Quảng Ngãi: Hoạt động thẩm định văn bản quy phạm pháp luật -Thực trạng và kiến nghị

19/05/2008
Công tác thẩm định văn bản là một khâu trọng yếu trong thủ tục xây dựng và ban hành bản quy phạm pháp luật. Ở tỉnh Quảng Ngãi công tác này đã được Sở Tư pháp tham mưu cho UBND tỉnh thực hiện tương đối sớm, bắt đầu từ năm 1992, trước khi Luật Ban hành văn bản QPPL của trung ương và Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 được ban hành quy định về vấn đề thẩm định văn bản của cơ quan tư pháp.

Vào thời điểm đó, việc thẩm định được thực hiện dưới hình thức góp ý văn bản và các sở, ban, ngành chuyển dự thảo văn bản đến Sở Tư pháp thẩm định trước khi trình UBND tỉnh ban hành lúc đó như thành một thông lệ theo chỉ đạo của UBND tỉnh nhằm đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp trước khi ban hành.

 Sau khi Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 có hiệu lực, hoạt động thẩm định văn bản của Sở Tư pháp Quảng Ngãi được tổ chức thực hiện theo quy định của luật. Thể chế hoá quy định của Trung ương, Sở Tư pháp Quảng Ngãi đã xây dựng và trình UBND tỉnh ban hành Quyết định số 04/2007/QĐ-UBND để quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo và ban hành văn bản QPPL, trong đó có quy định về công tác tổ chức thẩm định văn bản trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.

Từ khi triển khai thực hiện thẩm định văn bản theo quy định của Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004,  thực trạng chất lượng văn bản thẩm định của Sở Tư pháp Quảng Ngãi hơn ba năm qua đã thẩm định được 482 dự thảo văn bản, riêng 04 tháng đầu năm 2008, đã thẩm định được 42 dự thảo văn bản. Trong tổng số các dự thảo văn bản đã thẩm định này, có khoảng 30 dự thảo văn bản được thẩm định lại lần thứ hai, thứ ba. Nhìn chung văn bản dự thảo trước khi trình ký, đều được triển khai thẩm định theo đúng quy định của luật, đảm bảo theo đúng phạm vi, trình tự thẩm định quy định tại khoản 3, Điều 38 Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004, đó là: sự cần thiết ban hành; đối tượng, phạm vi điều chỉnh; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật; ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo; về tính khả thi của văn bản

Trong báo cáo thẩm định, Sở luôn nêu rõ ý kiến về từng vấn đề, có sự phân tích, dẫn chiếu chặt chẽ các quy định của pháp luật trong từng ý kiến thẩm định hoặc đưa ra các dẫn chứng minh hoạ. Nội dung trọng tâm trong thẩm định là tập trung sâu vào: “tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật”, vì đây là phần quan trọng và cốt lõi nhất của một dự thảo văn bản QPPL. Khi nhận thấy chất lượng của dự thảo văn bản thấp, Sở thường đưa ra nhận định về tính khả thi đối với những nội dung quy định còn thiếu tính khả thi hoặc nhận định tính khả thi cả dự thảo nếu như văn bản đó có nhiều nội dung quy định không phù hợp với quy định của pháp luật và không sát với thực tiễn của địa phương để cơ quan soạn thảo lưu ý.

Mức độ phát hiện sai sót, khiếm khuyết về nội dung quy định của các dự thảo văn bản khi chuyển đến thẩm định tương đối nhiều và tỷ lệ sai sót về nội dung trong các dự thảo có xu hướng tăng lên, chiếm khoảng 70% các sai sót của văn bản. Ngoại trừ các dự thảo văn bản là chỉ thị có nội dung đơn giản, nên sai sót ít, còn lại các dự thảo là nghị quyết, quyết định qua thẩm định phát hiện có từ ba đến năm nội dung quy định trái hoặc không phù hợp với quy định của Trung ương và thực tiễn của địa phương. Qua thẩm định cho thấy nguyên nhân các dự thảo văn bản bị sai sót nhiều về mặt nội dung quy định đó là: Những dự thảo không được đăng ký trong chương trình xây dựng văn bản QPPL hàng năm của UBND tỉnh nên bị động, thường xây dựng gấp gáp, thiếu sự chuẩn bị, không khảo sát được thực tế, đặc biệt trước kỳ họp HĐND tỉnh, văn bản gửi thẩm định nhiều nhưng không có dự kiến kế hoạch trước; nhiều cơ quan tham mưu soạn thảo chưa cập nhật, nắm bắt một cách có hệ thống các quy định của Trung ương về lĩnh vực, ngành mà dự thảo quy định; năng lực về soạn thảo văn bản QPPL của một số sở, ban, ngành còn hạn chế; việc lấy ý kiến của các sở, ban, ngành và các cơ quan, cá nhân có liên quan không được tiến hành đầy đủ.

Một trong những sai sót mang tính phổ biến hầu hết ở các văn bản là sai sót về thể thức văn bản. Tuy nội dung này không khó nhưng lại mang tính tiểu tiết, cộng với việc nhiều cơ quan soạn thảo không quan tâm đến vấn đề hình thức, mà chỉ tập trung vào mặt nội dung nên phần nhiều các dự thảo văn bản thường có sai sót ở phần này. Chính vì vậy khi thẩm định, các yếu tố về mặt thể thức như: quốc hiệu; tên cơ quan ban hành; số và ký hiệu; địa danh, ngày, tháng, năm ban hành; tên loại văn bản; trích yếu văn bản; viết đúng chính tả, ngữ pháp tiếng Việt và văn phong pháp luật; nơi nhận luôn được xem xét cẩn thận, vì đây là một trong những thành phần quan trọng tạo nên giá trị của văn bản, nếu vi phạm thì văn bản đó bị xem là văn bản không hợp pháp và sau khi ban hành có thể bị xử lý theo quy định về kiểm tra và xử lý văn bản của Chính phủ tại Nghị định số 135/2003/NĐ-CP.

          Đối với công tác tổ chức thẩm định, Sở luôn quan tâm và đề cao mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan thẩm định với cơ quan soạn thảo. Một số cơ quan đã có nhận thức và thực hiện tương đối tốt việc phối hợp gửi dự thảo đến cho Sở Tư pháp thẩm định và tiếp thu ý kiến thẩm định. Tuy nhiên, sự phối hợp này vẫn còn hạn chế, nhiều cơ quan gửi hồ sơ thẩm định không đầy đủ, thiếu các tài liệu cơ bản như văn bản của Đảng, văn bản tổng hợp ý kiến góp ý của các cơ quan, đối tượng có liên quan, văn bản mà dự thảo quy định sửa đổi, bổ sung, thay thế. Chính vì để đảm bảo cơ sở cho công tác thẩm định, Sở Tư pháp nhiều lúc phải tự chủ động liên hệ với cơ quan dự thảo để thu thập hồ sơ, tài liệu. Sự phối hợp, giải trình ý kiến trong quá trình thẩm định đối với những vấn đề, nội dung phức tạp cũng chỉ dừng lại ở mức độ trao đổi đơn giản, chứ Sở chưa có điều kiện để tiến hành mời đại diện của cơ quan soạn thảo, các cơ quan liên quan để tổ chức thảo luận. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại một số trường hợp cơ quan dự thảo văn bản không gửi Sở Tư pháp thẩm định mà gửi trực tiếp cho UBND tỉnh.

          Về mối quan hệ phối hợp trong công tác thẩm định văn bản giữa Văn phòng UBND tỉnh với Sở Tư pháp và cơ quan soạn thảo trong hơn 03 năm qua thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên, vẫn còn một số trường hợp Văn phòng UBND tỉnh làm phiếu chuyển thay cho cơ quan dự thảo yêu cầu Sở Tư pháp thẩm định (theo thống kê sơ bộ từ năm 2006 đến nay, Sở Tư pháp Quảng Ngãi nhận khoảng 10 Phiếu chuyển của Văn phòng UBND tỉnh yêu cầu thẩm định); còn một số trường hợp, Văn phòng UBND trình thẳng UBND tỉnh ban hành mà không có thẩm định của Sở Tư pháp hoặc văn bản Sở Tư pháp từ chối thẩm định, không đồng ý ban hành nhưng vẫn được Văn phòng UBND trình ban hành hoặc chuyển sang ban hành dưới hình thức văn bản cá biệt, thậm chí ban  hành bằng Công văn. Trong khi đó, UBND tỉnh đã ban hành Quy chế làm việc và ban hành Quy định về trình tự, thủ tục soạn thảo, ban hành văn bản và Văn phòng UBND tỉnh đã nhận thức được vấn đề này nhưng vẫn chưa tổ chức thực hiện đầy đủ. Một vài trường hợp ý kiến thẩm định của cơ quan tư pháp không được cơ quan soạn thảo tiếp thu đầy đủ cũng chưa được Văn phòng UBND tỉnh xem xét, trao đổi lại với cơ quan thẩm định. Chính vì vậy chất lượng một số văn bản khi ban hành trong trường hợp này vẫn còn những sai sót.

          Đối với các dự thảo văn bản QPPL do Sở Tư pháp Quảng Ngãi chủ trì soạn thảo thì không thực hiện thẩm định. Hiện nay luật chưa quy định rõ ràng và theo quan điểm của Sở Tư pháp Quảng Ngãi, thì Sở Tư pháp là cơ quan có chức năng tham mưu cho UBND tỉnh về công tác xây dựng văn bản QPPL, văn bản của Sở được tổ chức soạn thảo chặt chẽ nên sai sót không đáng kể, vì vậy không tiến hành thẩm định mà thay vào đó chỉ tổ chức gửi dự thảo đến các phòng, đơn vị thuộc Sở  lấy ý kiến góp ý để đơn vị chủ trì tham mưu dự thảo tổng hợp, chỉnh lý trước khi trình UBND tỉnh xem xét ban hành và thực tế thì chưa có văn bản nào sai sót do cơ quan tư pháp dự thảo.

          Về tổ chức, phân công công tác thẩm định văn bản của Sở do Phòng Xây dựng, thẩm định và kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (gọi tắt là Phòng Văn bản pháp quy) thực hiện, có chức năng tham mưu thẩm định các dự thảo văn bản QPPL của các sở, ban, ngành chuyển đến. Để quản lý về mặt chuyên môn thẩm định, Giám đốc Sở Tư pháp Quảng Ngãi phân công cho 01 Phó Giám đốc, cử nhân luật chính quy phụ trách về lĩnh vực văn bản. Dự thảo văn bản sau khi được lãnh đạo Sở có ý kiến chỉ đạo thẩm định, phụ trách phòng sẽ giao cho một chuyên viên nghiên cứu và viết báo cáo thẩm định, chịu trách nhiệm giải trình nội dung thẩm định với Trưởng phòng và Phó Giám đốc Sở xem xét ký báo cáo thẩm định. Thông thường, việc phân công thẩm định được giao theo năng lực, sở trường nghiên cứu của chuyên viên về lĩnh vực đó, đối với những lĩnh vực phức tạp như thuế, đất đai, kinh doanh, đầu tư… thì có thể phân công 02 hoặc 03 chuyên viên cùng phối hợp thẩm định. Đối với những văn bản có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của các phòng, đơn vị thuộc Sở thì được phân công đơn vị có liên quan phối hợp tham gia ý kiến. Những thay đổi, chỉnh sửa về dự thảo báo cáo thẩm định đều được lưu vào hồ sơ và báo cáo thẩm định được duyệt cuối cùng khi lưu luôn có duyệt ký của lãnh đạo sở, phụ trách phòng và chuyên viên trực tiếp tham mưu thẩm định để chịu trách nhiệm về nội dung thẩm định.

          Về cán bộ làm công tác thẩm định và những điều kiện đảm bảo đối với hoạt động thẩm định của Sở Tư pháp Quảng Ngãi hiện có 05 chuyên viên làm công tác thẩm định (trong đó có 01 Phó Trưởng phòng phụ trách), vừa trực tiếp làm công tác thẩm định văn bản, vừa làm công tác soạn thảo, góp ý văn bản, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản, tham mưu công tác pháp chế, đăng ký giao dịch bảo đảm, xây dựng hương ước, quy ước trên địa bàn tỉnh. 100% đều tốt nghiệp đại học chính quy, 04/05 công chức là cử nhân luật và 01 là cử nhân hành chính, giữa các công chức này có sự đồng đều, không cách biệt nhau nhiều về năng lực chuyên môn, vì trong quá trình tổ chức cán bộ, Sở luôn lưu ý đến vấn đề bố trí cán bộ lâu năm có kinh nghiệm và công chức trẻ, mới tuyển dụng vào để có sự đào tạo, kế thừa liên tục về chuyên môn, vì vậy khi luân chuyển nhân sự làm công tác thẩm định đến vị trí khác vẫn duy trì được chất lượng chuyên môn. Chính vì vậy, nhìn chung đội ngũ công chức làm công tác thẩm định của Sở đảm bảo tham mưu có hiệu quả đối với công tác văn bản nói chung và  các công tác chuyên môn khác.

          Thời gian thẩm định bình quân đối với một dự thảo được thực hiện trong vòng 05-07 ngày kể từ ngày tiếp nhận, đối với các dự thảo là chỉ thị hoặc văn bản ban hành đột xuất theo chỉ đạo của UBND tỉnh thì Sở tiếp nhận thẩm định trong khoảng thời gian từ 01 – 03 ngày.

          Các điều kiện hỗ trợ cho hoạt động thẩm định văn bản như công báo, tài liệu tham khảo, cơ sở dữ liệu luật, máy vi tính, mạng Internet đều đã được bố trí, trang bị tương đối tốt và đầy đủ. Về kinh phí chi cho hoạt động thẩm định văn bản, cuối năm 2006, Sở Tư pháp Quảng Ngãi đã tham mưu cho UBND tỉnh ban hành quy định tạm thời về kinh phí hỗ trợ cho công tác soạn thảo, thẩm định văn bản và hiện nay kinh phí thẩm định được thực hiện theo hướng dẫn của Thông tư số 09/2007/TTLT-BTP-BTC của liên Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính. Bước đầu, UBND tỉnh đã bố trí kinh phí cho công tác thẩm định của Sở Tư pháp Quảng Ngãi trong ba năm 2006-2008 khoảng 90 triệu đồng. Việc hỗ trợ kinh phí này là rất cần thiết, tạo điều kiện công tác thẩm định văn bản hoạt động ngày một tốt hơn.

          Về mức độ tiếp thu ý kiến thẩm định, Lãnh đạo HĐND và UBND tỉnh, các sở, ban, ngành trong tỉnh đã nhận thấy vai trò, tầm quan trọng của công tác văn bản và đa số trước khi ký ban hành hoặc trình HĐND tỉnh thông qua mà chưa có ý kiến thẩm định của Sở Tư pháp thì lãnh đạo UBND tỉnh đều chỉ đạo phải thẩm định rồi mới ký. Vì vậy, mức độ tiếp thu ý kiến thẩm định của cơ quan dự thảo đối với thẩm định của Sở Tư pháp Quảng Ngãi trong thời gian qua tương đối cao, chiếm khoảng 90% số ý kiến thẩm định. Nhiều cơ quan đã chủ động đề nghị thẩm định và xem đây là công việc cần thiết cho việc xây dựng văn bản, ngoài ra còn có cơ quan đề nghị Sở Tư pháp giúp trong việc soạn thảo và thẩm định dự thảo. Chính vì chất lượng văn bản thẩm định cao, nên trong hai năm qua, UBND tỉnh còn thường giao thêm việc cho Sở Tư pháp xem xét tính pháp lý của các vụ việc cụ thể, phức tạp mà không thuộc chức năng của ngành tư pháp để tham mưu có ý kiến về mặt pháp luật cho UBND tỉnh trước khi quyết định.

           Với thực trạng nêu trên, bên cạnh kết quả đạt được thì nguyên nhân của tồn tại đó là còn có một số vướng mắc, khó khăn đó là:

Thứ nhất, phạm vi thẩm định văn bản được quy định tại Điều 38 của Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 (đó là: sự cần thiết ban hành, đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự thảo quyết định, chỉ thị; tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo quyết định, chỉ thị với hệ thống pháp luật; ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản) trong quá trình triển khai áp dụng chưa có sự thống nhất, còn có những quan điểm khác nhau trước hết là về sự cần thiết ban hành văn bản. Để đưa ra ý kiến cho rằng dự thảo văn bản đó cần thiết ban hành hay không, cơ sở pháp lý mà cơ quan thẩm định dựa vào đó để đưa ra nhận định là phạm vi ban hành văn bản được quy định tại Điều 2 Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 nhưng nội dung này được quy định mang tính khái quát chung chưa được hướng dẫn cụ thể, vì vậy, cơ sở để cơ quan thẩm định cho rằng việc ban hành văn bản đó là không cần thiết chưa thực sự thuyết phục được  cơ quan dự thảo. Trong khi đó, hiện nay đang tồn tại tình trạng Trung ương ban hành quy định nào thì địa phương ban hành quy định đó, mặc dù có nhiều lĩnh vực văn bản của Trung ương đã quy định, hướng dẫn khá chi tiết không yêu cầu địa phương phải ban hành văn bản để quy định lại lĩnh vực đó, dẫn đến một số văn bản của địa phương được ban hành dưới dạng sao chép lại các quy định của Trung ương thành của địa phương. Điều này đã gây lãng phí rất nhiều về mặt thời gian, chi phí hành chính, nhưng luật lại chưa đề cập đến vấn đề này. Tiếp theo là về tính hợp hiến, hợp pháp của văn bản. Nội dung này cũng chưa được quy định hoặc hướng dẫn rõ ràng tính hợp hiến, hợp pháp gồm những thành phần nào trong văn bản. Điều này dẫn đến khi trình bày báo cáo thẩm định văn bản, có quan điểm thì cho rằng căn cứ pháp lý ban hành của văn bản là thuộc vào phần phạm vi “ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản” chứ không thuộc phạm vi “tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo với hệ thống pháp luật”, nên trình bày nội dung này vào phần “ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo văn bản”. Nhưng cũng có quan điểm ngược lại, bởi vì, theo hướng dẫn tại ấn bản sách “Sổ tay nghiệp vụ soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND các cấp” do Vụ Pháp luật hình sự - hành chính, Bộ Tư pháp biên soạn năm 2007, hướng dẫn căn cứ pháp lý ban hành là thuộc phần phạm vi “ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo”. Trong khi đó, nếu hiểu theo quy định của Nghị định số 135/2003/NĐ-CP của Chính phủ về kiểm tra và xử lý văn bản QPPL thì những nội dung được liệt kê trong phần “ngôn ngữ, kỹ thuật soạn thảo” lại không có căn cứ pháp lý ban hành.

 Thứ hai, hiện nay khi Việt Nam đã gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thì việc thẩm định lại cần phải lưu ý đến các quy định có liên quan đến  điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập. Tuy nhiên, lĩnh vực này lại quá rộng và còn mới mẻ, chưa được tập hợp lại một cách có hệ thống nên nhiều vấn đề cơ quan thẩm định chưa thể nắm bắt đầy đủ, dẫn đến lúng túng và bị động trong việc xác định nội dung của dự thảo quy định có phù hợp với điều ước, cam kết quốc tế mà Việt Nam đã tham gia hay không.

Thứ ba, việc ban hành văn bản QPPL theo quy định của luật là phải đăng ký trong chương trình xây dựng văn bản QPPL hàng năm của UBND tỉnh, nhưng thực tế hàng năm có khoảng 40% – 50% số lượng văn bản gửi thẩm định nằm ngoài chương trình xây dựng văn bản QPPL của UBND tỉnh (năm 2007, Sở Tư pháp Quảng Ngãi đã thẩm định hơn 50% dự thảo văn bản nằm ngoài chương trình). Điều này đã làm cho cơ quan thẩm định luôn ở trong tình trạng bị động, vì ngoài công tác thẩm định ra, đơn vị thẩm định còn tham mưu xử lý nhiều công tác chuyên môn khác, trong đó có công tác kiểm tra văn bản tại HĐND, UBND các huyện tốn rất nhiều thời gian.

          Thứ tư, vẫn còn nhiều cơ quan soạn thảo không tuân thủ đầy đủ việc gửi hồ sơ thẩm định, đã gây khó khăn cho cơ quan thẩm định trong việc đảm bảo thời gian, chất lượng thẩm định văn bản, cũng như ảnh hưởng đến hoạt động điều hành quản lý nhà nước ở địa phương nhưng lại chưa có chế tài để xử lý trách nhiệm này.

          Thứ năm, Văn phòng UBND tỉnh còn một số trường hợp chưa thực sự phối hợp tốt trong khâu thẩm định văn bản, khi để cho một số dự thảo văn bản QPPL vi phạm trình tự, thủ tục vẫn được ban hành, làm cho vai trò của công tác thẩm định vẫn chưa thực sự được tất cả các cơ quan chú trọng. Đối với việc thông qua văn bản QPPL đã được luật quy định nhưng Văn phòng UBND tham mưu cho UBND tỉnh triển khai thực hiện chưa chặt chẽ, vẫn còn trình ban hành một số văn bản không tổ chức họp UBND để thảo luận thông qua. Thậm chí có những văn QPPL đã qua thẩm định nhưng khi trình UBND thì chuyển sang dưới dạng hình thức văn bản cá biệt để tránh trình tự, thủ tục thông qua. Chính sự chưa chấp hành đầy đủ trình tự, thủ tục thông qua này, đã tạo ra tiền lệ không tốt cho hoạt động xây dựng văn bản mà trước mắt là các sở, ban, ngành trong tỉnh.

          Thứ sáu, hiện nay chưa có chế tài để quy định việc xử lý trách nhiệm đối với trường hợp ký ban hành văn bản QPPL nằm ngoài chương trình, không qua thẩm định, văn bản qua thẩm định không đủ điều kiện ban hành nhưng vẫn ban hành, văn bản QPPL đã được xây dựng, thẩm định theo trình tự thủ tục văn bản QPPL nhưng chuyển sang ban hành dưới dạng cá biệt… Điều này đã làm ảnh hưởng đến mục tiêu xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật hiện nay.

          Thứ bảy, hiện tại ở địa phương đa số cán bộ làm công tác thẩm định văn bản kiêm luôn cả công tác kiểm tra văn bản và nhiều công tác chuyên môn khác (ở Quảng Ngãi đơn vị làm công tác thẩm định văn bản kiêm luôn cả kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá, góp ý văn bản, pháp chế, hương ước, quy ước) đã làm cho công tác văn bản chưa thực sự đồng đều về mặt chất lượng chuyên môn. Vì việc thẩm định văn bản đòi hỏi nhiều thời gian, trong khi đó công tác kiểm tra văn bản và những công tác chuyên môn khác cũng không kém phần quan trọng, dẫn đến tình trạng để đảm bảo chất lượng cho công tác thẩm định thì công tác kiểm tra văn bản lại không có đủ thời gian để thực hiện, ngược lại để đảm bảo chất lượng cho công tác kiểm tra văn bản thì chất lượng thẩm định văn bản sẽ bị ảnh hưởng.

            Để nâng cao chất lượng trong công tác thẩm định văn bản ở địa phương, qua thực tiễn thẩm định văn bản nêu trên, giải pháp khắc phục khó khăn, tồn tại của công tác thẩm định văn bản cần phải có quy định, hướng dẫn cụ thể hơn đối với những nội dung quy định về phạm vi thẩm định văn bản được tại Điều 38 của Luật Ban hành văn bản QPPL của HĐND, UBND năm 2004 nhằm tạo sự thống nhất giữa cơ quan thẩm định với cơ quan soạn thảo và giữa những người làm công tác thẩm định với nhau. Cần ban hành chế tài quy định và xử lý trách nhiệm trong việc vi phạm trình tự thủ tục xây dựng, ban hành văn bản QPPL để đảm bảo trình tự, thủ tục ban hành văn bản QPPL được thực hiện nghiêm chỉnh, góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Hàng năm định kỳ nên tổ chức thực hiện bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ thẩm định văn bản đối với lực lượng cán bộ, công chức làm công tác thẩm định văn bản của địa phương, trong đó chú trọng tập huấn chuyên sâu vào lĩnh vực văn bản khó như đầu tư, tài chính, đất đai, WTO. Đề nghị Bộ Tư pháp phối hợp với Bộ Nội vụ cần sớm ban hành văn bản để quy định, hướng dẫn cụ thể về việc tổ chức lại bộ máy làm công tác thẩm định với kiểm tra văn bản của Sở Tư pháp để tổ chức chuyên sâu hoạt động thẩm định với hoạt động kiểm tra văn bản và cũng đề nghị Bộ Tư pháp kịp thời tham mưu cho Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản để chỉ đạo, chấn chỉnh về công tác xây dựng, ban hành văn bản ở địa phương nhằm đảm bảo các quy định của pháp luật về công tác văn bản được thực thi đầy đủ, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, công chức lãnh đạo ở địa phương về vai trò, tầm quan trọng của công tác văn bản nói chung và công tác soạn thảo, thẩm định văn bản nói riêng. Vì hiện nay Trung ương chưa có ban hành văn bản chỉ đạo, giám sát nào về lĩnh vực soạn thảo, thẩm định văn bản ở địa phương. Đồng thời, Bộ Tư pháp cần quan tâm, hỗ trợ về mặt chuyên môn thẩm định của địa phương nhiều hơn nữa, cụ thể là trong quá trình thẩm định khi địa phương gặp vướng mắc cần xin ý kiến thì đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm có ý kiến chỉ đạo, phúc đáp sớm, kịp thời. Ngoài ra, đề nghị Bộ Tư pháp quan tâm xem xét hỗ trợ kinh phí cho những dự án về công tác văn bản ở địa phương. Để tương xứng với việc đầu tư thời gian, chất xám cho việc thẩm định văn bản, đề nghị xem xét điều chỉnh mức hỗ trợ cho công tác thẩm định văn bản theo Thông tư số 09/2007/TTLT-BTP-BTC của liên Bộ Tư pháp và Bộ Tài chính.

          Để nâng cao chất lượng của công tác văn bản nói chung và thẩm định nói riêng, bên cạnh những người làm công tác thẩm định văn bản phải có năng lực, kinh nghiệm và bản lĩnh thì việc nhận thức, trách nhiệm và quyết tâm của lãnh đạo chính quyền địa phương thực hiện đúng những quy định của pháp luật đã quy định về trình tự, thủ tục và ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đó là điều dẫn đến quyết định sự thành công./.

Hữu Duy