I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC
1. Báo Vietnam.net có bài Thủ tướng nào cũng muốn toàn bộ trưởng giỏi. Bài báo phản ánh: Thủ tướng nào cũng muốn có một tập hợp các vị bộ trưởng giỏi, đủ năng lực và trình độ để tham mưu cho mình. Song thực tiễn cho thấy có những vị bộ trưởng cả nhiệm kỳ Chính phủ không làm tốt vai trò được giao.
LTS: Tại kỳ họp đầu tiên Quốc hội khóa 13 khai mạc thứ năm tuần này, 500 tân đại biểu sẽ thảo luận về cơ cấu tổ chức của Chính phủ. VietNamNet giới thiệu bài viết của Vụ trưởng Vụ Cải cách hành chính, Bộ Nội vụ Đinh Duy Hòa, với nội dung Hướng tới một Chính phủ mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
Nếu chiếu theo Hiến pháp, có thể suy ra Chính phủ Việt Nam làm rất nhiều việc: "Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước; bảo đảm hiệu lực của bộ máy nhà nước từ trung ương tới cơ sở; bảo đảm tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm ổn định và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân".
Không biết đã có ai làm một nghiên cứu so sánh để xem có nước nào trên thế giới có quy định về Chính phủ giống như của Việt Nam ta. Kết luận thứ nhất rút ra là Chính phủ ta làm rất nhiều việc, mà toàn những việc đại sự cả. Từ chính trị, kinh tế, đến an ninh, đối ngoại.
Kết luận thứ hai: Tuy vậy nhưng lại có nhiều việc không rõ và không phù hợp. Hoạt động đối ngoại của cả nhà nước chắc chắn phải bao gồm hoạt động đối ngoại của Chủ tịch nước với vị trí là nguyên thủ quốc gia, hoạt động đối ngoại của Quốc hội. Vậy tại sao và làm thế nào Chính phủ lại thống nhất quản lý các nhiệm vụ đối ngoại của cả nhà nước? Hàng năm, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội có nhiều chuyến đi công tác nước ngoài, vậy mỗi lần đi thì Chính phủ thống nhất quản lý như thế nào? Rất khó hình dung. Liệu Chính phủ có đủ năng lực, quyền hạn để bảo đảm hiệu lực bộ máy nhà nước từ trung ương tới cơ sở được không? Làm sao người đứng đầu hành pháp lại chịu trách nhiệm bảo đảm bộ máy tòa án, viện kiểm sát hoạt động có hiệu lực?
Qua mấy chục năm đổi mới, đặc biệt là cải cách hành chính (CCHC), nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan hành chính nói chung và Chính phủ nói riêng đã nhiều lần được điều chỉnh, xác định lại cho rõ hơn. Hướng đi đúng là thu gọn lại công việc của cơ quan hành chính, không ôm đồm, bao biện làm đủ mọi việc như thời bao cấp, trên cơ sở đó sắp xếp tổ chức bộ máy phù hợp hơn.
Mặc dù có những kết quả tích cực, nhưng xoay quanh vấn đề Chính phủ làm gì vẫn nổi lên các hạn chế sau đây:
- Một là, khu vực công còn quá lớn. Nói cách khác, nhà nước, trong đó có Chính phủ, các cơ quan hành chính còn đang ôm đồm nhiều việc không nhất thiết phải làm, dẫn đến phải giải quyết, quyết định, thẩm định, cấp phép, cho phép… Cùng với đó là các thủ tục phức tạp, phiền hà, là một loạt các cơ quan với biết bao nhân lực.
Nhiều trường hợp, cơ quan hành chính cấp dưới muốn chắc ăn, cứ trình lên xin cấp trên cho ý kiến. Nếu bị công luận phê phán thì nói cái này đã được Thủ tướng chấp nhận tại văn bản này, cái kia đã được bộ trưởng đồng ý ở văn bản kia…
Dựng cổng chào ở Hà Nội chuẩn bị đại lễ ngàn năm Thăng Long, mua máy bay mới của Tổng công ty hàng không Việt Nam… đều xin ý kiến của Thủ tướng. Đây có phải là việc của Thủ tướng hay không? Nếu đúng thì quy định ở đâu? Nay mai rất có thể Hà Nội muốn dẹp xích lô có khi cũng xin ý kiến của Thủ tướng! Tội gì mà không đẩy lên cho có người chịu trách nhiệm thay.
DNNN qua nhiều năm đổi mới dù số lượng đã giảm, nhưng vẫn còn quá nhiều. Một loạt DNNN ở các ngành xây dựng, giao thông, thương mại, dịch vụ… không nhất thiết nhà nước phải tổ chức ra, phải quản lý và đặc biệt phải chi tiêu từ ngân sách nhà nước cho đầu tư, phát triển. Một lượng không nhỏ tài sản nhà nước trong tay các DNNN mà hiệu quả kinh doanh của chúng đến đâu chúng ta đều đã rõ.
Còn các cơ quan hành chính, qua nhiều năm cải cách đã gọn hơn, nhưng tổ chức bộ máy vẫn lớn, còn nhiều tầng nấc. Trung bình mỗi năm lại có thêm gần 10 huyện mới và khoảng 50 đơn vị hành chính cấp xã mới. Đơn vị hành chính gia tăng thì bộ máy phải phình to. Xu hướng chia tách xã, phường, huyện, quận vẫn khá rõ, riêng chia tách tỉnh rất may đã có vẻ chững lại.
- Hai là, trong những việc Chính phủ, cơ quan hành chính phải làm thì chưa rõ làm đến đâu.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND, chính quyền cấp nào cũng có trách nhiệm quản lý nhà nước về giáo dục, y tế trong phạm vi cấp đó.
Vấn đề là phạm vi quản lý nhà nước, phạm vi trách nhiệm của từng cấp hành chính đến đâu về giáo dục, y tế lại không rõ. Chính quyền cấp xã có chịu trách nhiệm về cơ sở vật chất, nhân lực của trường mầm non công lập trong phạm vi xã mình? Luật quy định phổ cập tiểu học bắt buộc, vậy nếu không có chỗ cho các cháu trong độ tuổi đi học thì chính quyền cấp xã có chịu trách nhiệm không? Đây là những vấn đề cụ thể phải được quy định rõ trong các văn bản pháp luật.
- Ba là, trong những việc Chính phủ, cơ quan hành chính phải làm, cũng chưa hẳn đủ rõ Trung ương làm đến đâu, địa phương làm đến đâu. 10 năm qua, việc phân cấp trung ương - địa phương đã có khá nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề, tác động không tốt đến hiệu quả hoạt động của cả hệ thống hành chính.
- Bốn là, đối với những việc phải làm thì làm chưa tốt.
Xét ở tầm vĩ mô, đó là chất lượng của thể chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch. Chính sách thuế nhập khẩu, xuất khẩu, thể chế về đất đai, thể chế về DNNN, quy hoạch phát triển ngành này, ngành kia là những ví dụ về những công việc đích đáng ở tầm bộ, Chính phủ phải làm.
Một chính sách kinh tế, một chính sách tài chính mới được ban hành, nếu sai thì vô cùng tai hại cho cả xã hội, đặc biệt là cho các doanh nghiệp.
Xét ở tầm vi mô, đó là chất lượng giải quyết các công việc của dân, tổ chức tại các cơ quan hành chính ở địa phương. Thái độ cửa quyền, ban ơn, gây phiền hà, đòi hối lộ… vẫn khá phổ biến trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức.
Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổi kinh tế, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước nói chung, của Chính phủ nói riêng đòi hỏi phải có những thay đổi phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính phủ làm sao mạnh được khi chưa rõ những loại việc nào Chính phủ phải thực sự làm, những loại việc nào nên thôi, chuyển cho tổ chức phi chính phủ, doanh nghiệp thực hiện. Chính phủ làm sao mạnh được khi vấn đề phân cấp chưa giải quyết dứt điểm. Chính phủ làm sao có hiệu lực, hiệu quả khi chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức không đáp ứng yêu cầu.
Muốn Chính phủ mạnh, hiệu quả thì đội ngũ người nhà nước phải có chất lượng, có trình độ. Trong 500 đại biểu Quốc hội khóa mới được bầu, có đến 42% trình độ trên đại học, 55% trình độ đại học. Trình độ của các thành viên Chính phủ nhiệm kỳ hiện tại, của các chức danh thứ trưởng và tương đương, vụ trưởng và tương đương ở các bộ cũng khá cao. Nếu đây là một tiêu chí để đánh giá mức độ mạnh, hiệu quả thì bộ máy hành chính Việt Nam có lẽ sẽ ở top đầu trên thế giới. Tuy nhiên, thực tiễn không hẳn như vậy. Một trong những điểm yếu kém của 10 năm CCHC chính là trình độ, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.
Hiển nhiên ông thủ tướng nào cũng muốn có được một tập hợp các vị bộ trưởng giỏi, đủ năng lực và trình độ để tham mưu cho mình, cho Chính phủ quản lý lĩnh vực, ngành mà từng vị phụ trách. Song thực tiễn cho thấy có những vị bộ trưởng cả nhiệm kỳ Chính phủ không làm tốt vai trò quản lý nhà nước ngành, lĩnh vực được giao. Công chức lãnh đạo giúp việc bộ trưởng ở tổng cục, vụ, cục chất lượng không đồng đều và có xu hướng suy giảm. Những thể chế, cơ chế, chính sách do các bộ nghiên cứu trình Chính phủ xem xét ban hành theo thẩm quyền hoặc trình Quốc hội ban hành do đó cũng kém chất lượng, hậu quả là toàn xã hội, người dân, doanh nghiệp phải gánh chịu. Rất đáng tiếc, đến nay chưa có nghiên cứu, khảo sát lấy ý kiến người dân, doanh nghiệp về chất lượng, thứ hạng quản lý nhà nước của các vị bộ trưởng. Còn ở cấp độ thực thi, thừa hành, đội ngũ cán bộ, công chức cả nước nói chung là chất lượng cũng thấp, nhất là ở cấp cơ sở. Sau 10 năm cải cách, trên 30% công chức cấp xã, khoảng 40% cán bộ cấp cơ sở chưa qua đào tạo. Với đội ngũ như vậy, rất khó có được một bộ máy hành chính, một Chính phủ mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
2. Báo Sài Gòn giải phóng có bài Phú Yên: Cháy lớn thiêu rụi hơn 100 ha rừng. Bài báo đưa tin: Khoảng 19 giờ, ngày 16-7, tại tiểu khu 204, 203 rừng Suối Lạnh, thuộc địa bàn thôn Cẩm Thạch, xã Hòa Định Tây (huyện Phú Hòa) đã xảy ra vụ cháy rừng lớn nhất trong vòng vài năm trở lại đây, ước tính diện tích thiệt hại hơn 50ha và đang tiếp tục lan tỏa ra diện rộng. Đến 13 giờ chiều ngày 17-, ngọn lửa tại rừng Suối Lạnh cơ bản được khống chế. Tuy nhiên do gió quá lớn, nên đám cháy tiếp tục lan nhanh sang rừng Đá Đen, khói lửa bốc nghi ngút, phủ trắng một góc trời. Đến 14 giờ, diện tích rừng thiệt hại ước lên đến hơn 100ha.
3. Trang Gafin.vn đưa tin: Thanh tra Bộ Tài chính kiến nghị xử lý hơn 2.500 tỷ đồng. Trong đó, tăng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) 1.020 tỷ đồng, giảm chi NSNN 756 tỷ đồng, xử lý tài chính khác 744,8 tỷ đồng.
Bộ Tài chính cho biết, sáu tháng đầu năm, Thanh tra Bộ đã lưu hành 27 kết luận thanh tra từ năm 2010 chuyển sang, thực hiện 30 cuộc thanh tra, kiểm tra đơn vị theo kế hoạch và đột xuất. Nội dung các cuộc thanh tra, kiểm tra đều gắn với việc thực hiện những giải pháp về kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Qua thanh tra, kiểm tra đã phát hiện, kiến nghị xử lý về tài chính hơn 2.520,8 tỷ đồng.
Ðồng thời, thanh tra Bộ cũng kiến nghị với Chính phủ, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan sửa đổi, bổ sung nhiều cơ chế, chính sách; kiến nghị các đơn vị được thanh tra kiểm điểm, xử lý trách nhiệm, chấn chỉnh công tác quản lý tài chính và hạch toán kế toán. Riêng công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế đã phát hiện và kiến nghị thu vào NSNN 1.886 tỷ đồng; đã thực hiện thu vào NSNN 597 tỷ đồng.
II- THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP
1. Báo Tuổi trẻ Online có bài Kiến nghị gỡ vướng cho kinh doanh đấu giá tài sản. Bài báo phản ánh: Báo cáo của Sở Tư pháp TP.HCM tại hội nghị về triển khai công tác bán đấu giá tài sản theo Nghị định 17/2010/NĐ-CP cho thấy ngoài Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản, toàn TP hiện có 1.344 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bán đấu giá. Ngoài ra, còn có 26 hội đồng bán đấu giá (được thành lập để bán đấu giá tài sản sung công quỹ, tài sản kê biên của cơ quan có thẩm quyền…) cùng hoạt động.
Theo Sở Tư pháp, nhìn chung việc đấu giá tài sản tại các doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp đảm bảo đúng quy định pháp luật. Tuy 1.344 doanh nghiệp có đăng ký chức năng đấu giá nhưng thực tế hiện chỉ có 32 doanh nghiệp, chi nhánh hoạt động đấu giá tài sản. Dù mới đi vào hoạt động nhưng một số doanh nghiệp đã có đầu tư nghiêm túc về nhân sự, cơ sở vật chất… Dự báo các doanh nghiệp kinh doanh đấu giá tài sản sẽ ngày càng phát triển.
Cũng theo Sở Tư pháp, kể từ khi thực hiện nghị định 17 (từ 1-7-2010) đến nay, hoạt động bán đấu giá của TP được đẩy mạnh. Trong năm qua, Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản đã tổ chức 229 cuộc đấu giá (trị giá tài sản hơn 597 tỉ đồng), các doanh nghiệp cũng tổ chức 286 cuộc đấu giá (trị giá tài sản 326 tỉ đồng). Nghị định 17 đã có nhiều điểm quy định mới giúp hạn chế tình trạng thông đồng trong đấu giá như tăng mức tiền đặt trước để tham gia đấu giá (tối đa tới 15%), quy định chặt chẽ về điều kiện để người trả giá liền kề được mua tài sản khi người trả giá cao nhất không mua tài sản. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều quy định liên quan hoạt động kinh doanh đấu giá tài sản chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn cho hoạt động bán đấu giá. Sở đã kiến nghị Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vướng mắc như: tổ chức đào tạo nghề đấu giá, việc lưu trữ hồ sơ bán đấu giá...
2. Báo Pháp luật & Xã hội có bài Khi giám định viên phải "mượn" luật! Bài báo phản ánh: Nói "vay, mượn" luật thì nghe có vẻ không ổn, nhưng quả tình từ năm 1995 đến nay, các giám định viên pháp y đang phải "mượn" luật. Đó là Bảng qui định tiêu chuẩn thương tật (theo Thông tư 12 của Bộ LĐ-TB&XH) được ban hành phục vụ cho khám sức khoẻ cho người lao động và thương bệnh binh, đã được giám định pháp y "mượn" để áp dụng xếp loại tỷ lệ tổn hại sức khỏe cho đương sự! Đây cũng là câu chuyện "biết rồi, vẫn phải nói", vì đã mấy năm thai nghén, mà cái Bảng tỷ lệ thương tật áp dụng riêng cho giám định y khoa hiện vẫn chưa thể ra đời.
Ai cũng biết kết luận giám định rất quan trọng. Trong rất nhiều vụ án, kết luận giám định là chứng cứ duy nhất để cơ quan tố tụng đánh giá vụ án. Và sự "vênh" nhau giữa các kết luận giám định thường khiến dư luận bức xúc, cho rằng giám định viên "có vấn đề". Việc "thiếu luật" này không chỉ làm khó cho giám định viên, khó cho các cơ quan tiến hành tố tụng mà còn gây không ít nghi ngờ, hiểu nhầm cho người dân! Oan sai thì chắc ngành nào cũng có thể xảy ra, nhưng nếu giám định viên pháp y gây nên oan sai, hoặc bị "oan sai" do thiếu luật, thì đây là nỗi oan rất "khó nói"!
Hoạt động giám định tư pháp nói chung và giám định pháp y nói riêng đã từng bị tổng kết là một trong những "điểm nghẽn" của công cuộc cải cách tư pháp. Do vậy, câu chuyện bảng tỷ lệ tổn hại sức khỏe phải đi mượn của ngành pháp y trong một quãng thời gian dài đến 16 năm, nếu không có sự thay đổi về nhận thức, thì có lẽ cũng chưa biết đến khi nào mới được ban hành. Đồng nghĩa với việc, những kết luận giám định "không thể tránh khỏi vênh nhau" vẫn được áp dụng trong tố tụng!
Báo cũng đưa tin: Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ của Sở Tư pháp tỉnh Đồng Nai, chỉ trong vòng năm năm lại đây, Đồng Nai có gần 5.000 trường hợp lấy chồng nước ngoài, xếp thứ hai cả nước (sau TP.HCM).
3. Báo Gia đình.net.vn có bài “Văn hóa tiền mặt” và chuyện phạt. Bài báo phản ánh: Tại dự thảo Luật xử lý vi phạm hành chính mà Bộ Tư pháp đang soạn thảo, chuyện phạt sẽ có những điểm mới như bổ sung hình thức buộc lao động công ích tối đa 30 giờ với một số vi phạm hành chính, trong đó có vi phạm về ATGT.
Sẽ không có gì đáng nói, nếu như chuyện phạt được thực hiện một cách nghiêm túc, đúng luật. Thế nhưng, báo chí và dư luận xã hội từng nhiều lần phơi bày các hiện trạng bất cập của chuyện phạt. Từ chuyện các vi phạm ATGT được "cho qua" thay vì lập biên bản xử lý, chuyện các cá nhân thừa hành công vụ "làm luật", nhận "mãi lộ" với tài xế và người vi phạm giao thông, vi phạm trật tự công cộng… Nay lại đến chuyện trao quyền cho người xử phạt cao hơn, nhiều hơn với hình thức xử phạt "lao động công ích" tại địa phương nơi người vi phạm cư trú thì việc phạt sẽ ngày càng nặng nề và phức tạp hơn.
Chưa nói đến chuyện thẩm quyền ra quyết định không phù hợp với tư pháp quốc tế, việc trao quyền năng này cho các lực lượng thực thi pháp luật cũng dễ dẫn tới nhiều hệ lụy. Đơn cử một ví dụ nhỏ: Một cán bộ lãnh đạo cấp huyện ở Hải Phòng chẳng hạn, khi lên Hà Nội tham gia giao thông có vi phạm đến mức phải bị xử lý hình thức lao động công ích trong phạm vi 30 giờ tại địa phương. Liệu ông (bà) cán bộ lãnh đạo này có thể chấp nhận việc sau đó phải về chường mặt ngay tại nơi mình đang làm lãnh đạo để thực hiện hành vi… lao động công ích không? Chưa kể, nếu việc đó được chấp nhận thì chính quyền địa phương nơi cán bộ này làm việc sẽ "giám sát" ra sao với việc "lao động công ích" của "sếp" mình? Chưa kể, nếu không chấp nhận được sự "muối mặt", vị cán bộ nọ có thể sẽ sử dụng mọi hình thức có thể để việc "phạt lao động công ích" không diễn ra.
Với người dân cũng vậy, nếu chẳng may vi phạm hành chính, vi phạm giao thông, đa phần cũng sẽ chọn "phương án nhanh gọn" thay cho việc về địa phương đi nhổ cỏ, trồng cây, tưới rau, sơn tường hay làm một việc tương tự nào đó. Có nghĩa là, đa phần người dân khi vi phạm sẽ bằng mọi cách để thoát khỏi việc bị xử phạt này. Khi ý thức pháp luật chưa cao, sự thực thi chưa nghiêm túc, sự kiểm tra, giám sát còn hạn chế, người ta vẫn có vô vàn cửa để "lách" các quy định phạt. Khi "văn hóa tiền mặt" vẫn còn phổ biến mà quyền năng lại được trao nhiều hơn vào một số bộ phận trực tiếp thực thi pháp luật, chuyện phạt với ý đồ "răn đe mạnh mẽ" có thể gây hiệu ứng ngược lại mong muốn tốt đẹp của nhà làm luật!
4. Báo Sài Gòn tiếp thị có bài Con nợ tẩu tán tài sản, chủ nợ bất lực. Bài báo phản ánh: Số báo trước, một hiện tượng đã được nêu, đó là có lỗ hổng trong công đoạn thi hành một bản án dân sự: vì cơ quan thi hành án hay toà chậm kê biên, phong toả nhà cửa của người phải thi hành án nên đến hạn án phải thi hành, khối tài sản của con nợ đã không cánh mà bay. Hệ quả kép: chủ nợ không lấy lại được tiền và người mua ngay tình “tiền mất tật mang” khi nhà mua bị kê biên.
Theo luật Thi hành án dân sự, trong việc cưỡng chế liên quan tài sản chung, nếu chủ sở hữu chung không khởi kiện xác định phần sở hữu của họ thì người được thi hành án hoặc chấp hành viên có quyền yêu cầu toà xác định phần sở hữu của người phải thi hành án trong khối tài sản chung để đảm bảo thi hành án. Mặc dù quy định đã rõ ràng như vậy nhưng cuối cùng phía thi hành án cũng vướng khi toà không chịu thụ lý việc xác định đâu là tài sản riêng trong khối tài sản chung của các đương sự.
Bốn năm trước, ông Nguyễn Văn Hoàng ở quận Bình Thạnh (TP.HCM) khởi kiện ông Phan Văn Tân để đòi nợ và được toà tuyên thắng kiện. Cùng lúc, kẻ thắng phát hiện người thua có một căn nhà ở quận 10 nên yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế, phát mại đối với căn nhà. Vì căn nhà trên là tài sản chung của ông Tân với người chị nên cơ quan thi hành án đã mời cả hai đến để thoả thuận phân chia tài sản, nhưng chị ông Tân không đến. Hai chủ sở hữu chung này cũng không thèm khởi kiện ra toà để xác định phần tài sản riêng của mình.
Thấy phía con nợ làm thinh, theo luật Thi hành án dân sự, ông Hoàng đã khởi kiện ra toà yêu cầu xác định phần nhà riêng của ông Tân. Tuy nhiên, toà đã trả lại đơn vì cho rằng không thuộc thẩm quyền. Toà lý giải, theo quy định của bộ luật Tố tụng dân sự, đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của ông Tân hoặc người chị (đương sự) và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó. Ông Hoàng hay cơ quan thi hành án khởi kiện là không đúng quyền, vì không phải đương sự trong vụ án mà chỉ là người ngoài. Trước tình hình đó, cơ quan thi hành án đành phải xếp hồ sơ, báo cáo khó khăn, chờ hướng dẫn.
Tháng 5.2007, vợ chồng bà Nguyễn Thị Thư (thành phố Buôn Ma Thuột, Dăk Lăk) vay của ngân hàng 750 triệu đồng. Đến thời điểm trả nợ nhưng không có tiền, bà Thư đã phải vay của bà Hoà hơn 800 triệu đồng với lãi suất hơn 4 triệu đồng/ngày. Theo thoả thuận, bà Thư sẽ vay lại ngân hàng để trả lại tiền cho bà Hoà sau khi đã thanh toán khoản vay trước.
Chờ mãi không thấy bà Thư trả nợ, biết vợ chồng bà Thư có nhà đất và xe ôtô nên bà Hoà khởi kiện ra toà. Nhưng cũng lúc này, bà Hoà hay tin bà Thư đã nợ một người khác gần 2 tỉ đồng và giao khối tài sản trên để cấn nợ. Giao dịch này cũng đã được toà công nhận trong một quyết định hoà giải thành. Thành thử khoản nợ mà bà Hoà cho bà Thư vay đã trở thành nợ khó đòi, khi bà Thư không còn có tài sản nào đáng giá, dù bà Hoà có thắng kiện.
5. Báo Thanh niên Online có bài Khai tử người sống. Bài báo phản ánh: Ông Bùi Trọng Liêm (SN 1957), hiện đang sống tại P.9, TP Đà Lạt, Lâm Đồng, nhưng lại "được" Chủ tịch UBND P.6, TP Đà Lạt cấp giấy chứng tử vào ngày 21.1.2008! Nội dung giấy chứng tử nêu rõ: ông Bùi Trọng Liêm, sinh năm 1957; chết do bệnh lúc 14 giờ 10 ngày 20.1.2008 tại số 38/10 Hai Bà Trưng, P.6, TP Đà Lạt. Bà Trương Thị Mỹ Linh, chủ nhà 38/10 Hai Bà Trưng, khẳng định: "Gia đình tôi ở ngôi nhà này 10 năm qua. Hộ khẩu không có ai tên Bùi Trọng Liêm; cũng chẳng có ai tên Liêm đến đây tạm trú và chết cả".
Ngày 13.7, ông Võ Hồng Sơn, Chủ tịch UBND P.9, ký biên bản xác minh ông Bùi Trọng Liêm đang tạm trú tại 36/4C Hùng Vương, P.9. Bà Phan Thị Kim Anh, chủ nhà 36/4C Hùng Vương, cho biết ông Liêm cùng bà L. thuê nhà 36/4C Hùng Vương để trọ từ tháng 8.2009. Sổ tạm trú do công an cấp cho ông Liêm ghi rõ: “Bùi Trọng Liêm, sinh năm 1957, CMND số 250329592; nơi thường trú 19 Chi Lăng, P.9 (Đà Lạt), chuyển đến (36/4C Hùng Vương, P.9) từ ngày 18.8.2009".
Theo đơn khiếu nại của ông Đào Tạo (Việt kiều Mỹ) gửi các cơ quan chức năng tỉnh Lâm Đồng, giấy chứng tử mà UBND P.6 cấp cho ông Liêm do bà H.T.K.C (vợ cũ của ông Liêm, đã ly hôn từ cuối năm 2000) nhờ người đến UBND P.6 làm khống. Sau khi ly hôn với ông Liêm, bà C. đã kết hôn với ông Đào Tạo vào năm 2005. Tiếp đó, ông Đào Tạo đã bảo lãnh bà C. cùng 3 con của bà (con chung với ông Liêm) qua Mỹ. Năm 2008, bà C. lại yêu cầu ông Tạo nhận 3 con của bà làm con nuôi. Trong quá trình làm thủ tục, tòa án ở Mỹ đòi hỏi phải có giấy xác nhận sự đồng ý của ông Bùi Trọng Liêm (đang sống ở VN). Thay vì nộp giấy này, bà C. đưa cho ông Tạo giấy chứng tử của ông Bùi Trọng Liêm để nộp cho tòa án ở Mỹ. Do ông Liêm đã “chết”, nên 3 con của bà C. được hoàn tất thủ tục làm con nuôi của ông Tạo.
Chiều 13.7, ông Dương Văn Bình, Phó bí thư Đảng ủy P.6 (nguyên Chủ tịch UBND P.6), thừa nhận giấy chứng tử của ông Bùi Trọng Liêm do chính ông ký. Ông Bình cho biết thêm, chữ viết trong giấy chứng tử là của bà Phan Thị Mai, nguyên cán bộ Văn phòng UBND P.6; nhưng bà Mai đã xuất cảnh qua Mỹ theo gia đình chồng. Còn khi kiểm tra hồ sơ lưu cấp giấy chứng tử vào ngày 21.1.2008 thì không có ai tên Bùi Trọng Liêm.
Sáng 14.7, PV Thanh Niên đến nhà 36/4C Hùng Vương tìm gặp ông Bùi Trọng Liêm. Cầm giấy chứng tử ghi rõ tên mình, ông Liêm buồn bã nói: “Tôi giật mình khi cách đây vài ngày có một cán bộ P.6 đến nhà trọ gặp tôi và báo cho tôi biết có một giấy chứng tử mang tên Bùi Trọng Liêm... Sau khi ly hôn với bà C., hơn 10 năm qua, tôi không liên lạc với bà ấy”.
Vụ việc “thật như đùa” này đang được các quan chức năng làm rõ.
6. Báo Dân trí có bài Nhiều “bất thường” trong vụ cưỡng chế ngôi nhà 194 Phố Huế. Bài báo phản ánh: Vì sao khi TANDTC đã có quyết định hủy “Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự” nhưng cơ quan thi hành án quận Hai Bà Trưng vẫn cưỡng chế ngôi nhà 194 Phố Huế đang là câu hỏi mà các cơ quan chức năng cần sớm vào cuộc làm rõ.
Theo Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM, Cty TNHH Bắc Sơn (Cty Bắc Sơn) xác nhận nợ Ngân hàng Công thương Việt Nam, Chi nhánh Cầu Giấy, số tiền cả gốc và lãi là 25,5 tỷ đồng. Theo thỏa thuận, Cty Bắc Sơn cam kết trả ngân hàng số tiền gốc là 15 tỷ trong vòng 3 tháng kể từ ngày 19/12/2007. Trong trường hợp Cty Bắc Sơn không thực hiện theo cam kết trên thì ngân hàng có quyền xử lý tài sản thế chấp theo luật định. Trong khối tài sản đảm bảo thế chấp cho các khoản nợ của Cty Bắc Sơn có quyền sở hữu ngôi nhà và quyền sử dụng đất tại 194 Phố Huế (Hà Nội).
Ngày 6/1/2009, Chi cục Thi hành án quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) có Quyết định số 03 thi hành án theo Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM. Ngày 24/2/2009 có quyết định kê biên và kê biên diện tích nhà đất tại 194 Phố Huế nhằm đảm bảo thi hành quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 143/2007/QĐST-KDTM. Ngày 24/8/2009, ngôi nhà trên đã được Chi cục Thi hành án quận Hai Bà Trưng và Cty CP Bán đấu giá nhà Hà Nội tiến hành bán đấu giá.
Ngày 4/9/2009, Viện trưởng VKSND Tối cao có Quyết định kháng nghị số 29/QĐ-KNGĐT-V12, đề nghị Tòa Kinh tế (TANDTC) xét xử theo hướng hủy quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự số Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM. Ngày 21/12/2010 Tòa Kinh tế (TANDTC) có Quyết định giám đốc thẩm số 18/2010/KDTM-GĐT, theo đó hủy Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 143/2007/QĐST-KDTM ngày 20/12/2007 của TAND TP Hà Nội do quyết định này có thiếu sót trong quá trình giải quyết vụ án. Và giao hồ sơ vụ án cho TAND TP Hà Nội xét xử sơ thẩm lại theo quy định của pháp luật.
Luật Thi hành án Dân sự quy định về đình chỉ thi hành án nêu rõ: “Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định đình chỉ thi hành án trong các trường hợp sau: Bản án, quyết định bị hủy một phần hoặc toàn bộ” (điểm d, khoản 1, Điều 50 Luật Thi hành án Dân sự năm 2008).
Trao đổi với PV Dân trí, luật sư Trương Anh Tú, Trưởng Văn phòng Luật sư Trương Anh Tú (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) cho hay: Theo quy định trên, khi Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM không còn hiệu lực pháp luật thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án quận Hai Bà Trưng đáng lẽ phải ra quyết định đình chỉ thi hành án cho đến khi có một bản án hoặc một quyết định mới có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án quận Hai Bà Trưng đã không thực hiện theo điều luật trên mà căn cứ vào khoản 5, điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự để tiếp tục thực hiện việc thi hành án theo Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM.
Theo đó, khoản 5, Điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT, quy định “…Trường hợp bản án, quyết định bị kháng nghị đã được tổ chức thi hành một phần thông qua bán đấu giá nay bị hủy, sửa thì cơ quan thi hành án tiếp tục hoàn thiện thủ tục theo quy định của pháp luật cho bên mua đấu giá, trừ trường hợp thủ tục bán đấu giá vi phạm quy định của pháp luật”.
Theo luật sư Trương Quốc Hòe, Trưởng Văn phòng Luật sư Interla, thì việc Chi cục Thi hành án quận Hai Bà Trưng áp dụng khoản 5, điều 2 Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT để không ra quyết định đình chỉ thi hành án là trái với quy định của pháp luật, bởi “Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT có hiệu lực kể từ ngày 15/9/2010 thì không thể áp dụng ngược trở lại để điều chỉnh một vụ án kinh doanh thương mại được giải quyết bằng quyết định số 143 ngày 20/7/2007 và có quyết định thi hành án từ ngày 6/1/2009”, luật sư Hòe phân tích.
Mặt khác, theo luật sư Hòe, thủ tục bán đấu giá ngôi nhà 194 Phố Huế cũng có những sai phạm nghiêm trọng, do đó Chi cục Thi hành án quận Hai Bà Trưng không thể áp dụng Thông tư liên tịch số 14/2010/TTLT để tiếp tục thi hành án theo Quyết định số 143/2007/QĐST-KDTM.
Cụ thể, khi ông Hoàng Đình Mậu, nguyên GĐ Cty Bắc Sơn qua đời, các đồng thừa kế của ông Mậu đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau đối với khối di sản mà ông Mậu để lại. Việc Chi cục Thi hành án quận Hai Bà Trưng khi kê biên căn nhà 194 Phố Huế không hỏi hết toàn bộ ý kiến các đồng thừa kế là trái với các quy định của pháp luật về thừa kế.
Mặt khác, các con của ông Mậu đang trực tiếp sinh sống tại ngôi nhà 194 Phố Huế nên họ là đối tượng được ưu tiên mua đấu giá nếu căn nhà được phát mại. Tuy nhiên, khi tiến hành kê biên, tổ chức bán đấu giá căn nhà số 194 Phố Huế ngày 24/08/2009, Chi cục thi hành án Hai Bà Trưng và đơn vị bán đấu giá đã không thông báo cho các đồng thừa kế của ông Hoàng Đình Mậu - những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ việc này được biết và tham dự. Việc làm này đã vi phạm nghiêm trọng tới nguyên tắc công khai, khách quan… và trình tự thủ tục cần phải thực hiện khi bán đấu giá tài sản thi hành án.