Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, bởi đây là vấn đề quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước. Ở bất kỳ nhà nước nào, nếu công tác phòng, chống tham nhũng không thực hiện triệt để và hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế, chính trị của đất nước.
Trong thực thi luật PCTN thì bộ phận doanh nghiệp có vai trò rất lớn bởi đây là bộ phận trụ cột của nền kinh tế đất nước. Mặc dù có vai trò quan trọng như vậy nhưng đã có một bộ phận không nhỏ các doanh nghiệp có những hành vi kinh doanh không lành mạnh, gian lận để trục lợi đồng thời có những dấu hiệu vi phạm các quy định Luật phòng chống, tham nhũng. Mặc dù nhà nước đã có nhiều biện pháp tích cực để hạn chế nhưng tệ nạn này vẫn có chiều hướng gia tăng và diễn biến theo chiều hướng phức tạp, tinh vi.
1. Vài nét về bức tranh tham nhũng trong doanh nghiệp
Cần phải hiểu tham nhũng thường bắt nguồn từ cái gốc là quyền lực. Một cá nhân tham nhũng được là vì cá nhân đó có chức, có quyền trong bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy doanh nghiệp nói riêng.
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”. Như vậy, ba yếu tố cơ bản tạo nên tham nhũng là: yếu tố chức vụ, quyền hạn, yếu tố lợi dụng chức vụ quyền hạn và yếu tố vụ lợi.
Luật cũng quy định về 12 hành vi tham nhũng là : Tham ô tài sản ; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi (Điều 3)
Song song với việc ban hành Luật phòng chống tham nhũng, Chính phủ cũng đã hoàn thiện nhiều chính sách pháp luật để phát triển kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Việt Nam hoạt động như Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005, Luật Đấu thầu, Luật Sở hữu trí tuệ 2005… và nhiều văn bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, Việt Nam là một nước đang phát triển, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi nên việc quản lý kinh tế còn nhiều tồn tại hạn chế. Lợi dụng điều này, một số cá nhân có chức vụ, quyền hạn và một số doanh nghiệp đã không bỏ qua cơ hội lợi dụng để tham nhũng, trục lợi bằng nhiều hình thức khác nhau.
Thực tế cho thấy, hầu hết những vụ án tham nhũng lớn, nghiêm trọng được đưa ra xét xử trong thời gian vừa qua đều có liên quan đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Vậy tham nhũng trong doanh nghiệp phát sinh trong các trường hợp nào?
Thứ nhất, tham nhũng phát sinh trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu của doanh nghiệp.
Hình thức chủ yếu là người có chức vụ quyền hạn thực hiện các hành vi: cố tình kéo dài thời gian giải quyết công việc, hướng dẫn chung chung, cố tình soi xét, bắt lỗi, hoặc dựa vào các quy định không rõ ràng để gây khó khăn cho doanh nghiệp, đưa ra những thông tin mang tính hù doạ, gây sức ép, gợi ý trực tiếp hoặc gián tiếp để doanh nghiệp phải đưa hối lộ nếu muốn nhanh chóng được giải quyết …Thực tế cho thấy đa phần các doanh nghiệp chấp nhận yêu cầu trái pháp luật của các nhân có trách nhiệm giải quyết, thậm chí nhiều doanh nghiệp còn chủ động thực hiện hành vi hối lộ trước khi trao đổi công việc với đại diện của cơ quan nhà nước. Đây là cách xử sự thường thấy nhất ở các doanh nghiệp và nó có tính chất hối lộ nhưng với mục đích là giải quyết công việc một cách nhanh chóng nên doanh nghiệp sẵn sàng chấp nhận điều đó như một điều đương nhiên.
Thứ hai, tham nhũng phát sinh khi có sự móc ngoặc giữa các doanh nghiệp với người có chức vụ, quyền hạn của khu vực công.
Điều này được thể hiện trong việc doanh nghiệp thực hiện các hành vi móc ngoặc với những người có chức vụ, quyền hạn trong các cơ quan nhà nước, tổ chức để dành được những lợi thế cạnh tranh bất hợp pháp. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng, đấu thầu, xin cấp phép dự án đầu tư hoặc có liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, vận chuyển hàng hoá thì tình trạng này chiếm tỉ lệ cao và thường có tính chất, mức độ vi phạm nghiêm trọng với giá trị tài sản lớn.
Thứ ba, tham nhũng phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp
Đây là tình trạng thường thấy hiện nay. Có thể nhận biết điều này thông qua một số hành vi cụ thể như : Doanh nghiệp câu kết, móc nối với nhân viên hải quan để buôn bán hàng cấm hoặc khai man số lượng hàng xuất, nhập khẩu; Gian dối trong việc thực hiện các dự án đầu tư trong nước và đầu tư ra nước ngoài thông qua việc lập chứng từ khống để chiếm đoạt tài sản; lợi dụng tình trạng thua lỗ của doanh nghiệp, tạo ra sự phá sản giả để hợp pháp hoá chứng từ, sổ sách kế toán nhằm thu lợi bất chính; lợi dụng chính sách cổ phần hoá, giao, bán, doanh nghiệp nhà nước để chiếm đoạt tài sản của nhà nước thông qua các hình thức như: Định giá tài sản doanh nghiệp thấp so với giá trị thực; bỏ tài sản của doanh nghiệp (tài sản cố định, bất động sản, tài sản cho thuê...) ra ngoài sổ sách kế toán; treo nợ khống; báo cáo sai lệch về tình hình tài chính của doanh nghiệp khi cổ phần hoá, trục lợi bất chính;
Hiện nay, do cơ chế giám sát hoạt động của doanh nghiệp chưa được thực hiện đồng bộ nên nhiều doanh nghiệp lợi dụng các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh chưa được phản ánh đồng thời trong dữ liệu của cơ quan thuế. Các doanh nghiệp chưa phải thực hiện chế độ kiểm toán định kỳ, bắt buộc nên những biểu hiện của hành vi tham nhũng diễn ra thường xuyên và ngày càng tinh vi. Mục đích của những việc làm sai trái này nhằm làm giảm chi phí sản xuất, trốn tránh nghĩa vụ với cơ quan nhà nước để trục lợi. Đây là tình trạng thường gặp nhất trong phần lớn các vụ tham nhũng có liên quan tới doanh nghiệp.
2. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng trong doanh nghiệp có chiều hướng gia tăng
Tham nhũng liên quan đến doanh nghiệp được biểu hiện rất đa dạng, tinh vi và luôn tồn tại trong hoạt động của doanh nghiệp. Điều này xuất phát từ một số nguyên nhân chính sau:
Nhóm nguyên nhân thứ nhất thuộc về cơ chế chính sách cụ thể là:
- Những chính sách bao cấp, bảo hộ, độc quyền bất hợp lý.
Trong khi nước ta đã hội nhập với nền kinh tế thế giới, đồng thời quá trình thực hiện những cam kết của tổ chức thương mại thế giới WTO đã bước sang năm thứ hai thì ở Việt Nam vẫn có chính sách độc quyền đối với một số lĩnh vực. Điều này là không phù hợp bởi chế độ bao cấp, bảo hộ độc quyền diễn ra trong một thời gian dài sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh, không đạt được những hiệu quả về mặt kinh tế- xã hội mà còn làm cho doanh nghiệp nhà nước càng ỷ lại vào Nhà nước, tạo ra môi trường cho tham nhũng phát triển.
- Quy định về thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà :
Về nguyên tắc, thủ tục hành chính càng qua ít cửa càng hạn chế được nhũng nhiễu và tham nhũng. Kể từ sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhà nước ta cũng đã đơn giản hoá nhiều thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh tuy nhiên, tại một số cơ quan, cơ chế “xin – cho” - một điển hình của thủ tục hành chính hiện nay vẫn còn tồn tại gây nhũng nhiễu, yêu sách.
Thực chất, cơ chế xin – cho là việc làm cần thiết nhằm bảo đảm quyền quản lý, giám sát của chủ sở hữu, nhằm hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp khi quyền này làm tổn hại đến lợi ích và trật tự xã hội. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để hạn chế được tham nhũng gắn với cơ chế xin – cho đó bởi theo điều tra của Ban Nội chính Trung ương, cơ chế xin cho là nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Cơ chế này có tác động trực tiếp đến lợi ích của cả hai bên nên rất dễ phát sinh tham nhũng. Nhận định này được 72,1% số cán bộ quản lý doanh nghiệp được hỏi đồng ý - một tỷ lệ cao nhất trong 8 nguyên nhân thuộc 4 nhóm (các nguyên nhân thuộc về cơ chế, chính sách, pháp luật, các nguyên nhân liên quan đến công tác cán bộ, các nguyên nhân liên quan đến công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tham nhũng và các nguyên nhân mang tính xã hội).
Nhóm nguyên nhân thứ hai là con người:
Tham nhũng thường bắt nguồn từ quyền lực. Những người nắm giữ những quyền lực trong tay thường là nguyên nhân phát sinh hành vi tham nhũng. Một cá nhân khi đã không giữ được phẩm chất, tư cách, bị lợi ích vất chất chi phối thì thường tư lợi vì mục đích cá nhân nhất là trong điều kiện ở nước ta hiện nay chưa có chế độ giám sát chặt chẽ trong hoạt động thực thi công vụ của bộ phận cán bộ, cũng như chưa có cơ chế quản lý đối với lãnh đạo các doanh nghiệp trong tổ chức hoạt động. Do đó, tình trạng này ngày càng có chiều hướng gia tăng với tính chất phức tạp. Theo báo cáo điều tra tham nhũng ở Việt Nam do Ban Nội chính Trung ương thực hiện cuối năm 2005 thì có tới 56,6 cán bộ, công chức được lấy ý kiến cho rằng: cấp trên trực tiếp của mình tham nhũng ở các mức độ khác nhau. Và khi cấp trên có biểu hiện của hành vi tham nhũng thì việc chỉ đạo cấp dưới thực thi tốt luật PCTN là không có hiệu quả.
Một nội dung nữa trong nhóm nguyên nhân này là vai trò của cá nhân trong việc tố cáo tham nhũng: Ở Việt Nam, công tác tố cáo tham nhũng còn bị hạn chế bởi tâm lý, thói quen và việc áp dụng cơ chế bảo vệ người tố cáo còn chưa được thực hiện triệt để dẫn đến tình trạng người phát hiện hành vi tham nhũng nhưng không dám tố cáo để tránh phiền hà, rắc rối.
Nhóm nguyên nhân thứ ba thuộc về cơ chế kiểm tra, kiểm toán giám sát hoạt động của doanh nghiệp còn chưa chặt chẽ:
Ở một số nước trên thế giới, ngoài việc giám sát nội bộ doanh nghiệp, giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước, họ còn đề cao vai trò giám sát của chủ nợ, bạn hàng, đối thủ cạnh tranh, các phương tiện thông tin đại chúng, cộng đồng doanh nghiệp và hiệp hội doanh nghiệp. Ngoài ra, chính sách đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, quản trị nội bộ doanh nghiệp đối với những doanh nghiệp mà nhà nước còn giữ 100% vốn được thực hiện theo chế độ công ty cổ phần nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả của giám sát nội bộ. Với họ, việc giám sát nội bộ thị trường, nội bộ doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước vẫn chưa đủ mà cần có đánh giá khách quan hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là tình hình tài chính. Do vậy, việc thực hiện kiểm toán đối với báo cáo tài chính hàng năm của doanh nghiệp bởi một công ty độc lập là quy định bắt buộc. Công ty kiểm toán phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính độc lập, khách quan, trung thực về kết quả kiểm toán. Những quy định chặt chẽ được áp dụng đã hạn chế tối đa nạn tham nhũng trục lợi.
Ở Việt Nam , đối với doanh nghiệp do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu thì cơ chế giám sát chưa được chặt chẽ.
Chế độ kiểm toán đôi khi còn chưa được thực hiện thường xuyên, triệt để. Việc trốn thuế, khai khống chứng từ, lập chứng từ giả, vẫn tiếp diễn ở nhiều doanh nghiệp đặc biệt là trong một số doanh nghiệp đang tiến hành thủ tục cổ phần hoá.
Ngoài ra, chúng ta cũng thiếu một cơ chế phù hợp trong việc tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách về phòng chống tham nhũng, thiếu một hệ thống giải pháp có tính chất căn bản, lâu dài, toàn diện, thiếu một lộ trình cụ thể, hợp lý để thực hiện tốt các chủ trương chính sách hiện hành về phòng chống tham nhũng.
3. Một số giải pháp phòng ngừa, phát hiện và đẩy lùi tham nhũng
3.1. Biện pháp phòng ngừa:
Đây là vấn đề quan trọng hàng đầu, được đặt làm trọng tâm bởi hầu hết các nhóm giải pháp phòng ngừa, phát hiện tham nhũng được nêu ra trong Luật phòng chống tham nhũng đều có liên quan đến việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp. Cụ thể: công khai, minh bạch hoá hoạt động của bộ máy nhà nước; Xây dựng, hoàn thiện và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh các chế độ, định mức tiêu chuẩn; Qui tắc ứng xử của cán bộ công chức; qui tắc đạo đức nghề nghiệp; chuyển đổi vị trí công tác của cán bộ, công chức, viên chức ; việc tặng quà và nhận quà tặng; Minh bạch tài sản của cán bộ công chức; Trách nhiệm của người đứng đầu trong cơ quan, tổ chức đơn vị để xảy ra tham nhũng; Cải cách hành chính, đổi mới công nghệ quản lý và phương thức thanh toán.
Đó là 6 nhóm giải pháp chính được quy định trong Luật phòng chống tham nhũng. Tuy nhiên, tại báo cáo về công tác phòng chống tham nhũng từ tháng 10/2007 đến tháng 8/2008 của Thanh tra Chính phủ báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thì ngoài những chuyển biến tích cực trong công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thì các vụ việc tham nhũng có chiều hướng gia tăng.
3.2. Phát hiện tham nhũng
Tham nhũng trong doanh nghiệp càng ngày càng có chiều hướng gia tăng về mức độ và tính chất. Muốn phát hiện cần phải thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, giám sát, xét xử:
Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm thường xuyên hoặc đột xuất kiểm tra nhằm chủ động phát hiện và kịp thời xử lý hành vi tham nhũng; cơ quan quản lý có trách nhiệm thường xuyên kiểm tra hoạt động chấp hành pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của mình nhằm kịp thời phát hiện hành vi tham nhũng. Cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, điều tra... có trách nhiệm chủ động phát hiện hành vi tham nhũng thông qua thực hiện nhiệm vụ công vụ được giao.
Trong phát hiện tham nhũng của doanh nghiệp, cần tập trung vào công tác kế toán, đặc biệt là chứng từ kế toán. Đa số các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý tài chính, tham ô, tham nhũng, vụ lợi cho cán nhân hay tập thể ... trong các doanh nghiệp đều bắt nguồn từ việc làm sai lệnh chứng từ kế toán
Thứ hai, tố cáo và giải quyết tố cáo về hành vi tham nhũng
Tố cáo là một kênh quan trọng trong phát hiện hành vi tham nhũng. Luật phòng, chống tham nhũng quy định cơ chế bảo vệ người tố cáo, quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị trong tiếp nhận và xử lý tố cáo hành vi tham nhũng, khen thưởng người tố cáo...
4. Giải pháp đẩy lùi tệ nạn tham nhũng
4.1. Về phía cơ quan nhà nước
Bên cạnh việc thực hiện Luật PCTN, cần đẩy mạnh việc thực hiện tốt chiến lược quốc gia về phòng chống tham nhũng giai đoạn 2010-2020 (được xây dựng năm 2007)
Chiến lược này được Chính phủ giao cho Thanh tra Chính phủ phối hợp với văn phòng Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng xây dựng mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn và các giải pháp toàn diện, đồng bộ với kế hoạch hành động, lộ trình cụ thể xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong trong hệ thống chính trị xã hội với việc phòng chống tham nhũng với 5 nhóm giải pháp nhằm ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng, loại bỏ các cơ hội điều kiện phát sinh tham nhũng góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch như sau:
- Thứ nhất, tăng cường công khai minh bạch trong hoạt động công quyền, hạn chế điều kiện và cơ hội phát sinh tham nhũng trong việc hoạch định chính sách, xây dựng và thực hiện pháp luật.
- Thứ hai, kiểm soát việc thực thi quyền lực Nhà nước, hoàn thiện chế độ công vụ, công chức, nâng cao chất lượng thực thi công vụ.
- Thứ ba, hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch.
- Thứ tư, nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử trong phát hiện, xử lý tham nhũng.
- Thứ năm, nâng cao nhận thức và phát huy vai trò của toàn xã hội trong phòng chống tham nhũng.
Trong năm nhóm giải pháp trên thì có thể thấy giải pháp thứ ba tập trung vào khu vực doanh nghiệp. Đây là một giải pháp quan trọng, thể hiện việc hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế đảm bảo tính minh bạch, công bằng và cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Cơ quan quản lý Nhà nước khi thực hiện các chính sách kinh tế đối với doanh nghiệp phải thực hiện một cách minh bạch và nhất quán nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thông qua việc điều chỉnh chiến lược phát triển, sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư, cải cách hành chính nhà nước, cải cách lĩnh vực tài chính, ngân hàng, nâng cao chất lượng quy hoạch, đầu tư hạ tầng, chống tham nhũng, lãng phí, thất thoát vốn đầu tư...
Xác định rõ tình trạng tham nhũng đến nhiều từ khu vực công, doanh nghiệp là một trong những nơi nuôi dưỡng tham nhũng nhiều nên trong chương trình thực hiện mà chiến lược đề ra các vấn đề pháp lý liên quan đến doanh nghiệp được đặc biệt chú trọng.
Khi chiến lược này đi vào thực hiện thì bắt buộc các cơ quan Nhà nước phải hoàn thiện cơ chế để doanh nghiệp hoạch toán chính xác, trung thực các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong hoạt động sản xuất kinh doanh và được phản ánh đồng thời trong dữ liệu của cơ quan thuế. Các doanh nghiệp đều phải thực hiện chế độ kiểm toán định kỳ, bắt buộc.
Đẩy mạnh công tác hoàn thiện pháp luật về thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường lao động. Các hành vi gian lận trong kinh doanh, trong đó cả hành vi hối hối lộ công chức phải được xử lý nghiêm và mang tính triệt để.
Việc nghiên cứu quy định bắt buộc đăng ký bất động sản, thuế tài sản, thực hiện việc đăng ký thuế thu nhập cá nhân, thanh toán tài khoản, xây dựng luật chống rửa tiền.
Vấn đề cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện nay cũng nảy sinh nhiều dấu hiệu tham nhũng dưới nhiều hình thức, do đó cần đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật về chuyển đổi và cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt chú trọng việc xác định giá trị tài sản doanh nghiệp và xử lý tài sản công trong quá trình thực hiện cổ phần hoá.
Các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có hành vi tham nhũng phải bị công bố công khai danh tính. Đây sẽ là một biện pháp để hạn chế tham nhũng đến từ khu vực tư.
4. 2. Về phía doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề
Phòng chống tham nhũng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó, vai trò, trách nhiệm của của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp và hiệp hội ngành nghề là rất quan trọng. Chính từ điều này mà Chính phủ rất kỳ vọng cộng đồng doanh nghiệp chủ động, tích cực có tính xây dựng trong phòng chống tham nhũng để góp phần kiến tạo môi trường kinh doanh lành mạnh, công khai, minh bạch, không có tham nhũng và có tính cạnh tranh cao.
Theo đó, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề cần phải đẩy mạnh tổ chức tuyên truyền pháp luật về phòng chống tham nhũng cho cán bộ, người lao động trong doanh nghiệp, vận động họ thực hiện tốt Luật Phòng chống tham nhũng.
Các hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề cần động viên, khuyến khích doanh nghiệp xây dựng văn hoá kinh doanh lành mạnh phi tham nhũng và tổ chức các hình thức phù hợp động viên, giáo dục cán bộ, người lao động thực hiện các qui tắc ứng xử phòng ngừa tham nhũng.
Khi phát hiện có hành vi tham nhũng, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề phải có trách nhiệm thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo trình tự, thủ tục đã được pháp luật qui định. Khi nhận được yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền, doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề phải cung cấp thông tin mình có được về vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, áp dụng các biện pháp cần thiết trong phạm vi quyền hạn của mình phối hợp với cơ quan có thẩm quyền xác minh, làm rõ. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, cộng đồng doanh nghiệp cần chủ động kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ các văn bản pháp luật không phù hợp làm phát sinh tham nhũng hoặc cơ hội để tham nhũng góp phần hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước cũng như hiệu quả phòng chống tham nhũng.
Doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề là những kênh thông tin quan trọng giữa khu vực doanh nghiệp với cơ quan quản lý nhà nước trong công tác phòng chống tham nhũng. Thông qua kênh thông tin này, cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý những cán bộ, công chức nhà nước thoái hoá, biến chất, nhũng nhiễu khi giải quyết các công việc liên quan đến doanh nghiệp; ngược lại, có thể phát hiện, ngăn chặn, xử lý các biểu hiện đưa hối lộ của doanh nghiệp với mục đích tạo lợi thế cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động kinh doanh, thương mại”.
Như vậy, có thể nói các hoạt động không lành mạnh của doanh nghiệp là môi trường lý tưởng cho tham nhũng. Nếu doanh nghiệp làm ngơ hay tiếp tay cho tham nhũng (hối lộ), hậu quả của nó sẽ tác động rất xấu đến sự phát triển của nền kinh tế, của đất nước, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Còn nếu doanh nghiệp “nói không” với hối lộ và không tiếp tay cho tham nhũng thì chính họ đã chủ động tham gia tích cực vào “cuộc chiến” phòng chống tham nhũng, bảo đảm được uy tín doanh nghiệp không bị gặp các rủi ro, bất trắc. Muốn tham gia góp phần vào việc ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng trước tiên doanh nghiệp cần phải thực hiện quản lý công ty công khai, minh bạch, nâng cao được tính nhất quán và minh bạch trong quan hệ.
Các hiệp hội đại diện cho doanh nghiệp có trách nhiệm phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các diễn đàn trao đổi, cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp phục vụ công tác phòng chống tham nhũng; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đấu tranh phòng chống tham nhũng. Sự tích cực chủ động tham gia chống tham nhũng, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh phi tham nhũng cũng là điều kiện tiền đề, là nền tảng để xây dựng văn hoá kinh doanh giúp doanh nghiệp phát triển bền vững./.
LH