I- THÔNG TIN VỀ NHỮNG SỰ KIỆN NỔI BẬT CỦA ĐẤT NƯỚC:
1. Báo Người lao động phản ánh: Ngày 11-7, tại cuộc họp báo nhân ngày Dân số Thế giới , bà Mandeep Janeia, Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) tại Việt Nam, cho biết ngày 31-10, dân số thế giới sẽ đạt 7 tỉ người, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình phát triển.
Tại Việt Nam, dân số hiện nay đạt trên 87 triệu người, là nước đông dân thứ 13 trên thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực. Mặc dù tuổi thọ trung bình của người Việt Nam tương đương với các quốc gia khác trong khu vực có mức phát triển cao hơn Việt Nam, tuy nhiên, tuổi thọ khỏe mạnh lại chưa cao. Trung bình mỗi người cao tuổi ở Việt Nam phải chịu 14 năm bị bệnh tật trong tổng số 72,8 năm trong cuộc sống của mình.
Báo cũng phản ánh: Hôm qua (11-7), Phó Chủ tịch Tổng LĐLĐ Việt Nam Mai Đức Chính đã có buổi làm việc với Công đoàn Tổng Công ty Máy động lực và Máy nông nghiệp (VEAM) - đối tác trong liên doanh và là Công đoàn cấp trên của Công đoàn Công ty Toyota Việt Nam (TMV), về vụ việc TMV đình chỉ 3 tháng đối với kỹ sư Lê Văn Tạch.
Ông Mai Đức Chính cho biết để củng cố hồ sơ, chứng cứ vụ việc, Tổng LĐLĐ Việt Nam sẽ có buổi làm việc trực tiếp với kỹ sư Tạch trong thời gian tới. “Vụ việc này không chỉ dừng lại ở quyết định tạm đình chỉ 3 tháng mà còn liên quan đến cách xử sự của TMV” - ông Chính nói.
Báo cũng phản ánh: Tại Bến hoa Thành cổ (thị xã Quảng Trị, tỉnh Quảng Trị), sáng 10-7, đã diễn ra đại lễ cầu siêu các anh hùng liệt sĩ Thành cổ Quảng Trị. Theo TTXVN, đại lễ cầu siêu được tổ chức từ 6 giờ kéo dài tới 19 giờ cùng ngày với các phần nghi lễ của nhà Phật; lễ cung thỉnh anh linh anh hùng liệt sĩ, trao tặng 200 suất quà…
2. Báo Sài Gòn giải phóng phản ánh: Ngày 11-7, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã chủ trì hội nghị trực tuyến với các tỉnh, thành sơ kết thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân và nông thôn (Nghị quyết số 26-NQ/TW - NQ 26).
Sau 2 năm triển khai thực hiện thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới cấp xã tại 11 xã điểm ở 11 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng miền, đã dần dần hình thành được mô hình nông thôn mới thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa trên thực tế theo cấp độ xã và thôn, bản ở các vùng. Tuy nhiên, để Nghị quyết thực sự đạt hiệu quả cao, nhất là để xây dựng được nông thôn mới với các mục tiêu đã đặt ra, các thành viên Chính phủ và các địa phương đều nhận thấy, hàng loạt vấn đề cần tiếp tục được quan tâm. Trong đó có xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, nhất là hạ tầng về giao thông, thủy lợi; đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật; trồng, chăn nuôi các loại cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng, có sức cạnh tranh và lợi thế trên thị trường… Tuy còn nhiều khó khăn nhưng các địa phương đều quyết tâm xây dựng nông thôn mới với tiêu chí cụ thể đến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới. Nhiều địa phương phấn đấu đạt cao hơn mục tiêu 20%, như Hà Nội quyết tâm thực hiện mục tiêu 40%.
Báo cũng phản ánh: Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngày 11-7 đã ra phán quyết cuối cùng ủng hộ 2 trong 3 nội dung khiếu kiện cơ bản của Việt Nam trong vụ kiện Mỹ áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với tôm đông lạnh xuất khẩu của Việt Nam. Trong đó nêu rõ Mỹ áp dụng phương pháp quy về 0 (hay còn gọi là zeroing) để tính thuế chống bán phá giá là vi phạm quy định của WTO. Đây là khiếu kiện trọng tâm của Việt Nam, vì việc sử dụng phương pháp này đã tạo ra biên độ phá giá lớn cho sản phẩm, làm mức thuế bị đội lên, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp xuất khẩu tôm của Việt Nam. Mức thuế chống bán phá giá của Mỹ đối với hầu hết các nhà xuất khẩu tôm của Việt Nam được ấn định từ 4,13% đến 25,76%.
WTO cũng ủng hộ khiếu kiện chính thứ 2 của Việt Nam chống lại Mỹ với phán quyết nêu rõ Mỹ sử dụng kết quả tính theo phương pháp quy về 0 để tính mức thuế suất chung trong các đợt rà soát lần 2 và lần 3 là trái với quy định của WTO.
II- NHỮNG THÔNG TIN LIÊN QUAN ĐẾN CÔNG TÁC TƯ PHÁP:
1. Báo Pháp luật Việt Nam có bài Chứng thực văn bản song ngữ, người dân thêm quyền lựa chọn. Bài báo phản ánh: Thay vì phải đến hai nơi cho một yêu cầu về chứng thực như hiện nay, tới đây người dân có thể được lựa chọn hoặc phòng Tư pháp cấp huyện hoặc UBND cấp xã.
Lo hồ sơ xin việc cho con vào một công ty nước ngoài, những ngày vừa rồi chị Minh Hồng ở Mỹ Đình, Từ Liêm, Hà Nội phải “mướt mồ hôi” vì lo khoản chứng thực giấy tờ. Lý do là trong hồ sơ xin việc của cô con gái “cưng” của chị có quá nhiều loại văn bản khác nhau. Chị phải đến UBND cấp xã để xin chứng thực các văn bản bằng tiếng Việt, và phải lên phòng Tư pháp huyện xin “chứng” văn bản bằng tiếng nước ngoài do cô con gái chị từng tham gia một số lớp đào tạo của nước ngoài tại Việt Nam. Nắng nóng lại thêm cảnh đi lại, chờ đợi, chị Hồng ao ước, giá chỉ phải đến một trong hai địa điểm nêu trên… Những vướng mắc như trường hợp của chị Hồng là một trong những vấn đề nổi cộm được Bộ Tư pháp thừa nhận sau ba năm thi hành Nghị định số 79/CP về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.
Cũng theo Bộ Tư pháp, theo quy định tại khoản 1 Điều 5 của Nghị định số 79/CP thì Phòng Tư pháp cấp huyện chỉ có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài và chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản bằng tiếng nước ngoài mà không có thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt và chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt. Còn thẩm quyền chứng thực đối với bản sao từ bản chính giấy tờ, văn bản bằng tiếng Việt thuộc về UBND cấp xã. Tuy nhiên, quy định nói trên đã gây phiền hà cho người yêu cầu chứng thực bởi lẽ việc phân biệt văn bản, giấy tờ bằng tiếng Việt hay bằng tiếng nước ngoài khá phức tạp. Trên thực tế, không chỉ có giấy tờ, văn bản, bằng tiếng Việt hay tiếng nước ngoài thuần túy mà có nhiều loại xen kẽ với nhau. Dẫn đến tình trạng đùn đẩy nhiệm vụ giữa UBND cấp huyện và UBND cấp xã. Thực tế, nhiều trường hợp người dân phải chạy tới chạy lui vì không cơ quan nào chịu giải quyết yêu cầu của họ
Cũng theo Bộ Tư pháp, trong trường hợp khi có yêu cầu chứng thực đối với nhiều văn bản, giấy tờ (có loại bằng tiếng Việt, có loại bằng tiếng nước ngoài…) cùng một lúc, người dân sẽ vừa phải đến phòng Tư pháp cấp huyện để yêu cầu chứng thực bản sao văn bản, giấy tờ bằng tiếng nước ngoài, vừa phải đến UBND cấp xã để yêu cầu chứng thực bản sao văn bản, giấy tờ bằng tiếng Việt. Như vậy, sẽ rất phiền hà cho người dân (trường hợp của chị Hồng nêu trên là một ví dụ)…
Báo cũng có bài “Gỡ “vướng“ cho mô hình TGPL cơ sở tại Phú Thọ. Bài báo phản ánh: Trợ giúp pháp lý (TGPL) hướng về cơ sở không chỉ thể hiện thông qua hoạt động trợ giúp lưu động mà còn được thể hiện trong tổ chức, hoạt động của các Câu Lạc bộ TGPL và việc triển khai thành lập, đi vào hoạt động của các Chi nhánh của Trung tâm TGPL Nhà nước. Đối với Phú Thọ cũng vậy, mô hình TGPL ở cơ sở đã được triển khai tích cực nhưng vẫn gặp không ít khó khăn cần tháo gỡ.
Đến nay, Phú Thọ đã thành lập được 5 Chi nhánh đặt tại các huyện, hoạt động theo các cụm huyện phù hợp với lộ trình cải cách tư pháp và mục tiêu quy hoạch. Mặt khác, các CLB TGPL đã được hình thành trên diện rộng với 110 CLB ở các xã nghèo, 43 CLB ở các xã đặc biệt khó khăn, 2 CLB hoạt động theo nguồn Quỹ TGPL và 12 CLB thành lập xuất phát từ nhu cầu thực tế. Việc mở rộng, đa dạng hóa các loại hình hoạt động TGPL tại cơ sở sẽ là điều kiện căn bản để người dân kịp thời nắm bắt được thông tin và được thụ hưởng dịch vụ pháp lý miễn phí. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, mạng lưới các Chi nhánh bước đầu đi vào hoạt động còn gặp nhiều vướng mắc như chưa có nguồn kinh phí để tổ chức các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ; sự hiểu biết về mô hình hoạt động TGPL ở nhiều các cơ quan, ban ngành còn hạn chế nên tinh thần phối hợp chưa cao; hoạt động tuyên truyền, quảng bá về các Chi nhánh chưa được thường xuyên, kịp thời đến với người dân...
Các CLB TGPL tuy đã được thành lập ở nhiều xã nhưng hoạt động chưa xứng tầm với vai trò, ý nghĩa đặt ra, vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Điều này xuất phát từ việc chính quyền cơ sở chưa quan tâm, quản lý sát sao; các thành viên trong Ban chủ nhiệm còn thiếu lòng nhiệt tình, trách nhiệm; nguồn kinh phí hỗ trợ cho các CLB còn thấp... Ngoài ra, hoạt động của các cộng tác viên còn rời rạc, thiếu tính chủ động mà một phần là do chế độ thù lao còn thấp nên không động viên, khuyến khích họ tham gia kịp thời. Do vậy, để mô hình TGPL tại cơ sở ngày càng phát triển thì cần phải có những giải pháp cả về trước mắt lẫn lâu dài nhằm tháo gỡ dần những khó khăn, vướng mắc với các nhiệm vụ trọng tâm. Trước mắt, cần tổ chức xây dựng một Đề án cấp tỉnh về việc củng cố, kiện toàn và mở rộng mạng lưới TGPL tại cơ sở để có đủ cơ sở lý luận cho việc triển khai tổng thể các giải pháp. Đối với những người làm công tác TGPL và tham gia với công tác TGPL cần nêu cao vai trò, tinh thần gương mẫu, trách nhiệm cũng như tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng kịp với những yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra.
Các cơ quan có thẩm quyền các cấp xem xét, sửa đổi bổ sung pháp luật về TGPL theo hướng quy định cụ thể chế tài pháp lý đối với những trường hợp không có hoặc còn thiếu tinh thần, trách nhiệm phối kết hợp; có cơ chế đảm bảo đầy đủ nguồn kinh phí hoạt động cho các Chi nhánh, các CLB TGPL; tăng định mức chi trả thù lao cho các cộng tác viên để khuyến khích họ tham gia tích cực; thường xuyên hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát mô hình TGPL tại cơ sở, trong các cơ quan, ban ngành tham gia vào mối quan hệ phối kết hợp để có biện pháp chấn chỉnh, xử lý kịp thời…
2. Báo Dân Việt có bài Trung Quốc thuê đất: Có hiện tượng lách luật. Bài báo phản ánh: Thực ra, về mặt pháp lý thì người nước ngoài gồm các cá nhân và tổ chức được quyền thuê đất nông nghiệp ở Việt Nam để sản xuất nhưng họ phải lập dự án, làm thủ tục đầu tư ở Việt Nam (Điều 73, Luật Đất đai 2003).
Việc cơ quan có thẩm quyền Việt Nam có cấp phép cho dự án thuê đất nông nghiệp hay không đấy là chuyện khác. Hiện tượng các hộ dân thuê đất hộ cho thương gia Trung Quốc là các thương gia này đang lách luật Việt Nam để đỡ tốn các thủ tục đầu tư, tốn kém làm thủ tục trình dự án khi thuê đất và tránh vấn đề nhạy cảm khi thuê đất nông nghiệp, vì họ đã rút kinh nghiệm từ việc thuê đất rừng vừa qua. Theo tôi các cấp thẩm quyền phải xem xét quy hoạch vùng, cơ cấu cây trồng và an ninh lương thực. Trong bối cảnh công nghiệp hóa đã làm mất rất nhiều đất cho sản xuất công nghiệp rồi, diện tích đất nông nghiệp còn lại ngày càng giảm dần mà để cho nước ngoài thuê sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống sản xuất của nông dân.
Nếu vùng nào cần chuyển đổi cây trồng cho phù hợp thì có thể cho người nước ngoài thuê bình thường nhưng không cho thuê với thời gian quá dài. Hoặc như tỉnh Vĩnh Long là vùng an ninh lương thực của cả nước về lúa gạo thì không nên cho chuyển sang trồng khoai. Người dân cũng không vì lợi ích trước mắt mà tiếp sức cho thương gia Trung Quốc lách luật.