có thể sống khá dễ chịu ở Hà Nội, thì nay, mức tối thiểu đã phải nâng lên ít nhất gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi, nếu tính cả tiền thuê nhà. Nếu xét theo đà và áp lực lạm phát còn khá cao trong thời gian tới, nhất là về giá lương thực, thực phẩm và y tế, cũng như xăng dầu, điện, nước..., thì chắc chắn “gói thu nhập tối thiểu” giành cho 1 gia đình trung bình ở đô thị nước ta này còn tiếp tục gia tăng với tốc độ chóng mặt.

Hơn nữa, việc Luật thuế TNCN “chốt” rõ mức khởi điểm tính thuế cụ thể bằng đơn vị VND vừa thấp, dễ lạc hậu, lại vừa cứng khiến gây khó cho mỗi lần điều chỉnh trước các biến động tiền lương trên thực tế.

Vì vậy, cần sớm thể chế hóa lại mức khởi điểm tính thuế theo hướng vừa tăng mức tính khởi điểm, vừa tạo linh hoạt trong áp dụng của đơn vị, đối tượng chịu thuế và cơ quan thuế. Cụ thể, nên tăng ít nhất 2 lần mức khởi điểm chịu thuế và tính bằng số lần lương tối thiểu,chẳng hạn , bằng từ 8-10 lần mưc lương tối thiểu của khu vực sản xuất. Nếu xét đến yêu cầu an sinh và an dân, ổn định xã hội và vĩ mô khác trong bối cảnh khó khăn và nhạy cảm những năm tới như tinh thần Nghị Quyết 11/NQ-CP ngày 24/11/2011 của Chính phủ, nên mạnh dạn áp dụng mức tính khởi điểm chịu thuế TNCN là 10 lần mức lương tối thiểu trong khu vực sản xuất kinh doanh và được thay đổi hàng năm theo mức điều chỉnh của lương tối thiểu của khu vực sản xuất kinh doanh ( mức lương này thường cao hơn mức lương tối thiểu khu vực hành chính sự nghiệp và được áp dụng từ ngày 1/1 hàng năm, nên có lợi cho người nộp thuế hơn).

Thực tế áp dụng thuế TNCN trong 2 năm qua cũng cho thấy, mức chiết trừ gia cảnh 1,5 trr.đ/người cũng sớm trở nên lạc hậu. Hơn nữa, việc xác nhận hành chính (ở cấp chính quyền địa phương hoặc cơ quan) về vị thế và thực tế đã tính hay chưa tính chiết trừ gia cảnh người phụ thuộc gây nhiều phiền toái và khó chính xác cho cả người nộp thuế, lẫn cơ quan thu thuế. Vì vậy, trong chỉnh sửa Luật thuế TNCN cần nâng mức chiết trừ gia cảnh tương ứng với mức nâng khởi điểm tính thuế TNCN nêu trên, đồng thời cần bổ xung quy định cấp “Mã số chiết trừ gia cảnh” cho các đối tượng phụ thuộc để cập nhật thông tin và tiện cho việc xác nhận và giám sát trong hành thu thuế TNCN. Mã số thuế này do người chịu thuế đề nghị cấp cho đối tượng phụ thuộc và có đủ thông tin về gia cảnh, quan hệ, thời gian và địa chỉ. Các Mã số giành cho người nộp thuế cá nhân và người trong diện chiết trừ gia cảnh này đều được cập nhật và nối mạng vi tính toàn quốc, tạo thuận lợi cho việc xác nhận và thực hiện của các bên có liên quan trong công tác thuế, từ đó giảm thiểu tình trạng tính trùng, “ăn gian” gây thất thu thuế , hoặc gây mất thời gian và phiền toái cho người nộp thuế.

Ngoài ra, cần chú ý chỉnh sửa tạo sự phân biệt mức khởi điểm, các bậc thang tính thuế và mức chiết trừ gia cảnh theo khu vực địa lý và ngành nghề với tính thần khuyến khích và đẩy nhanh hơn quá trình tái cấu trúc kinh tế (cả về lao động, ản phẩm, địa lý và công nghệ...) theo hướng phát triển theo chiều sâu và cân đối hơn, phù hợp định hướng chiến lược phát triển mà Nhà nước đã vạch ra.

Thông qua việc cấp mã số thuế cá nhân, cơ sở dữ liệu người nộp thuế được xây dựng là tiền đề quan trọng của việc quản lý kê khai nộp thuế và quyết toán thuế TNCN. Đối với thu nhập từ tiền công tiền lương, thực hiện kê khai và nộp thuế thông qua cơ quan chi trả thu nhập, theo đó, mức thuế TNCN được khấu trừ tại nguồn theo biểu thuế suất lũy tiến từng phần đối với các khoản chi trả cho cá nhân thuộc sự quản lý của cơ quan chi trả thu nhập cho những cá nhân ký hợp đồng lao động từ 03 tháng trở lên, và khấu trừ 10% thu nhập đối với các khoản chi trả cho cá nhân không có hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động hoặc hợp đồng lao động dưới 03 tháng nếu số tiền mỗi lần chi trả từ 500.000 đồng trở lên. Cơ quan chi trả thu nhập có trách nhiệm thu và chuyển số thuế thu được vào Kho bạc Nhà nước.

Tuy nhiên, như thực tế cho thấy, còn có nhiều bất cập trong tổ chức hành thu thuế TNCN. Cụ thể, việc tự động khấu trừ tại nguồn 10% tất cả các khoản chi trả thu nhập trên 500.000 đ/lượt đã tạo nhiều bức xúc và thiệt thòi cho người lao động do sự áp dụng không giống nhau giữa các đơn vị và nhất là do thủ tục hoàn thuế cho các khoản khấu trừ bắt buộc trên là không rõ ràng và không thuận lợi cho người chịu thuế. Ngay ở Hà Nội, có đơn vị tính và thu 10% trên tổng tiền trả/lần, lại có đơn vị tính riêng trên từng hóa đơn trả tiền. Rõ ràng, việc tính theo tổng số tiền/lần trả sẽ gấy thiệt hại cho người lao động nào màdo ít thời gian, không đi lấy nhiều lần thu nhập của mình nhằm “chia nhỏ” tổng nhận thù lao. Hơn nữa, cách tính này dễ gây kẽ hở cho lạm thu từ đơn vị, nhất là bộ phận kế toán, và thất thu NSNN.

Ngoài ra, cũng cần có thêm các quy định bao quát hết các nguồn và khoản “thu nhập mềm” để chống thất thu NSNN đối với các khoản thu của quan chức, nghệ sỹ và doanh nhân, kể cả những hoạt động đầu cơ và buôn lậu khác.

Về tổng thể, cần có quy định cụ thể hóa các cách tính và thông báo rộng rãi cho xã hội biết, sao cho các thủ tục thu và hoàn thuế TNCN ngày càng trở nên chính xác, dễ làm và dễ kiểm tra nhất, kích thích tính tự giác và tôn trong quyền lợi của người lao động, do đó nâng cao hiệu quả toàn diện của công tác thuế. Đặc biệt chính sách và việc xử lý nguồn ngân sách từ thuế " hậu thuế" cần được công bằng và minh bạch để người lao động, nhân dân có được niềm tin và coi việc đóng thuế là nghĩa vụ nhưng cũng là quyền lợi của người lao động đối với nhà nước và chính bản thân mình. 

2. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Thi hành án – đến lượt thừa phát lại cũng vướng. Bài báo phản ánh: Trong các số trước, báo Sài Gòn Tiếp Thị đã nêu nhiều hiện tượng bất cập và bất lực của cơ quan thi hành án trong việc “biến hiệu lực của bản án dân sự thành hiện thực”. Chế định thừa phát lại ra đời nhằm san sẻ một phần gánh nặng trên vai cơ quan thi hành án. Song, hoạt động thừa phát lại cũng đang gặp không ít vướng mắc.

Tổ chức thừa phát lại được thành lập và đi vào hoạt động với kỳ vọng giảm tải công việc cho cơ quan thi hành án. Tuy nhiên, số vụ thi hành án mà năm văn phòng thừa phát lại tại TP.HCM thực hiện mới chỉ khoảng hơn 30 vụ việc. Kết quả này xuất phát từ nhiều nguyên nhân: xã hội vẫn chưa biết nhiều đến khái niệm thừa phát lại hoặc tâm lý dè dặt của tổ chức, người dân khi nhìn tổ chức xã hội này.

“Trực tiếp tổ chức thi hành bản án của toà là một trong bốn chức năng của thừa phát lại. Theo đó, tổ chức thừa phát lại gần như có đủ mọi quyền hạn như cơ quan thi hành án như xác minh điều kiện thi hành án, tổ chức phong toả, kê biên hoặc cưỡng chế thi hành án… Trừ trường hợp muốn tổ chức cưỡng chế thi hành án thì có huy động lực lượng (cảnh sát, phòng cháy chữa cháy, y tế...) cần phải có sự phê duyệt của cục trưởng cục Thi hành án dân sự.

Tuy nhiên, sau một năm các văn phòng thừa phát lại đi vào hoạt động, không chỉ người dân mà cho đến nay vẫn còn một số cán bộ cũng chưa tường tận chức năng của thừa phát lại. Bên cạnh một số cán bộ không nắm rõ về thừa phát lại thì cũng có một số cán bộ biết nhưng không muốn hợp tác. Chưa hết, thừa phát còn bị một số tổ chức (như ngân hàng) không hợp tác vì lấy lý do luật không quy định phải cung cấp thông tin cho thừa phát lại. Như vậy, thừa phát lại chỉ là một tổ chức xã hội chứ không phải là cơ quan nhà nước nên phía ngân hàng có quyền từ chối cung cấp thông tin.

Ông Vũ Quốc Doanh, phó cục trưởng cục Thi hành án dân sự TP.HCM giải thích, theo thói quen, mỗi khi cầm trên tay bản án của toà thay vì người dân có thể yêu cầu thừa phát lại xác minh tài sản của người phải thi hành án hoặc người dân có thể yêu cầu văn phòng thừa phát lại trực tiếp tổ chức thi hành án cho mình, thì họ thường nghĩ ngay đến cơ quan thi hành án. Cho dù bất kỳ một văn phòng thừa phát lại cũng có thẩm quyền trực tiếp thi hành các bản án đã có hiệu lực của toà án.

Ngoài ra, còn có một yếu tố khác dẫn đến việc người dân ít tìm đến văn phòng thừa phát lại còn liên quan đến quy định của pháp luật. Chẳng hạn, để được thi hành án thì trong hồ sơ yêu cầu thi hành án phải có thông tin về tài sản. Khi người dân yêu cầu tổ chức thừa phát lại xác minh thông tin về tài sản đã vô tình đánh động cho người phải thi hành án biết để tẩu tán tài sản. Nếu như người phải thi hành án ở khác quận với văn phòng thừa phát lại thì văn phòng thừa phát lại không có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn ngay từ đầu.

Trong báo cáo quá trình triển khai thực hiện thí điểm chế định thừa phát lại trên địa bàn TP.HCM, sắp tới UBND TP.HCM sẽ ban hành chỉ thị yêu cầu các cơ quan, tổ chức trên địa bàn thành phố hỗ trợ cho thừa phát lại thực hiện tốt công việc của mình. Kiến nghị toà án tối cao chỉ đạo toà án các cấp tại thành phố bổ sung vào bản án, quyết định của toà án nội dung: “Sau khi bản án (quyết định) có hiệu lực pháp luật, đương sự có quyền liên hệ cơ quan thi hành án dân sự hoặc văn phòng thừa phát lại để yêu cầu thi hành án”. Theo ông Trần Văn Bảy, trưởng phòng bổ trợ tư pháp sở Tư pháp TP.HCM, nếu câu này được ghi trong bản án sẽ là một tiếng nói chính thức của Nhà nước góp phần làm cho dân biết đến thừa phát lại và hiểu hơn vai trò của tổ chức này. TP.HCM kiến nghị thành lập thêm ba văn phòng và kéo dài thời gian thí điểm thêm hai năm để có thể nhìn nhận hết những thuận lợi, khó khăn. Từ đó, sẽ đánh giá đúng và toàn diện hơn về chế định này.

3. Báo Dân trí có bài Cơ quan Thi hành án đã "lờ" đi việc xử lý tài sản thế chấp. Bài báo phản ánh: Sau khi Dân trí đưa tin về vụ án 194 Phố Huế đã nhận được sự quan tâm đông đảo từ bạn đọc. Tiếp tục đi sâu tìm hiểu vụ việc cho thấy, những điều "bất thường" trong vụ việc này là có cở sở, cần được làm sáng tỏ trước công luận.

Ngày 8/8/2002, Công ty Bắc Sơn và Ngân hàng Công thương (NHCT) Cầu giấy ký kết Hợp đồng tín dụng cho vay trung hạn số 01/NHCG, theo đó NHCT Cầu Giấy cho Công ty Bắc Sơn vay 10 tỷ đồng để đầu tư nhà máy lắp đặt xe máy tại xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; thời hạn vay 5,5 năm, lãi suất 0,75%/tháng, quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay.

Ngôi nhà 194 phố Huế là 1 trong 3 tài sản đảm bảo cho HĐ tín dụng số 01/NHCG nêu trên. Trong đó, hợp đồng bảo lãnh xác định rõ: “Nếu bên vay (Công ty Bắc Sơn), bên bảo lãnh không trả được nợ thì Ngân hàng có quyền phát mại ngôi nhà nói trên”.

Theo anh Hoàng Ngọc Minh, Giám đốc Công ty Bắc Sơn, doanh nghiệp anh luôn mong muốn thực hiện việc trả nợ cho Ngân hàng Công thương Cầu Giấy. Sau khi Ngân hàng có đơn khởi kiện, các bên đã đi đến thống nhất thỏa thuận với nhau về phương án trả nợ của Công ty Bắc Sơn, cụ thể tại Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM ngày 20/12/2007.

Sự việc tưởng chừng đã kết thúc “êm đẹp” nếu như sau đó, Công ty TNHH Bắc Sơn trong quá trình nỗ lực tìm khách hàng để bán tài sản thế chấp là toàn bộ nhà xưởng (7.774m2 đất) và thiết bị nhà máy lắp đặt xe máy tại xã Nam Hồng, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã không nhận được sự ủng hộ từ phía Ngân hàng Công thương.

Mặc dù đã cam kết là phải tạo điều kiện cho Công ty TNHH Bắc Sơn trong việc bán tài sản thế chấp để trả nợ, nhưng NHCT đã từ chối không cho khách hàng của Công ty TNHH Bắc Sơn tiếp cận hồ sơ, giấy tờ tài liệu liên quan mà Ngân hàng đang nắm giữ.

Không dừng lại ở đó, sau khi Công ty TNHH Bắc Sơn gửi toàn bộ Hồ sơ cho Công ty Bán đấu giá Hà Nội để yêu cầu bán đấu giá tài sản trên thì NHCT lại ban hành một công văn chỉ đạo với nội dung: Không đồng ý cho Công ty TNHH Bắc Sơn bán đấu giá tài sản vì đây là tài sản đang được thế chấp tại Ngân hàng. Và để khẳng định thiện chí trả nợ của mình, Công ty TNHH Bắc Sơn lại một lần nữa mang toàn bộ giấy tờ của tài sản thế chấp trên nộp cho Cơ quan Thi hành án, đồng thời tự nguyện giao 1,2ha đất cạnh nhà máy (tài sản riêng của doanh nghiệp) để yêu cầu Cơ quan Thi hành án cho bán đấu giá để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.

Cứ ngỡ các Ngân hàng luôn nhức nhối về việc thu hồi nợ, nhưng hóa ra để trả nợ như trường hợp Công ty TNHH Bắc Sơn cũng khó lắm thay!

Sự việc trở nên khó hiểu, bởi Cơ quan Thi hành án lại không muốn nhận tài sản và giải quyết nhanh việc thi hành án, trong khi gia đình người có nghĩa vụ đã tự nguyện đề nghị giao tài sản để xử lý. Như vậy, không phải phía gia đình ông Hoàng Đình Mậu trốn tránh nghĩa vụ trả nợ mà là phía Ngân hàng và cơ quan thi hành án đã lờ đi việc xử lý tài sản thế chấp mà tìm cách triển khai kê biên đối với tài sản bảo lãnh – là ngôi nhà 194 Phố Huế.

Vậy, đâu là căn nguyên của việc Công ty Bắc Sơn bị gây khó khăn trong việc bán tài sản để trả nợ và nguyên nhân nào khiến các cơ quan thực thi pháp luật đã cố tình kê biên, bán đấu giá và cưỡng chế ngôi nhà 194 phố Huế (vốn là tài sản bảo lãnh để đảm bảo cho khoản vay)?



File đính kèm