Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân...

26/11/2021
Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo tinh thần văn kiện Đại hội XIII của Đảng và giải pháp tổ chức thực hiện
1. Khái quát quan điểm, định hướng của Đảng về quyền con người, quyền công dân trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Quan điểm, định hướng của Đảng ta về quyền con người (QCN), quyền công dân (QCD) được hình thành, đúc rút từ lịch sử, truyền thống văn hóa dân tộc, nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, thực tiễn và những yêu cầu đặt ra trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, được thể hiện trong các văn bản của Đảng, đặc biệt là trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục được khẳng định với nhiều điểm mới, phù hợp với bối cảnh mới của tình hình trong nước và quốc tế.
Thứ nhất, bảo vệ vững chắc quyền dân tộc tự quyết tạo cơ sở chính trị, pháp lý, tạo sức mạnh dân tộc để bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy QCN, QCD; nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng giữa an ninh con người, an ninh quốc gia gắn với QCN; độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia với bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy QCN, QCD.
Trên cơ sở vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đại hội XIII của Đảng nhất quán quan điểm, định hướng tiếp cận vấn đề QCN gắn với quyền dân tộc tự quyết đã được thể hiện trong các văn kiện qua các kỳ Đại hội của Đảng trước đây, đặc biệt là trong Chỉ thị số 44-CT/TW ngày 20/7/2010 của Ban Bí thư về công tác nhân quyền, bao gồm:
(i) QCN là giá trị chung của nhân loại.
(ii) QCN gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia.
(iii) QCN là mục tiêu, bản chất, động lực của chế độ xã hội chủ nghĩa;
(iv) Chủ động, tích cực hợp tác đồng thời sẵn sàng đối thoại và kiên quyết đấu tranh trong quan hệ quốc tế vì QCN;[1]
Như vậy, Đảng ta nhận thức sâu sắc QCN gắn với quyền tự quyết dân tộc. Đồng thời, khẳng định chỉ có theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm có chế độ tốt nhất để bảo vệ, bảo đảm và thúc đẩy QCN, QCD ở Việt Nam.
 Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”[2]
Đảng ta xác định rõ động lực và nguồn lực phát triển quan trọng của đất nước là “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc... Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tốì đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”[3]; xác định một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm để “Đưa đất nước ta bước vào một giai đoạn phát triển mới” chính là “Giữ vững độc lập, tự chủ; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”[4].
Đồng thời, Đảng ta định hướng: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương...; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”[5]...; “Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ ổn định, đổi mới và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị;... giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế;... giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân”[6].
Thứ hai, cách tiếp cận mới của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm QCN, QCD ở Việt Nam là phải thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về QCN mà Việt Nam đã tham gia ký kết, phê chuẩn; bảo đảm nguyên tắc quyền luôn đi đôi với nghĩa vụ; đề cao vai trò chủ thể hưởng thụ quyền là nhân dân; bảo đảm và thúc đẩy QCN, QCD trên mọi lĩnh vực: dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Một là, Đảng ta nhất quán cách tiếp cận trong bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy QCN ở Việt Nam trong giai đoạn mới là tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ QCN, QCD theo Hiến pháp năm 2013, gắn quyền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân; nhận thức rõ mối quan hệ biện chứng về quyền và nghĩa vụ, giữa Nhà nước - chủ thể có trách nhiệm trao quyền với nhân dân - chủ thể thụ hưởng quyền.
Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ QCN, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn QCD với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân với xã hội”[7]. Quan điểm này đã được ghi nhận trong Chỉ thị số 44-CT/TW (nêu trên) là: (i) Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân kết hợp hài hòa với quyền tập thể và không tách rời nghĩa vụ, trách nhiệm công dân; (ii) QCN, QCD được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm bằng Hiến pháp, pháp luật và trách nhiệm của Nhà nước, của tất cả các ngành, các địa phương, cơ sở là phải tích cực, chủ động thực hiện nhằm ngày càng hoàn thiện và nâng cao các QCN, QCD.
Hai là, đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước phù hợp với bối cảnh mới, gắn QCN với sự phát triển phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc; lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung một nội dung mới quan trọng và vô cùng ý nghĩa dưới góc độ QCN: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng[8].
Mục tiêu phấn đấu cao cả của Đảng và Nhà nước là vì nhân dân phục vụ, đem lại hạnh phúc cho người dân: “Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[9]. Quan điểm của Đảng về nhân dân là trung tâm, lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện đã khẳng định cách tiếp cận dựa trên quyền của của Đảng về nhân dân chính là chủ thể thụ hưởng QCN, phương pháp tiếp cận dựa trên QCN trong hoạch định chính sách phát triển là phương pháp tiếp cận đã và đang được cộng đồng quốc tế sử dụng rộng rãi. Từ cách tiếp cận này, Đảng ta yêu cầu: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”[10].
Ba là, Văn kiện Đại hội XIII  của Đảng đã thể hiện rõ quan điểm, định hướng của Đảng ta về quan tâm tôn trọng, bảo đảm, bảo quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Báo cáo chính trị của Đảng trong Văn kiện đã dành mục XII nêu rõ quan điểm của Đảng về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, theo đó Đảng ta đặc biệt quan tâm tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như: trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, đồng bào dân tộc thiểu số, người Việt Nam ở nước ngoài,...
- Đối với trẻ em, “Chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, phát triển toàn diện và bảo đảm quyền của trẻ em; dành những điều kiện tốt nhất, sự chăm lo chu đáo nhất cho trẻ em - tương lai của đất nước”[11].
- Đối với phụ nữ, “Phát huy truyền thống, tiềm năng, thế mạnh và tinh thần làm chủ, khát vọng vươn lên của các tầng lớp phụ nữ... Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách liên quan đến phụ nữ, trẻ em và bình đẳng giới. Kiên quyết xử lý nghiêm theo pháp luật các tệ nạn xã hội, các hành vi bạo lực, mua bán, xâm hại phụ nữ, trẻ em”[12].
- Đối với người cao tuổi, “Phát huy trí tuệ, kinh nghiệm sống, lao động, học tập của người cao tuổi trong xã hội, cộng đồng và gia đình... Kính trọng, bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi. Bảo trợ giúp đỡ người cao tuổi gặp khó khăn, cô đơn, không nơi nương tựa”[13].
- Đối với đồng bào dân tộc thiểu số, “Bảo đảm các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hóa, xã hội ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng tính đặc thù của từng vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách dân tộc. Có cơ chế thúc đẩy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện giảm nghèo đa chiều, bền vững... Nghiêm trị mọi âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[14].
- Đối với các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ, “Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Bảo đảm cho các tổ chức tôn giáo hoạt động theo quy định của pháp luật và hiến chương, điều lệ được Nhà nước công nhận... Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; chia rẽ, phá hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc”[15]. Đồng thời, “Thực hiện tốt mục tiêu đoàn kết tôn giáo, đại đoàn kết toàn dân tộc. Bảo đảm quyền tự do tín ngưỡi, tôn giáo của mọi người theo quy định của pháp luật”[16].
- Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng ta coi người Việt Nam ở nước ngoài là máu thịt, là bộ phận không tách rời và là nguồn lực quan trọng của dân tộc Việt Nam. Đồng thời nhấn mạnh: “Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại. Nâng cao hiệu quả công tác bảo hộ công dân, quản lý lao động, du học sinh... Tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc... giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích của quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[17].
Như vậy, Đảng ta định hướng các chương trình, chính sách phát triển của Đảng ta đều phải hướng trọng tâm vào chủ thể hưởng quyền, đó là mọi người dân trên mọi miền Tổ quốc và người Việt Nam ở nước ngoài. Định hướng này thể hiện rõ những chủ trương lớn của Đảng ta về QCN: (i) Gắn QCN với sự phát triển phồn vinh, hạnh phúc của dân tộc; (ii) Lấy con người làm trung tâm và phát triển con người toàn diện; iii) Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ QCN, QCD theo Hiến pháp năm 2013, gắn quyền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân; (iv) An ninh con người, an ninh quốc gia gắn với QCN; (v) Coi trọng công tác bảo hộ công dân và công tác người Việt Nam ở nước ngoài[18].
Thứ ba, Đảng ta nhận thức sâu sắc yêu cầu tất yếu khách quan của hoàn thiện cơ chế bảo đảm QCN, QCD ở Việt Nam bao gồm: thể chế và thiết chế.
Một là, hoàn thiện thể chế.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thể hiện quan điểm, định hướng của Đảng về xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm, bảo vệ QCN, QCD: “Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân”[19]; “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”[20]; “Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững”[21].
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng xác định định hướng thứ nhất là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”[22]. Xác định nhiệm vụ “Đẩy mạnh việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, có sức cạnh tranh quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”[23] và “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ QCN, QCD”[24]. Nếu ở Văn kiện Đại hội XII, việc hoàn thiện thể chế nhằm nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế và quản lý nhà nước về kinh tế, thì Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh mục đích “Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh”[25].
Trong bối cảnh mới hiện nay, tình hình trên thế giới tiếp tục có những diễn biến nhanh, phức tạp; đất nước đứng trước vận hội và cả những thách thức không nhỏ, cho nên, Ðại hội Ðảng XIII đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ là: "Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thương tôn pháp luật”,   gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc”[26].
Văn kiện Đại hội XIII xác định một trong ba đột phá chiến lược để phát triển đất nước là “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển,... Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo;... đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”[27].
Trong nhiều văn kiện qua các thời kỳ, Đảng ta đã chỉ rõ sự nguy hại của tham nhũng đến sự tồn vong của chế độ, tình hình tham nhũng, quan liêu, lãng phí vẫn diễn ra phức tạp, Đảng ta tiếp tục nhất quán quan điểm coi tham nhũng là “quốc nạn” và luôn khẳng định quyết tâm phòng, chống tệ nạn tham nhũng. Cho nên, Văn kiện Đại hội XIII tiếp tục khẳng định quan điểm, định hướng: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tiêu cực”[28].
Hai là, xây dựng, hoàn thiện thiết chế bảo đảm QCN, QCD bao gồm: các thiết chế nhà nước (hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước) và các thiết chế xã hội, thiết chế truyền thông, báo chí.
- Xây dựng, hoàn thiện thiết chế nhà nước để bảo đảm QCN, QCD
(i) Trước hết là quan điểm, định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại hội XIII xác định định hướng thứ 10 trong 12 định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030 của Đảng là “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”[29].   
Đảng ta đã đề ra chủ trương: “Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”[30].
Trong Chiến lược phát triển kinh tế, xã hội 10 năm (2021 - 2030), Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ thứ 10 là “Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tạo đột phá trong cải cách hành chính”[31].
(ii) Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của thiết chế lập pháp trong Nhà nước pháp quyền để bảo đảm QCN, QCD.
Văn kiện Đại hội XIII xác định nhiệm vụ: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao”[32].
(iii) Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của thiết chế   hành pháp trong Nhà nước pháp quyền để bảo đảm QCN, QCD.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ nhiệm vụ: “Xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch. Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”[33]; “đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm giữa Chính phủ với các bộ, ngành; giữa Chính phủ, các bộ, ngành với chính quyền địa phương, khắc phục triệt để tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; bảo đảm quản lý nhà nước thống nhất, đồng thời phát huy vai trò chủ động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của từng cấp, từng ngành...”[34].
(iv) Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của thiết chế   tư pháp trong Nhà nước pháp quyền để bảo đảm QCN, QCD.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đặt ra nhiệm vụ: “Tiếp tục xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân... Nghiên cứu, ban hành Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045, trong đó có Chiến lược pháp luật và cải cách tư pháp. Tiếp tục đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng hiệu lực, hiệu quả hoạt động và uy tín của tòa án nhân dân”[35] và “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, QCD, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”[36].
(v) Hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương để bảo đảm QCN, QCD.
 Xuất phát từ vị trí quan trọng của chính quyền địa phương là thiết chế bảo đảm tính hiện thực và thực thi có hiệu quả chủ trương, chính sách, pháp luật của của Đảng và Nhà nước về QCN, QCD trong thực tiễn, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương phù hợp địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt theo luật định; thực hiện và tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả”[37]; “cải cách thủ tục hành chính; kiện toàn tổ chức, tinh giản hợp lý đầu mối, bỏ cấp trung gian, tinh giản biên chế”[38]; “Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, tổ chức, khắc phục tình trạng chồng chéo, trùng lắp hoặc bỏ sót chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan, tổ chức”[39]; “Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước các cấp, đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả”[40]; “Chính quyền địa phương tập trung thực hiện chức năng cung cấp dịch vụ xã hội cơ bản, giải quyết các vấn đề xã hội, thực thi pháp luật, cải thiện môi trường kinh doanh và bảo đảm an ninh, trật tự trên địa bàn”[41]. “Thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp”[42].
- Xây dựng, hoàn thiện thiết chế xã hội để bảo đảm QCN, QCD
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định xây dựng, hoàn thiện thiết chế xã hội để bảo đảm QCN, QCD tại định hướng thứ 9 trong 12 định hướng: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”[43]. Đặc biệt, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên trong giám sát và phản biện xã hội về chính sách, pháp luật và thực thi chính sách, pháp luật về QCN, QCD: “Tăng cường vai trò nòng cốt chính trị, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội… hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư. Thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên”[44].
- Xây dựng, hoàn thiện thiết chế truyền thông, báo chí góp phần bảo đảm QCN, QCD
Thiết chế truyền thông, báo chí có vai trò quan trọng trong bảo đảm QCN, QCD. Một mặt, truyền thông báo chí góp phần tuyên truyền, phổ biến chính sách. Pháp luật về QCN, QCD, bảo đảm quyền được tiếp cận thông tin của nhân dân, đặc biệt là nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số góp phần giám sát, phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật về QCN, QCD; góp phần đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền. Mặt khác, truyền thông, báo chí cũng có thể trở thành công cụ vi phạm QCN, QCD do nhiều nguyên nhân khác nhau. Do đó, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ và tác động đa chiều đến QCN,QCD, Đảng ta đã xác định rõ: “Nâng cao chất lượng, bảo đảm an ninh, an toàn hệ thống thông tin, báo chí, internet, xuất bản; tăng cường năng lực quản lý không gian mạng. Xây dựng các cơ quan báo chí, tổ hợp truyền thông chủ lực đủ mạnh để thực hiện tốt chức năng thông tin tuyên truyền thiết yếu, làm chủ mặt trận thông tin. Tăng cường thông tin đối ngoại. Phấn đấu đến năm 2030, mạng di động 5G phủ sóng toàn quốc, mọi người dân được truy cập internet...”[45]; “Tăng cường và nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ truyền thông mới, mạng xã hội trong thông tin đối ngoại và đấu tranh dư luận”[46].
Thứ tư, Đảng ta nhận thức sâu sắc yêu cầu đẩy mạnh đối thoại, đấu tranh trên lĩnh vực QCN nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng và chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa
Đảng ta nhận thức rất rõ mục tiêu và bản chất của đấu tranh và đối thoại trên lĩnh vực QCN là nhằm thực hiện, phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa trong nhân dân. Đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nhân dân, nhất là trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau, từng bước thu hẹp bất đồng và những sự hiểu biết khác nhau giữa Việt Nam với các đối tác quốc tế trong vấn đề dân chủ, nhân quyền; kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc và đấu tranh ngăn chặn một cách hiệu quả các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam. Từ đó cảm hóa, cô lập, làm thất bại hoàn toàn các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động.
Tạo thế chủ động, tích cực chuyển từ tham dự sang tham gia đóng góp hoặc tham gia kiến tạo thể chế hợp tác quốc tế trên lĩnh vực QCN vốn có nhiều khác biệt về quan điểm. Qua đó, chủ động tạo điều kiện và vị thế ở tầm cao hơn cho Việt Nam trong việc kiên quyết bảo vệ quan điểm, lập trường, lợi ích quốc gia - dân tộc và đấu tranh ngăn chặn hiệu quả với các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta.
Đại hội Đảng XIII chủ trương: “Đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”[47], “Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội, hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân”[48], “Tích cực phòng ngừa, chủ động đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; ngăn chặn âm mưu bạo loạn, khủng bố, phá hoại... không để hình thành tổ chức chính trị đối lập trong nước. Chủ động đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”, phòng ngừa, ngăn chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...”[49]; “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diến biến hòa bình”, thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội”[50].
Thứ năm, quan điểm, định hướng của Đảng về nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về QCN, QCD
Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra hạn chế của thực thi pháp luật trong đó có pháp luật về QCN, QCD: “Chấp hành pháp luật nhìn chung chưa nghiêm; kỷ cương phép nước có nơi, có lúc còn bị xem nhẹ; xử lý vi phạm pháp luật chưa kịp thời, chế tài xử lý chưa đủ sức răn đe”[51].
Vì vậy, Văn kiện Đại hội XIII xác định: “thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”[52] là một mối quan hệ lớn trong tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước đến năm 2030; “Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật”[53]; “Đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật... Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội”[54].
 2. Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
2.1. Định hướng, hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân trên các lĩnh vực dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa; quyền của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện các QCN trong các lĩnh vực dân sự, chính trị.
Một là, tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện các quy định liên quan đến QCN, QCD trong quá trình tố tụng hình sự bảo đảm thể chế hóa kịp thời các quan điểm định hướng của Đảng về các quyền dân sự, chính trị đã được nêu trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng theo tinh thần cải cách tư pháp và phù hợp với các công ước quốc tế về QCN mà Việt Nam là thành viên; trong đó tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định giảm dần các tội danh có áp dụng tử hình theo lộ trình, đặc biệt là các tội phạm về kinh tế và các tội liên quan đến ma túy; bảo đảm thực hiện tốt các QCN, QCD; thu hẹp phạm vi áp dụng hình phạt tù và bổ sung chế độ tha tù trước thời hạn.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện các quy định về hệ thống tư pháp hình sự, bao gồm hệ thống tư pháp đối với người chưa thành niên, bảo đảm chính sách hình sự đối với người chưa thành niên, phù hợp với công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em.
Ba là, thể chế hóa và thực hiện có hiệu quả các QCN đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 như: quyền sống và sống trong môi trường trong lành; quyền xác định dân tộc; quyền của người chuyển giới tính, người đồng tính, lưỡng tính; quyền của người chấp hành án phạt tù, quyền của bị can, bị cáo. Sớm hoàn thành và ban hành các văn luật liên quan đến quyền dân sự, chính trị như: Luật về Hội, Luật Biểu tình, Luật Giám sát, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở, Luật Chuyển giới; nghiên cứu ban hành Luật Chống phân biệt đối xử.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện các QCN trong các lĩnh vực có liên quan đến quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế như chống khủng bố; đấu tranh phòng, chống tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm an ninh mạng. Tiếp tục đàm phán, ký kết các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ, chuyển giao người bị kết án phạt tù với các nước và vùng lãnh thổ, xây dựng mới các luật điều chỉnh lĩnh vực an ninh phi truyền thống.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện các QCN trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội.
Một là, hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền kinh tế cho mọi người. Hoàn thiện các quy định về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, chú trọng hoàn thiện các quy định về chế độ sở hữu, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng về cơ hội để phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, khởi nghiệp, thực hiện quyền tự do kinh doanh của mọi cá nhân, công dân và tổ chức; quan tâm hoàn thiện các quy định tạo cơ chế giải quyết các tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế, bảo vệ quyền về tài sản, nhân thân phi tài sản của mọi người.
Hai là, hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền văn hóa cho mọi người: .
(i) Xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật bảo đảm quyền tiếp cận văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; thực hiện quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp, bảo tồn và phát huy đa dạng văn hóa; hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền tác giả và các quyền có liên quan, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về QCN trong các lĩnh vực văn hóa.
(ii) Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách bảo đảm quyền tiếp cận bình đẳng trong giáo dục, không phân biệt đối xử; giáo dục nghề nghiệp gắn kết đào tạo với nhu cầu của doanh nghiệp.
(iii) Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật bảo đảm quyền lao động việc làm, quyền gia nhập công đoàn, quyền được giáo dục nghề nghiệp, an sinh xã hội, y tế, bảo hiểm thất nghiệp phù hợp với các giai tầng xã hội. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế: Luật Đất tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật thuế, Luật Phá sản..., giúp giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển.
Tiếp tục hoàn thiện các quy định bảo đảm quyền bình đẳng tiếp cận các dịch vụ công của mọi người, trong đó chú trọng đối tượng thụ hưởng là các nhóm xã hội dễ bị tổn thương như:   Luật Tiền lương tối thiểu, Luật Trợ giúp xã hội, Luật về công tác xã hội, Luật Hiến máu, Luật Dự phòng và hỗ trợ phục hồi cho người sử dụng ma túy, Luật Bảo vệ sức khỏe tâm thần, Luật Dân số, Luật về người có công với nước, Luật Phòng, chống mại dâm, Luật An sinh xã hội.
Trong bối cảnh dịch bệnh ngày càng phức tạp đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng sức khỏe của mọi người, cần tập sớm sửa đổi, bổ sung một số luật hiện hành cho phù hợp với thực tiễn đất nước và thế giới như: Luật Phòng, chữa bệnh truyền nhiễm; Luật Khám bệnh, chữa bệnh; Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến lấy xác...
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật bảo đảm thực hiện các QCN của các nhóm xã hội dễ bị tổn thương.
Một là, xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật, bảo đảm nguyên tắc tạo cơ hội tiếp cận các quyền về an sinh xã hội, các dịch vụ y tế, giáo dục và nhà ở cho trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi, người khuyết tật, người nghèo, dân tộc thiểu số...
Hai là, chú trọng hoàn thiện các quy định về bảo đảm quyền trẻ em, bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ; quyền của người khuyết tật; quyền của người dân tộc thiểu số, xóa bỏ sự phân biệt đối xử và định kiến xã hội đối với người dân tộc thiểu số; bảo đảm các cộng đồng thiểu số được tham vấn, tham khảo trong quá trình ra quyết định về các vấn đề có tác động đến họ; xây dựng khuôn khổ pháp lý nhằm ngăn chặn sự ngược đãi...
 Ba là, xây dựng hoàn thiện chính sách, pháp luật tạo cơ sở pháp lý phòng, chống có hiệu quả tội phạm buôn bán người; triển khai các giải pháp hỗ trợ tái hòa nhập cho các nạn nhân bị mua bán; tăng cường hợp tác phòng, chống buôn bán người và bảo đảm quyền của các nạn nhân. Xem xét lộ trình gia nhập Công ước về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di cư và các thành viên gia đình họ năm 1990; Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích năm 2006. Xem xét rút bảo lưu đối với Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 mà Việt Nam là thành viên.
2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Thứ nhất, tiếp tục nghiên cứu, rà soát hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế nhà nước bảo đảm QCN, QCD, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của thiết chế lập pháp, hành pháp, tư pháp hiệu lực, hiệu quả, tinh gọn, khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ hoặc tổ chức không phù hợp; bảo đảm tính đồng bộ, hệ thống, kế thừa những thành quả, kinh nghiệm đã đạt được, phù hợp với đặc điểm của hệ thống chính trị nước ta vận hành theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” đáp ứng yêu cầu của tiến trình đổi mới đất nước, hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”.
Một là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về đổi mới tổ chức và hoạt động của thiết chế lập pháp (Quốc hội); quy định về đổi mới, nâng cao chất lượng quy trình lập pháp, tập trung xây dựng, hoàn thiện pháp luật về giám sát của các cơ quan dân cử; quy định rõ ràng chế tài, trách nhiệm của người có thẩm quyền; tăng cường sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, tạo cơ sở pháp lý tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ QCN, QCD.
Hai là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về đổi mới tổ chức và hoạt động của thiết chế hành pháp (Chính phủ) theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, có năng lực tổ chức thực thi hiệu quả chính sách, pháp luật về QCN, QCD trong thực tiễn và quy định về trách nhiệm giải trình của các cơ quan quản lý nhà nước trước các vấn đề liên quan đến QCN, QCD.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về đổi mới tổ chức và hoạt động của thiết chế tư pháp để tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tư pháp thực thi trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ QCN, QCD, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân bao gồm: tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án và các cơ quan, tổ chức tham gia vào quá trình tố tụng tư pháp (các thiết chế bổ trợ tư pháp, trong đó đặc biệt là luật sư).
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, bảo đảm phù hợp với địa bàn nông thôn, đô thị, hải đảo, đơn vị hành chính, kinh tế đặc biệt; tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; quy định về cải cách phân cấp, phân quyền trong tổ chức thực hiện pháp luật về QCN, QCD.
Năm là, tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp luật về đổi mới tổ chức và hoạt động của thiết chế thực hiện chức năng chuyên trách về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát quyền lực để phòng ngừa, phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi vi phạm pháp luật về QCN, QCD; phòng, chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí.
Sáu là, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tạo cơ chế tuyển dụng, sử dụng người có đức tài; bảo đảm tăng cường kỷ luật, kỷ cương đi đôi với cải cách tiền lương, chế độ, chính sách đãi ngộ, tạo môi trường, điều kiện làm việc để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phục vụ phát triển; có cơ chế để khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực thi công vụ vì QCN, QCD.
Thứ hai, tiếp tục nghiên cứu, rà soát hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế xã hội về bảo đảm QCN, QCD, tạo cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của thiết chế xã hội.
 Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, huy động sự tham gia tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức thành viên đối với công tác xây dựng pháp luật và giám sát thi hành pháp luật về QCN, QCD; hoàn thiện các quy định để có cơ sở thiết lập các kênh tiếp nhận khiếu nại, tố cáo thuận tiện và tăng tỷ lệ giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến các vi phạm QCN, QCD; hoàn thiện các quy định để tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về QCN, QCD của các thiết chế xã hội.
Thứ ba, tiếp tục nghiên cứu, rà soát hoàn thiện các quy định của pháp luật về tổ chức và hoạt động của các thiết chế truyền thông, báo chí góp phần bảo đảm QCN, QCD tuân thủ nguyên tắc hiến định về tiếp cận thông tin, quyền tự do ngôn luận trên truyền thông, báo chí nhưng đó là nhóm quyền có thể bị hạn chế, giới hạn vì quyền dân tộc tự quyết; quyền bí mật riêng tư... của cá nhân, tổ chức; hoàn thiện các quy định để khắc phục tính hai mặt của thiết chế truyền thông, báo chí đối với vấn đề dân chủ, QCN, QCD để phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực khi truyền thông, báo chí bị các thế lực lợi dụng để chống lại quyền tự quyết của dân tộc, QCN, QCD.
3. Giải pháp tổ chức thực hiện hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
3.1. Giải pháp tổ chức thực hiện hoàn thiện pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Thứ nhất, đổi mới quy trình xây dựng pháp luật, về QCN, QCD. Thể chế hóa đầy đủ, kịp thời, đúng đắn quan điểm, định hướng của Đảng trong Văn kiện Đại hội XIII và các quy định của Hiến pháp năm 2013 thành các đạo luật, văn bản pháp luật về QCN, QCD; bảo đảm tiến độ, chất lượng các dự án luật, pháp lệnh, nghị quyết... tạo cơ sở pháp lý bảo đảm tốt hơn QCN, QCD theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; khắc phục tình trạng ban hành luật khung, luật ống về QCN, QCD khi nội dung đã rõ, đã chín muồi; đồng thời, cần khắc phục tình trạng luật quy định quá cụ thể, bảo đảm tính ổn định, hiệu lực lâu dài của pháp luật về QCN, QCD. Đồng thời, tổ chức thẩm định những hồ sơ dự án, dự thảo xây dựng các văn bản pháp luật khi bảo đảm đủ điều kiện, thủ tục theo quy định của pháp luật mới được tổ chức triển khai quy trình xây dựng dự án, dự thảo đó khắc phục tình trạng: chất lượng các đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa cao và tình trạng các dự án, dự thảo văn bản sau khi đã đưa vào chương trình nhưng phải xin lùi, rút điều chỉnh.
Thứ hai, nâng cao kỹ thuật lập pháp; hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật về QCN, QCD; ứng dụng thành tựu của khoa học, kỹ thuật, đặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin để   đổi mới phương pháp, tiến độ, chất lượng và hiệu quả của quy trình xây dựng pháp luật về QCN, QCD.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật nhằm phát hiện và loại bỏ kịp thời các văn bản trái với các quy định về QCN, QCD trong Hiến pháp và luật. Gắn kết chặt chẽ công tác này với công tác xây dựng pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật, về QCN, QCD. Phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm trong công tác xây dựng luật, pháp lệnh về QCN, QCD.
Thứ tư, tạo cơ chế để thu hút các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, mọi tầng lớp nhân dân tham gia thiết thực, hiệu quả vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về QCN, QCD.
Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế để tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật về QCN, QCD của các nước trên thế giới.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về quyền con người, quyền công dân theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về QCN, QCD.
Một là, tiếp tục thực hiện có hiệu quả Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật và Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật giai đoạn 2017 - 2021, trong đó gắn giáo dục QCN với giáo dục pháp luật nói chung trong toàn xã hội và trong nhà trường; thực hiện tốt và hiệu quả Đề án “Đưa nội dung QCN vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, giai đoạn 2017 - 2025” (theo Quyết định số 1309/QĐ-TTg ngày 05/9/2017 của Thủ tướng Chính phủ) và Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về QCN ở Việt Nam” (theo Quyết định số 16/QĐ-TTg ngày 02/3/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền về QCN ở Việt Nam”) và Quyết định số 1252/QĐ-TTg ngày 26/9/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch tăng cường thực thi hiệu quả Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và các khuyến nghị của Ủy ban Nhân quyền Liên hợp quốc.
Hai là, từng bước chuyển dần cách thức phổ biến, giáo dục pháp luật từ mô hình Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong việc đưa pháp luật về QCN, QCD đến với người dân sang mô hình người dân tự tìm hiểu pháp luật về QCN, QCD là chính; thực hiện trợ giúp pháp lý về QCN cho những người thuộc diện chính sách theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Ba là, phát huy vai trò của thiết chế truyền thông, báo chí để đa dạng hóa các hình thức truyền thông, tạo thuận lợi tối đa cho người dân tiếp cận pháp luật.
Bốn là, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về quan điểm phổ biến, giáo dục pháp luật về QCN, QCD là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị và của từng cơ quan. Tăng ngân sách hằng năm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Đồng thời, tiếp tục đấu tranh, phê phán những quan điểm, luận điệu sai trái về QCN, QCD của các thế lực thù địch.
Năm là, quan tâm xây dựng củng cố, tăng cường đội ngũ, nhân lực giáo dục QCN, QCD có đủ số lượng và bảo đảm chất lượng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ giáo dục QCN, QCD.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả công tác tổ chức thi hành pháp luật về QCN, quyền công dân.
Một là, xây dựng, ban hành quy định cụ thể tiêu chí đánh giá hiệu quả thi hành pháp luật về QCN, QCD làm công cụ phục vụ nhiệm vụ theo dõi thi hành pháp luật về QCN, QCD.
Hai là, xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành và xác định trách nhiệm phối hợp của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, chính quyền địa phương trong tổ chức thực hiện pháp luật về QCN, QCD.
Ba là, nghiên cứu xây dựng, ban hành Luật về tổ chức thi hành pháp luật, trong đó có thi hành pháp luật về QCN, QCD để thực hiện một cách thống nhất công tác tổ chức thi hành pháp luật, công tác theo dõi thi hành pháp luật nói chung và pháp luật về QCN, QCD nói riêng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của những hoạt động này[55].
Thứ ba, nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thi hành pháp luật về QCN, quyền công dân.
Một là, thực hiện nghiêm túc quy định của pháp luật về tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo để nắm bắt thông tin kịp thời; ngăn chặn, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về QCN, QCD.
Hai là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc tổ chức thi hành pháp luật về QCN, QCD, để phát hiện thiếu sót, bất cập của chính sách, pháp luật về QCN, QCD khi đi vào cuộc sống, kiến nghị chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện kịp thời; đồng thời, phát hiện và xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật về QCN, QCD của mọi tổ chức, cá nhân có khuyết điểm, vi phạm trong quá trình thực thi luật, pháp lệnh về QCN, QCD, không có ngoại lệ.
Ba là, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan dân cử và của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các cơ quan báo chí, truyền thông và của nhân dân đối với thi hành pháp luật về QCN, QCD.
Thứ tư, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp pháp lý về QCN, quyền công dân, tạo cơ hội bình đẳng cho mọi tổ chức, cá nhân, đặc biệt các nhóm xã hội dễ bị tổn thương tiếp cận công lý.
Một là, phát triển đồng bộ các dịch vụ pháp lý, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa các dịch vụ pháp lý. Có chính sách cụ thể để phát triển các tổ chức, dịch vụ pháp lý có chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu hỗ trợ pháp lý của người dân, doanh nghiệp tiếp cận công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của mình.
Hai là, tạo cơ chế phát triển mạnh mẽ đội ngũ luật sư đủ về số lượng, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, giữ vững bản lĩnh chính trị và đạo đức nghề nghiệp, tác nghiệp vì QCN, QCD, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường, mở rộng dân chủ, tăng tính pháp quyền và hội nhập quốc tế.
 Ba là, có cơ chế hỗ trợ để tăng cường mạng lưới trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật miễn phí cho các đối tượng dễ bị tổn thương được trợ giúp pháp lý miễn phí (như các đối tượng dễ bị tổn thương trong xã hội, các đối tượng bị xâm hại tình dục, bạo lực gia đình…).
Bốn là, tiếp tục đẩy mạnh việc xã hội hoá một số hoạt động bổ trợ tư pháp (công chứng, bán đấu giá tài sản...) nhằm mang lại các dịch vụ tốt nhất cho người dân bình đẳng cơ hội tiếp cận dịch vụ pháp lý để bảo vệ QCN, QCD.
Thứ năm, tạo nguồn nhân lực đủ số lượng và bảo đảm chất lượng làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật về QCN, QCD.
Một là, tiếp tục hoàn thiện chế độ công chức, công vụ. Tăng cường kỷ cương, kỷ luật hành chính gắn với giáo dục nâng cao văn hóa, đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật về QCN, QCD.
 Hai là, tiếp tục đổi mới cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm; tiêu chí đánh giá hiệu quả thực thi nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác xây dựng và thi hành pháp luật về QCN, QCD.
Thứ sáu, bảo đảm nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất cho công tác xây dựng và thi hành pháp luật về QCN, QCD.
Đổi mới cơ chế phân bổ kinh phí xây dựng và tổ chức thực hiện pháp luật về QCN, QCD phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam, bảo đảm nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, công bằng, hợp lý, đúng quy định. Có cơ chế giám sát thu chi, bảo đảm tránh lãng phí, thất thoát, tham nhũng, tiêu cực trong sử dụng nguồn kinh phí được phân bổ.
Thứ sáu, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực QCN.
Một là, đổi mới cơ chế để chủ động tham gia các quan hệ hợp tác song phương và đa phương trên lĩnh vực pháp luật và tư pháp về QCN.
Hai là, tăng cường các hoạt động nghiên cứu, học tập kinh nghiệm, mô hình tốt của một số nước tiên tiến, có kinh nghiệm trong lĩnh vực xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về QCN. Đồng thời, tích cực tham gia có trách nhiệm xây dựng các cơ chế khu vực và quốc tế như cơ chế Liên hợp quốc, cơ chế khu vực ASEAN về QCN.
Ba là, có cơ chế tạo điều kiện tiếp nhận các hoạt động hợp tác quốc tế có tài trợ từ các đối tác; đồng thời phải giám sát chặt chẽ để tránh sự lợi dụng của các thế lực thù địch núp bóng tài trợ để thực hiện âm mưu “tự diễn biến” “tự chuyển hóa theo mục tiêu kép về nhân quyền gây bất lợi thậm chí chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, xâm phạm quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam.
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
 
[1] Ban Bí thư Trung ương Đảng, Chỉ thị số 12- CT/TW ngày 12/7/1992 về vấn đề quyền con người và quan điểm chủ trương của Đảng ta.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tập I, tr.33.
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.34.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr. 48.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr. 117.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.119-120.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr. 71.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr. 27.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr. 27-28.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.173.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.168-169.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tr.169.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tr.170.
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tr.170-171.
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tr.171.
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tr.272.
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.171-172.
[18] Nguyễn Thanh Tuấn, Đại hội XIII: Những chủ trương lớn về quyền con người, http://www.xaydungdang.org.vn/home/nhan_quyen/2021/15040/dai-hoi-xiii-nhung-chu-truong-lon-ve-quyen-con-nguoi.aspx, đăng ngày 01/6/2021, truy cập ngày 06/7/2021.
[19] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.173.
[20] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.172-173.
[21] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.175.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.114.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.51.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.175.
[25] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, 114.
[26] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, Sách đã dẫn, tr.202.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.203.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.38
[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.118.
[30] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.174-175.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.284.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.175.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.176.
[34] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.177.
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.177.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.177.
[37] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.178.
[38] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.179.
[39] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập II, tr.146-147.
[40] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập II, tr.146.
[41] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập II, tr.99.
[42] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.179.
[43] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.118.
[44] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.172.
[45] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.272.
[46] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.284.
[47] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.117.
[48] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.174.
[49] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.280-281.
[50] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập II, tr.234.
[51] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.89.
[52] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.119.
[53] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.179.
[54] Đảng Cộng sản Việt Nam, Sách đã dẫn, tập I, tr.285.
[55] Ban cán sự Đảng Chính phủ, Báo cáo số 1182-BC/BCSĐCP ngày 13/11/2019 của Ban cán sự Đảng chính phủ về Tổng kết Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, tr.63.