Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật theo tinh thần văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam

26/11/2021
1. Hiệu quả thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay
- Quan niệm về hiệu quả thi hành pháp luật:
Ban hành Hiến pháp, pháp luật không phải mục đích cuối cùng của đất nước. Hiến pháp, pháp luật được ban hành là để điều chỉnh các quan hệ xã hội, trật tự, củng cố và phát triển chúng theo những định hướng mong muốn nhằm đạt được những kết quả, mục tiêu nhất định, trong đó có mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Và điều đó chỉ có thể đạt được khi những chỉ dẫn, mệnh lệnh của các quy định trong Hiến pháp, pháp luật được thi hành có hiệu quả trong đời sống xã hội, thể hiện ở hành vi thực tế, hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, những người có chức vụ, quyền hạn và các cá nhân. Vì vậy, V.I. Lênin đã cho rằng, vấn đề quan trọng không phải là ban hành thật nhiều luật, mà quan trọng là thực hiện chúng trên thực tế. Trong thư gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (thời kỳ 1991- 1997) Đỗ Mười đã viết: “Có một hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ cũng mới chỉ là có được một yếu tố cần của Nhà nước pháp quyền, nhưng chưa đủ. Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân, đòi hỏi pháp luật phải được thi hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất và công bằng, theo nguyên tắc mọi người đều bình đẳng trước pháp luật[1]. Như vậy, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp, pháp luật là điều kiện không thể thiếu của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, của một xã hội văn minh.
Thi hành pháp luật là hành vi thực tế, hợp pháp, được hình thành trong quá trình các tổ chức và cá nhân khi gặp phải tình huống thực tế mà pháp luật đã dự liệu, trên cơ sở nhận thức của mình, chuyển hoá một cách sáng tạo các quy tắc xử sự chung mà nhà nước đã ban hành vào tình huống cụ thể đó thông qua hành vi thực tế hợp pháp của mình, nói cách khác, những đòi hỏi, cấm đoán, hay cho phép của pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân đã được biểu hiện thành các hành vi thực tế hợp pháp của họ. Thi hành pháp luật được xem là hình thức để nhà nước thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình, quản lý, bảo vệ, thúc đẩy phát triển xã hội, còn đối với các tổ chức khác hoặc các cá nhân thì đó là việc thực hiện các quyền, tự do, hoặc các nghĩa vụ pháp lý của họ mà pháp luật đã quy định, vì lợi ích của mỗi tổ chức, cá nhân, cũng như của cả cộng đồng xã hội.
Hiệu quả thi hành pháp luật là một đại lượng so sánh, thể hiện ở kết quả và chất lượng của việc thi hành các quy định pháp luật trên thực tế (kết quả thực tế tích cực đạt được do việc thi hành pháp luật mang lại, phù hợp với những mục đích, yêu cầu mong muốn đạt được của việc thi hành pháp luật trong những phạm vi và điều kiện nhất định với mức chi phí thấp). Kết quả và chất lượng của việc thi hành các quy định pháp luật trên thực tế thể hiện thông qua việc so sánh: giữa trạng thái của các quan hệ xã hội trước và sau khi pháp luật được thi hành; giữa những biến đổi tích cực với những biến đổi không tích cực của các quan hệ xã hội do việc thi hành pháp luật mang lại; đối chiếu và so sánh giữa kết quả thực tế đạt được do việc thi hành pháp luật với mục đích, yêu cầu mong muốn đạt được khi thi hành nó; giữa những chi phí thực tế với những chi phí dự kiến để đạt được mục đích đề ra khi thi hành pháp luật... Như vậy, để đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật thì phải xác định được: Những mục đích, yêu cầu mong muốn đạt được khi thi hành pháp luật; các kết quả tích cực đạt được trên thực tế do việc thi hành pháp luật mang lại; những chi phí thực tế để đạt được các kết quả đó.
Việc xem xét, đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật cần được tiến hành trong những phạm vi giới hạn về không gian, thời gian với những số lượng và chất lượng nhất định ở tất cả các hình thức thực hiện pháp luật. Do pháp luật là một hệ thống nên sự tác động của pháp luật lên các quan hệ xã hội cũng mang tính chất hệ thống, vì vậy, hiệu quả thi hành pháp luật không phải là tổng số giản đơn hiệu quả của các yếu tố riêng rẽ của quá trình thi hành các quy định pháp luật mà là một hiện tượng pháp lý đặc biệt, nó phụ thuộc bởi rất nhiều yếu tố, những mối quan hệ có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Từ đó cho thấy một quy định pháp luật nào đó nếu không được thi hành có hiệu quả có thể sẽ làm ảnh hưởng tới hiệu quả việc thi hành các quy định pháp luật khác và ngược lại nếu nó được thi hành có hiệu quả thì có thể sẽ làm cho việc thi hành các quy định pháp luật khác cũng có hiệu quả. Do vậy, sự đồng bộ trong xây dựng và thi hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, các cá nhân có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật trong thực tiễn.
Hoạt động xem xét, đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật rất phức tạp và khó khăn. Nó đòi hỏi phải đi sâu tìm hiểu thực tiễn đời sống pháp luật, thu thập những thông tin chính thức và cả những thông tin không chính thức về các vấn đề có liên quan, có như vậy mới có thể đánh giá tương đối chính xác về hiệu quả thi hành một quy định pháp luật, một chế định pháp luật hay một văn bản pháp luật nào đó... ở một phạm vi không gian, thời gian nhất định. Chỉ khi nào có những đánh giá chính xác về hiệu quả thi hành pháp luật thì mới có giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật đúng đắn, chính xác, phù hợp.
- Hiệu quả thi hành pháp luật ở Việt Nam hiện nay chưa cao
Ở Việt Nam thời gian gần đây, hoạt động thi hành pháp luật đã được quan tâm nhiều hơn, tốt hơn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều quy định và văn bản pháp luật mới ban hành đã được thi hành có hiệu quả trong cuộc sống, phát huy được vai trò tác dụng của pháp luật đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, làm cho “Môi trường đầu tư, kinh doanh, tiềm lực, quy mô và sức cạnh tranh của nền kinh tế tiếp tục được nâng lên. Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam, v.v. có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật[2], dân ta ngày càng giàu, đất nước ngày càng phát triển hùng mạnh, dân chủ được mở rộng, xã hội từng bước công bằng,văn minh hơn. Đúng như Đảng ta nhận định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay ”.[3]
Bên cạnh những quy định pháp luật được tổ chức thi hành nghiêm minh thì cũng còn một số quy định pháp luật chưa được thi hành hoặc thi hành chưa nghiêm. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã thẳng thắn thừa nhận việc “Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương, phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ, xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe. Cải cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất nước[4].
Những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả thi hành pháp luật ở nước ta hiện nay chưa cao thì rất nhiều, có thể nói đến những nguyên nhân cơ bản sau đây:
+ Bản thân hệ thống pháp luật chưa thật sự hoàn thiện, chất lượng chưa cao. Điều này biểu hiện ở sự chưa đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật, “Hệ thống pháp luật còn một số quy định chưa thống nhất, chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn[5], tính quy phạm của hệ thống pháp luật chưa cao, còn nhiều quy định pháp luật chỉ mới dừng lại ở dạng những nguyên tắc chung, nhiều quy định không sát, không phù hợp với thực tế cuộc sống nên rất khó thực hiện. Nhiều quy định thiếu chế tài hoặc chế tài chưa đủ mạnh dẫn đến hiện tượng “nhờn luật”. Việc ban hành các văn bản quy định chi tiết, văn bản quy định về trình tự, thủ tục, văn bản hướng dẫn thi hành thường chậm so với yêu cầu, đôi khi còn ban hành trái luật.
+ Hoạt động giải thích về nội dung, tinh thần của văn bản hay quy định pháp luật rất ít được tiến hành hoặc được tiến hành nhưng không chính danh. Cơ quan có thẩm quyền giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh là Ủy ban Thường vụ Quốc hội rất ít khi tiến hành hoạt động giải thích. Các quy định của Bộ Luật Hình sự, Bộ luật Dân sự chủ yếu được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành, đôi khi trong những hướng dẫn đó đã chứa đựng những nội dung giải thích.
+ Công tác phổ biến, giáo dục về nội dung, tinh thần của văn bản hay quy định pháp luật tới cán bộ, nhân dân và các đối tượng có liên quan để mọi người nhận thức chính xác đầy đủ chúng, biết được những gì nên làm, những gì phải làm, những gì có thể làm được, những gì không được làm... được tiến hành với hiệu quả chưa cao. Nhiều tổ chức, cá nhân vẫn chưa có được sự hiểu biết pháp luật cần thiết để từ đó chủ động quyết định hành vi sản xuất, kinh doanh… của mình. Nhiều chủ thể bị thua, thiệt khi sản xuất, kinh doanh, nhất là làm ăn với các đối tác nước ngoài vì kém hoặc không hiểu biết pháp luật đầy đủ.
+ Công tác tổ chức, cán bộ liên quan đến việc tổ chức thi hành pháp luật cũng chưa thật tốt. Ngay từ Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng, khi xác định những nguyên nhân chủ quan dẫn đến những yếu kém và bất cập về kinh tế, xã hội ở nước ta khi đó, đã khẳng định: “Chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là một khâu yếu nhất[6], nhưng đến nay điều đó vẫn chưa được khắc phục. Văn kiện Đại hội lần thứ XIII thẳng thắn nhìn nhận là: “chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực cụ thể hoá, thể chế hoá chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp[7]. Việc phân công cơ quan hay những người có chức vụ, quyền hạn chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện văn bản hay quy định pháp luật nhiều khi không rõ ràng. Việc tuyển dụng hoặc đào tạo và bố trí cán bộ, công chức chưa thật phù hợp, nhiều cán bộ, công chức năng lực, trình độ và cả đạo đức chưa tương xứng với công việc được giao. Một số cơ quan áp dụng pháp luật chưa được tổ chức một cách khoa học, sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn chưa thật tốt nên vẫn còn hiện tượng hoạt động chồng chéo, mâu thuẫn, không phối hợp hoặc cản trở lẫn nhau trong công việc của các cơ quan này. Một số cán bộ, công chức chưa tinh thông về nghiệp vụ trong việc giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền, ý thức tổ chức, kỷ luật và tinh thần trách nhiệm chưa cao, vẫn còn hiện tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu, trì trệ, giấy tờ hình thức hoặc thờ ơ, lãnh đạm đối với số phận, tính mạng con người, với tài sản của nhà nước, của các tổ chức kinh tế và của nhân dân...
+ Các điều kiện về cơ sở vật chất, kỹ thuật để phục vụ cho việc triển khai thực hiện một số quy định pháp luật chưa đầy đủ. Rất nhiều văn bản hay quy định pháp luật để được thực hiện trong thực tế đòi hỏi chi phí rất lớn về tiền của, công sức và những trang thiết bị vật chất - kỹ thuật nhất định nhưng lại chưa được đáp ứng. Tình trạng này đã dẫn đến nhiều văn bản pháp luật được ban hành nhưng phải lùi, hoãn thời gian thực hiện lại nhiều lần. Một số quy định pháp luật do tổ chức thực hiện không tốt phải làm đi, làm lại nhiều lần gây tốn kém rất lớn cả về tiền bạc và công sức của nhà nước cũng như của nhân dân. Trong hoạt động tổ chức thi hành, thi hành pháp luật vẫn còn hiện tượng tham nhũng, lãng phí làm cho chi phí thi hành pháp luật vẫn còn khá cao.
Ngoài ra, những điều kiện về đời sống vật chất và tinh thần của những người trực tiếp thực hiện, áp dụng pháp luật và gia đình họ cũng còn nhiều hạn chế nên ảnh hưởng rất lớn tới quá trình tổ chức thực hiện và áp dụng pháp luật của họ.
Với những lý do trên cộng thêm năng lực tổ chức thực hiện còn hạn chế đã làm cho việc chỉ đạo và tổ chức thi hành pháp luật chưa thực sự tốt, một số quy định pháp luật đã không được thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm, thậm chí có những quy định pháp luật còn được áp dụng sai dẫn đến tình trạng oan sai trong quá trình áp dụng pháp luật gây nhiều bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến uy tín của các cơ quan nhà nước, tiến trình xây dựng, củng cố nhà nước pháp quyền và đời sống của nhân dân.
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật ở Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là một trong những điều kiện để: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa[8]. Để thực hiện được điều này cần tiến hành các giải pháp cơ bản sau:
Một là, nhận thức và thực hiện đầy đủ hơn về tinh thần thượng tôn Hiến pháp, pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội
Nhận thức và thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội là một quá trình khó khăn và lâu dài. Trong các hoạt động, nhà nước và xã hội phải luôn khẳng định và bảo đảm sự thống trị của Hiến pháp và pháp luật, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật, mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật không chỉ xây dựng, hoàn thiện Hiến pháp, pháp luật mà còn phải tập trung tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả. Đã đến lúc đất nước ta phải “Thực hiện bước chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ việc đặt trọng tâm vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật sang hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tính liên thông, gắn kết mật thiết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật”,[9] để pháp luật phát huy được vai trò, tác dụng thực sự của mình trong đời sống nhà nước và xã hội.
Việc nhận thức và thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội phải luôn được bắt đầu từ các tổ chức Đảng, Nhà nước và lan tỏa trong các tổ chức khác, các công dân, cá nhân trong xã hội. Các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải luôn ý thức được tinh thần pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của mình và của toàn xã hội.
Hai là, không ngừng nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật đất nước
Muốn nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật thì trước hết phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật. Văn kiện Đại hội Đảng XIII đã quán triệt phải nhanh chóng “xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới[10], “Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch[11]. Hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng tăng tính phù hợp, tính khả thi của các quy định pháp luật. Các quy định pháp luật được ban hành phải phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa, hội nhập của đất nước, nhu cầu cải cách bộ máy nhà nước vì lợi ích của nhân dân. Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội, nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Ngoài ra, hệ thống pháp luật Việt Nam còn phải được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của các điều ước và thông lệ quốc tế, có phương pháp điều chỉnh pháp luật phù hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội. Các quy phạm pháp luật được ban hành phải phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành, nghĩa là, khi ban hành quy phạm pháp luật, phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước có cho phép thực hiện được quy phạm pháp luật đó hay không, đồng thời, phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy phạm pháp luật đó, trình độ văn hoá và kiến thức pháp lí của nhân dân...
Khi xây dựng pháp luật phải chú ý đặc biệt đến thói quen, tâm lý của nhiều người Việt Nam là “bất tuân pháp luật”, luôn tìm cách lẩn tránh pháp luật. Do vậy, pháp luật, nếu có thể, cần được quy định càng chi tiết càng tốt. Các quy định pháp luật nên được thể hiện theo cách loại trừ (trừ những hành vi, những việc không được làm) còn lại bắt buộc phải làm để tránh hiện tượng “lách luật”.
Xây dựng và thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó chú trọng việc quy định chặt chẽ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước, cương quyết thực hiện nguyên tắc “các cơ quan, nhân viên nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền, xử lý kiên quyết và nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, nhất là đối với những vi phạm của cán bộ, công chức nhà nước. Từng bước chuyên nghiệp hoá các hoạt động pháp luật, coi các hoạt động pháp luật là hoạt động nghề nghiệp.
Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… của đất nước, cần tiếp tục:
 + Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng tăng số lượng, chất lượng và kỹ năng xây dựng luật của đại biểu Quốc hội chuyên trách. Tăng cường hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhất là giám sát việc ban hành những văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các văn bản luật;
 + Củng cố, nâng cao đội ngũ những người trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật thuộc các bộ, ban ngành, mà đặc biệt là Bộ Tư pháp, cơ quan trực tiếp tham gia soạn thảo nhiều dự án luật, pháp lệnh..., thực hiện việc thẩm định nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Thu hút nhiều chuyên gia pháp luật giỏi của các vụ, viện, trường đại học, những người không bị lợi ích nhóm chi phối, vào công tác xây dựng pháp luật. Trong thành phần các ban soạn thảo cần bổ sung thêm số lượng các chuyên gia pháp lý có trình độ cao, như vậy thì mới khắc phục được hiện tượng về lỗi kỹ thuật trong nội dung các dự thảo và kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật mới được nâng cao;
+ Đẩy mạnh công tác rà soát, hệ thống hoá pháp luật, nhất là hoạt động pháp điển hoá, thậm chí cần xây dựng những tổng tập luật lệ về một số lĩnh vực nhất định. Kiên quyết loại bỏ những quy định trùng lặp giữa các văn bản quy phạm pháp luật về cùng một vấn đề, có như vậy sẽ thuận lợi hơn cho hoạt động xây dựng pháp luật nói riêng và các hoạt động thi hành, bảo vệ pháp luật nói chung; 
+ Không chỉ đề cao trách nhiệm chính trị mà cần quy định trách nhiệm pháp lý đối với mỗi cơ quan nhà nước trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Nếu một cơ quan nhà nước hay một cá nhân có thẩm quyền tham gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra hay ban hành văn bản quy phạm pháp luật có lỗi do hành vi của mình dẫn đến việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng cho nhà nước và xã hội thì phải chịu trách nhiệm pháp lý theo hướng hậu quả pháp lý bất lợi. Nếu có thể nên quy định trách nhiệm pháp lý đối với từng cá nhân hoặc từng bộ phận tham gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
+ Tăng cường kinh phí cho các hoạt động xây dựng pháp luật. Muốn huy động được trí tuệ, công sức của tổ chức, cá nhân vào xây dựng pháp luật cần phải đầu tư kinh phí thỏa đáng cho hoạt động này. Tăng cường kinh phí cho các hoạt động hội thảo khoa học hoặc tham vấn chuyên gia phục vụ công tác soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật;
+ Đẩy mạnh việc “Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường...”[12], đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước trên các phương diện, theo kịp trình độ phát triển của thế giới.
Ba là, tiếp tục cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo tinh thần nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
Trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật là thuộc bộ máy, các cơ quan, nhân viên nhà nước, những người có trách nhiệm. Do vậy, cần “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội[13], bởi, hiệu quả thi hành pháp luật phụ thuộc trực tiếp vào hoạt động có trách nhiệm của các cơ quan, nhân viên nhà nước. Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: “Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.[14] Cụ thể là:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển, “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội[15]. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội hiện nay, đặc biệt là “Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh[16], góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy nhà nước.
Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật, “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội[17].
Bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ, hợp lý giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội; cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân, kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân; cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt động, tinh thần trách nhiệm của các cơ quan hoạt động tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan sai.
Bốn là, nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thi hành pháp luật và tổ chức thi hành pháp luật
Đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực là yếu tố quyết định đến chất lượng của hoạt động thi hành, áp dụng pháp luật. Để có đội ngũ cán bộ, công chức đủ năng lực, phẩm chất, thời gian tới “Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới[18]. Cần nhanh chóng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh chính trị vững vàng. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung[19].
Muốn việc thi hành pháp luật có hiệu quả cao thì phải không ngừng nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật. Các tổ chức, cá nhân nhiều khi muốn thi hành pháp luật nhưng không thể làm được vì thiếu khâu tổ chức thi hành pháp luật của các cơ quan, người có trách nhiệm của nhà nước tổ chức cho các tổ chức, cá nhân thi hành pháp luật. Ngược lại, một bộ phận tổ chức, cá nhân không chủ động trong thi hành pháp luật, họ thường chờ mệnh lệnh của các cơ quan, cá nhân có trách nhiệm. Do vậy, đòi hỏi bản thân đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải tự mình gương mẫu thi hành pháp luật, đồng thời phải có trách nhiệm tổ chức để các tổ chức, cá nhân khác nghiêm chỉnh thi hành pháp luật chính xác, đầy đủ, triệt để. Khẩn trương “Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp[20]. Cần củng cố các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm đối với các cơ quan đó. Không ngừng quán triệt nguyên tắc “Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Cần đào tạo và đào tạo lại để không ngừng nâng cao kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức pháp luật cho cán bộ, công chức nhà nước.
Các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cần đẩy mạnh việc xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo về những việc làm sai trái của các cơ quan, đơn vị, cá nhân, bảo đảm công bằng và nghiêm minh, xử lý kiên quyết đối với những người vi phạm pháp luật làm tổn hại tới quyền, lợi ích, danh dự... của nhân dân và các tổ chức, cơ quan, đơn vị, đồng thời phải tiến hành minh oan công khai, bồi thường thoả đáng những thiệt hại về vật chất, phục hồi danh dự và việc làm đối với những người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử oan sai, trái pháp luật. Truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người có hành vi trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.
Năm là, triển khai có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân
Phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý cho cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước và mọi tầng lớp nhân dân, phát huy tính năng động, sáng tạo của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp vào việc thiết lập kỷ cương, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, tạo thói quen “sống, làm việc theo pháp luật” trong các cơ quan nhà nước và trong toàn xã hội là một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật.
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật trước hết phải nhằm vào đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước, những người trực tiếp quản lý Nhà nước, quản lý xã hội bằng pháp luật theo tinh thần: “Các cán bộ lãnh đạo và quản lý các cương vị chủ chốt từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã, từ tổng giám đốc đến cán bộ quản lý cơ sở, đều phải qua các lớp bồi dưỡng định kỳ có sát hạch, theo chương trình thiết thực và có hệ thống về đường lối, chính sách, cơ chế quản lý và kiến thức quản lý mới, về chuyên môn, nghiệp vụ và về pháp luật[21]. Từng bước tiến tới tiêu chuẩn hoá về trình độ của cán bộ, công chức trong các cơ quan pháp luật. Ngoài việc nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức còn phải nâng cao ý thức pháp luật cho toàn thể nhân dân trong xã hội theo tinh thần “không ai là không biết pháp luật”. Coi yêu cầu hiểu biết pháp luật như một trong những tiêu chí để đánh giá, phân loại cán bộ, công chức hàng năm. Đồng thời coi trọng nội dung thi về pháp luật khi thi tuyển dụng công chức, thi nâng bậc, chuyển ngạch cho cán bộ, công chức.
Kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục tri thức, văn hóa, giáo dục chính trị, đạo đức, nhân cách, lối sống cho nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ, từng bước “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế[22]. Tạo ra sự phát triển toàn diện cho mỗi con người để họ có đầy đủ năng lực tham gia một cách chủ động, tự giác, tích cực vào các hoạt động pháp luật với động cơ đúng đắn và hiệu quả.
Để phổ biến, giáo dục pháp luật đạt kết quả tốt cần kết hợp nhiều hình thức và biện pháp đồng bộ, trong đó cần chú trọng hoàn thiện cơ chế quản lý Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nâng cao chất lượng, đổi mới phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng khác nhau; lôi cuốn, tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động pháp luật thực tiễn; đa dạng hoá các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, các loại hình đào tạo pháp luật; tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại và các phương tiện thông tin đại chúng vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Mở rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động tư vấn dịch vụ pháp lý; phát hành rộng rãi các loại sách báo, tài liệu để phổ biến, giáo dục pháp luật. Đối với các văn bản pháp luật quan trọng, thiết thực cần được in với số lượng lớn, bán rộng rãi với giá rẻ (Nhà nước có thể bù lỗ cho loại tài liệu này) để mọi gia đình, cá nhân đều có thể mua và sử dụng được; hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật phải căn cứ vào trình độ dân trí, yêu cầu của nghề nghiệp, khu vực sinh sống... theo tinh thần người biết nhiều nói cho người biết ít, người biết nói cho người chưa biết để tất cả xã hội đều hiểu biết pháp luật, sống, làm việc theo Hiến pháp, pháp luật.
Sáu là, thường xuyên kiểm tra, giám sát, theo dõi việc thi hành pháp luật, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật
Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật để kịp thời phát hiện và khắc phục những khiếm khuyết, yếu kém của hoạt động này, xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân có hành vi cố ý áp dụng pháp luật không đúng, không phù hợp với mục đích đặt ra. Để nâng cao hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi việc thi hành pháp luật cần kết hợp sự kiểm tra, giám sát, theo dõi của các cơ quan nhà nước với kiểm tra, giám sát, theo dõi của các tổ chức xã hội và của nhân dân. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi thi hành pháp luật. Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực cho các cơ quan làm công tác kiểm tra, giám sát, theo dõi thi hành pháp luật. Nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến pháp được thực hiện chính xác.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương và của đất nước. Đồng thời tổ chức thật tốt để nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và những người có chức vụ, quyền hạn. Thường xuyên “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý nghiêm, đúng pháp luật các hành vi tham nhũng, lãng phí. Tăng cường giám sát và phòng, chống tham nhũng trong các cơ quan bảo vệ pháp luật. Thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực hiệu quả[23].
Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm. Mọi hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật, "Mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải sống và làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật. Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử theo pháp luật,... Cấm bao che hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức nào"[24]. Từng bước xây dựng lối sống và thói quen sống, làm việc theo pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Nhà nước cũng cần quy định chế độ trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan hoặc cá nhân trong việc tổ chức thi hành và áp dụng pháp luật trên thực tế để tránh hiện tượng pháp luật không được tổ chức thi hành nhưng không ai chịu trách nhiệm về vấn đề đó.
Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, cán bộ, Đảng viên, nhân dân phát hiện và tích cực đấu tranh chống vi phạm pháp luật. Nâng cao vai trò của các cơ quan, phương tiện thông tin đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, quan liêu, lợi dụng chức quyền để tham ô, nhận hối lộ, làm thất thoát tài sản nhà nước, sách nhiễu nhân dân.
Bảy là, củng cố các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác, kết hợp hài hòa với pháp luật trong duy trì, quản lý đời sống xã hội
Ngoài việc quản lý xã hội bằng pháp luật còn cần chú ý những công cụ khác như­ đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo... bởi, giữa chúng luôn có mối liên hệ mật thiết với nhau, không có công cụ nào tồn tại và tác động một cách biệt lập, mỗi công cụ luôn có ảnh h­ưởng và chịu ảnh hư­ởng bởi các công cụ quản lý khác. Các công cụ quản lý xã hội luôn dựa vào nhau, hỗ trợ nhau để cùng tồn tại, phát triển vì sự ổn định và trật tự xã hội, vì cuộc sống cộng đồng ổn định, phát triển h­ướng tới chân, thiện, mỹ. Hiện nay chúng ta đang xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một Nhà nước đề cao vị thế của pháp luật trong xã hội, song không phải vì thế mà chúng ta xem nhẹ vai trò của các công cụ quản lý khác trong xã hội. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu thì cũng không cần và không thể điều chỉnh được hết và có hiệu quả đối với tất cả các quan hệ xã hội mà vẫn cần phải có sự bổ trợ của các công cụ điều chỉnh khác trong xã hội. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu để củng cố và sử dụng một cách hài hoà giữa pháp luật với các công cụ quản lý xã hội khác, phát huy những điểm phù hợp của các công cụ này để hỗ trợ cho thực hiện pháp luật, thúc đẩy xã hội phát triển về mọi mặt, nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với các quan hệ xã hội vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. 
 Tám là, đầu tư các nguồn lực thoả đáng cho hoạt động thi hành pháp luật, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí trong các hoạt động pháp luật
Đầu tư về nguồn lực con người, bố trí, lựa chọn những cán bộ, công chức có đức, có tài cho các cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật. Đầu tư cơ sở vật chất thỏa đáng cho hoạt động thi hành pháp luật, trong đó có việc nâng lương cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người thường xuyên trực tiếp giải quyết công việc có liên quan tới tài sản, đến các mặt trái của xã hội, đủ đảm bảo cho họ có thể sống liêm khiết bằng đồng lương của mình có ý nghĩa rất quan trọng.
Cùng với việc đầu tư thoả đáng cơ sở vật chất còn phải thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí trong hoạt động tổ chức thi hành pháp luật. Luôn “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức năng hỗ trợ, thúc đẩy phát triển. Không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế, hành chính, dân sự. Phát huy đúng vai trò giám sát, phản biện xã hội, các hình thức tự quản của cộng đồng, các phương thức hòa giải cấp cơ sở. Hoàn thiện cơ chế, chính sách phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong việc phát hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí[25]. Giảm chi phí, thực hành tiết kiệm trong tổ chức thi hành và thi hành pháp luật cho nhà nước, các tổ chức, cá nhân là giải pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật ở nước ta hiện nay.
Chín là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự gương mẫu của đảng viên và các tổ chức đảng trong thi hành pháp luật
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là điều kiện vô cùng quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật ở nước ta. Sự gương mẫu của các tổ chức đảng và các cá nhân đảng viên trong việc thực hiện đầy đủ, nghiêm minh các quy định pháp luật sẽ là tấm gương để nhân dân noi theo. Điều đó cũng củng cố sự tin tưởng của nhân dân vào những giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, từng bước biến những lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội thành hiện thực. Trong tiến trình xây dựng, củng cố nhà nước pháp quyền, đòi hỏi các tổ chức đảng, các tổ chức xã hội và mọi công dân, mỗi thành tố của xã hội đều phải thể hiện đúng vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội, nghiêm chỉnh thực hiện đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật. Hiến pháp Việt Nam năm 2013 đã quy định không chỉ các tổ chức của Đảng mà còn nhấn mạnh tất cả đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội xây dựng, thực hiện và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đặt mình dưới quyền lực của Hiến pháp và pháp luật, tự giác hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, “Các tổ chức của Đảng và đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước[26]. Trong điều kiện chỉ tồn tại một đảng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội càng cần phải tăng cường nguyên tắc pháp chế trong mối quan hệ quyền lực giữa Đảng với Nhà nước và xã hội. Củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc thi hành pháp luật cần tiến hành nhiều biện pháp khác nhau trong đó phải “đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ[27]. Để có căn cứ cho việc lãnh đạo cần “Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc thực hiện[28]. Từng bước khắc phục sự yếu kém trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện mà Đảng đã chỉ ra bằng việc “Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất lượng công tác hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hoá, triển khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện[29].
Với sự lãnh đạo sáng suốt và quyết tâm của Đảng, sự tích cực quản lý của Nhà nước, sự ủng hộ nhiệt thành của các tổ chức và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng và Nhà nước nhất định chúng ta sẽ thực hiện thằng lợi Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mà Đảng đã đề ra trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, trong đó có việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả thi hành pháp luật và các chính sách phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
GS.TS. Nguyễn Minh Đoan[30]
 
 
[1] Đỗ Mười, Thư gửi cán bộ, nhân viên ngành Tư pháp nhân dịp 50 năm thành lập ngành, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 12/1995, tr.1
 
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.21 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập1, Sđd, tr.25 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập1, Sđd, tr.89-90
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.89 
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.176 
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.94 
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.111-112
[9] Quyết định số 225/QĐ-TTg ngày 4/2/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2016-2020
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.285
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.222-223
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.223
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.285
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.175
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.284-285
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.223
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập 1, Sđd, tr.176
[18] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tập 1, Sđd, tr.180
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.288
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.224
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.122- 123
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.231
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.307
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Sđd, tr.121
[25]  Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.288-289
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.197
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.180
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.197-198
[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Sđd, tr.180-181
[30] Trường Đại học Luật Hà Nội