Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và định hướng xây dựng...

26/11/2021
Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và định hướng xây dựng, hoàn thiện theo tinh thần văn kiện Đại hội XIII của Đảng
1. Thực trạng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay
Có thể nói, thực chất của tiến trình đổi mới ở nước ta trong 35 năm qua (tính từ Đại hội VI của Đảng năm 1986) về mặt kinh tế là việc tìm kiếm mô hình phát triển kinh tế tối ưu cho đất nước bằng việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp (tồn tại trước năm 1986) sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.[1] Đi kèm với đó là sự chuyển đổi thể chế kinh tế từ thể chế của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung dựa trên nền tảng công hữu sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng đa sở hữu. Tiến trình đổi mới tất yếu được thực hiện bằng sự dân chủ hóa mọi mặt của đời sống kinh tế, xã hội, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Từ Đại hội IX của Đảng (năm 2001), Đảng ta đã chính thức xác định mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là “nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý. Tinh thần đó được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001. Chủ trương có tính chiến lược này cũng được kế thừa nhất quán trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI, XII và XIII của Đảng cũng như trong Hiến pháp năm 2013.
Riêng về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kể từ năm 1986 đến nay, Trung ương Đảng đã hai lần ban hành Nghị quyết chuyên đề về chủ đề này, đó là Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 30/1/2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) về “tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 3/6/2017 của Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa XII về “Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Theo tinh thần các Nghị quyết này, nội dung cốt lõi của thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chính là các quy định pháp luật về sở hữu, quyền tài sản, pháp luật về đầu tư, kinh doanh (nhằm phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp), pháp luật về các loại thị trường (hàng hóa, dịch vụ, lao động, bất động sản, khoa học và công nghệ, tài chính v.v.), pháp luật về bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường (nhằm gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển bền vững, tiến bộ và công bằng xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu), pháp luật về giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế.
Theo đúng định hướng của Đảng, trong suốt 35 năm qua, trên cơ sở vừa tìm tòi từ thực tiễn cải cách, đổi mới, phát triển kinh tế, tham khảo kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia có nền kinh tế thị trường trên thế giới, nhất là các quốc gia phát triển, Việt Nam đã rất coi trọng công tác xây dựng thể chế phục vụ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cho tới nay, đúng như đánh giá của Đại hội XIII của Đảng, “hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các yếu tố thị trường và các loại thị trường từng bước phát triển đồng bộ, gắn với thị trường khu vực và thế giới. Nhiều rào cản tham gia thị trường được dỡ bỏ; môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện rõ rệt, khởi nghiệp sáng tạo và phát triển doanh nghiệp khá sôi động. Doanh nghiệp nhà nước từng bước được sắp xếp, tổ chức lại có hiệu quả hơn; kinh tế tư nhân ngày càng khẳng định là một động lực quan trọng của nền kinh tế; kinh tế tập thể từng bước đổi mới gắn với cơ chế thị trường; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, là bộ phận quan trọng của nền kinh tế nước ta”.[2] Bản thân các chỉ số về tăng trưởng kinh tế, kim ngạch xuất nhập khẩu, lượng vốn đầu tư nước ngoài được thu hút hàng năm, cùng mỗi năm khoảng trên 100 ngàn doanh nghiệp được thành lập mới là những con số biết nói minh chứng cho những thành tựu của việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua. Trong từng lĩnh vực pháp luật cụ thể, có thể thấy, các đạo luật điều chỉnh những quan hệ kinh tế, dân sự cơ bản nhất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được ban hành, trong số đó, phải kể tới các đạo luật sau: (1) Các đạo luật quy định về bảo vệ quyền sở hữu, quyền tài sản của người dân, doanh nghiệp, các đạo luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng, bảo đảm quyền tự do hợp đồng của người dân, doanh nghiệp như Bộ luật dân sự,[3] Luật Đất đai,[4] Luật Nhà ở[5], Luật Sở hữu trí tuệ[6], Luật Thương mại[7] v.v; (2) Các đạo luật quy định điều chỉnh các hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế như Luật Doanh nghiệp[8], Luật Đầu tư[9] v.v; (3) Các đạo luật về cạnh tranh, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng như Luật Cạnh tranh[10], Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng[11], Luật An toàn thực phẩm[12], Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa[13]…; (4) Các đạo luật về một số loại thị trường quan trọng như thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường bất động sản, thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường tín dụng như Bộ luật lao động, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản[14], Luật Thương mại, Luật các tổ chức tín dụng, Luật Chứng khoán…; (5) Các đạo luật về an sinh xã hội và bảo vệ môi trường như Luật Bảo hiểm xã hội[15], Luật Bảo vệ môi trường[16]…; (6) Các đạo luật về giải quyết tranh chấp và phá sản đã được ban hành, trong đó phải kể tới Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Luật Phá sản năm 2014[17]. Bên cạnh đó, các đạo luật về xử lý vi phạm trong lĩnh vực kinh tế cũng được ban hành trong đó phải kể tới Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung năm 2020).
Điều đặc biệt là, tư duy xây dựng pháp luật có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, trong đó có những thay đổi mang tính đột phá. Chẳng hạn, chuyển từ “tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”[18] (và chỉ dành riêng quyền tự do kinh doanh đó cho công dân) sang “tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”[19] (và dành cho tất cả mọi người). Điều này cũng đồng nghĩa với việc, không gian hoạt động kinh doanh, đầu tư của người dân, doanh nghiệp từ “trong khuôn khổ do pháp luật quy định” sang không gian rộng lớn hơn nhiều, thỏa sức sáng tạo, chỉ ngoại trừ những ngành, lĩnh vực pháp luật cấm. Đi kèm với đó là việc Nhà nước không cố gắng tìm ra các ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh để “cho phép” người dân, doanh nghiệp tiến hành đầu tư, kinh doanh, điều vừa bó buộc tiến trình giải phóng lực lượng sản xuất vốn còn non trẻ ở Việt Nam lại vừa không khả thi về mặt lập pháp, không thực sự phù hợp với bản chất của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân của Nhà nước, không thực sự với quan điểm, tư tưởng, giá trị nền tảng, cốt lõi trong chỉ đạo cách mạng của Đảng ta là cội nguồn mọi sức mạnh của Đảng, Nhà nước ta, chính quyền của ta là từ Nhân dân. Chúng ta cũng cần lưu ý tới một thực tế là không một nhà nước nào, dù có trình độ hiện đại đến đâu có thể giỏi hơn trí tuệ của toàn thể nhân dân - người chủ đích thực của Nhà nước.
Các nỗ lực trong cắt giảm thủ tục hành chính, cắt giảm các điều kiện kinh doanh bất hợp lý, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh trong những năm qua, nhất là kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 18/3/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thu được kết quả rất đáng ghi nhận.[20] Theo đó, các bộ, ngành, địa phương và cộng đồng doanh nghiệp đã nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh và ngày càng chủ động, tích cực triển khai các giải pháp trong phạm vi trách nhiệm của mình. Nhờ đó, hàng nghìn rào cản đối với hoạt động đầu tư, kinh doanh đã được dỡ bỏ; nhiều yếu tố, vấn đề về xã hội, quản lý, quản trị liên quan tới chất lượng môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia được chú trọng chỉ đạo giải quyết. Thứ hạng của Việt Nam trong tất cả các bảng xếp hạng quan trọng của quốc tế đều được cải thiện. Mặc dù là nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình thấp (thứ 127), nhưng nước ta vẫn đạt vị trí 70 về môi trường kinh doanh năm 2019 (tăng 20 bậc so với năm 2015) và thứ 67 về Năng lực cạnh tranh toàn cầu 4.0 (tăng 10 bậc so với năm 2018). Trong 5 năm qua, Năng lực cạnh tranh du lịch tăng 12 bậc, xếp thứ 63; Hiệu quả logistics tăng 25 bậc, xếp thứ 39; Đổi mới sáng tạo toàn cầu tăng 17 bậc, xếp thứ 42. Đặc biệt, xếp hạng về phát triển bền vững tăng 34 bậc, từ thứ 88 năm 2016 lên thứ 49 năm 2020. Ngoài ra, không ít chỉ số, tiêu chí cụ thể của nước ta được ghi nhận tiến bộ vượt bậc như: Tiếp cận điện năng tăng 81 bậc, xếp thứ 27; Ứng dụng công nghệ thông tin tăng 54 bậc, xếp thứ 41, v.v... Năm 2020, cùng với nỗ lực phòng chống, kiểm soát tốt đại dịch COVID-19, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung thực hiện các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp khắc phục tác động tiêu cực nhiều mặt của dịch bệnh, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, thúc đẩy phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.[21]
Mặc dù vậy, khách quan mà nói, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa cần tiếp tục được cải cách và hoàn toàn có thể được cải cách. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “…Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc, bất cập… Chất lượng luật pháp và chính sách trên một số lĩnh vực còn thấp. Môi trường đầu tư kinh doanh chưa thực sự thông thoáng, minh bạch. Chưa tạo được đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Thể chế phát triển, điều phối kinh tế vùng chưa được quan tâm và chậm được cụ thể hoá bằng pháp luật nên liên kết vùng còn lỏng lẻo… Thực hiện cơ chế giá thị trường đối với một số hàng hoá, dịch vụ công còn lúng túng. Một số loại thị trường, phương thức giao dịch thị trường hiện đại chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều vướng mắc, chưa hiệu quả, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất… việc bảo vệ thị trường trong nước, phòng ngừa, xử lý tranh chấp thương mại quốc tế còn bất cập.”[22] Thực tế cho thấy, nhiều quy định về đất đai, đăng ký tài sản, giao dịch điện tử, thương mại điện tử, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ dữ liệu cá nhân, các quy định điều chỉnh các mô hình kinh doanh mới trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, quy định về giải quyết tranh chấp thương mại v.v. đang rất cần được sửa đổi, bổ sung, ban hành mới.
2. Định hướng hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra mục tiêu phát triển tổng thể của Việt Nam tới năm 2030 và tầm nhìn tới năm 2045. Các văn kiện đã đề ra mục tiêu phát triển của đất nước với tầm nhìn đến năm 2045 cụ thể như sau: “phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN” (thu nhập cao).[23] Đến năm 2025, nước ta là “nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp”[24] (GDP bình quân đầu người khoảng 4700-5000 USD từ mức hiện nay là 2.779 USD) và đến năm 2030 là “nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”.[25] Như vậy, có thể thấy, trong 25 năm tới, từ nay tới 2045, Đảng đã đặt ra mục tiêu mang tính khát vọng cực lớn đó là đưa Việt Nam từ vị thế của quốc gia thu nhập trung bình thấp hiện nay lên quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, trong giai đoạn 1960 đến 2008, có hàng trăm quốc gia có khát vọng vươn lên trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, nhưng tuyệt đại đa số đều “mắc kẹt”, không vươn lên thành công, bị rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” (middle-income trap) và chỉ có 13 quốc gia/vùng lãnh thổ được xem là thành công[26] (trong đó, khu vực Đông Á và Đông Nam Á, người ta thường nhắc tới Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore). Kinh nghiệm quốc tế ấy gợi ý rằng, trên tiến trình hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao, Việt Nam cũng phải tìm cách để không bị rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Điều đó chỉ có thể thực hiện được nếu Việt Nam xây dựng được thể chế phát triển có chất lượng cao cùng một bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị thực sự hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, là nhân tố thúc đẩy phát triển. Điểm đáng lưu ý thêm là Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định 3 đột phá chiến lược về thể chế, nhân lực và hạ tầng[27] (như Văn kiện Đại hội XI và XII trước đây) nhưng nội hàm của từng khâu đột phá đều có sự bổ sung, phát triển. Chẳng hạn, với đột phá về nhân lực, Văn kiện nhấn mạnh yêu cầu “sử dụng, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài”, “khơi dậy khát vọng phát triển”, “phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc”.[28] Với đột phá về kết cấu hạ tầng, Văn kiện bổ sung “chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số”[29]. Với đột phá về thể chế, thay vì chỉ chú ý tới đột phá thể chế phát triển nền kinh tế thị trường, hiện nay Văn kiện mở rộng thêm là “thể chế phát triển” nói chung, bao gồm thể chế về “quản trị quốc gia”, nhấn mạnh khâu tổ chức thực hiện thể chế (“tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp”), thúc đẩy “đổi mới sáng tạo”, tăng cường “kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật”, “khuyến khích làm giàu theo pháp luật, phát triển mạnh tầng lớp trung lưu gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội[30]. Để phục vụ mục tiêu phát triển đó, Văn kiện Đại hội XIII đề ra nhiều định hướng cụ thể về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Cụ thể:
Thứ nhất, đối với thể chế về sở hữu và quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, Văn kiện Đại hội XIII chủ trương: “Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật”[31]… “Cải cách thể chế về quyền tài sản, tập trung vào các khâu đăng ký sở hữu và sử dụng tài sản, xử lý tài sản thế chấp ngân hàng, thủ tục phá sản”[32]… “Tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ”[33]. “Hoàn thiện pháp luật để huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, bảo đảm công khai, minh bạch và khắc phục tình trạng tranh chấp, khiếu kiện, tham nhũng, lãng phí. Đổi mới các chính sách quản lý đất để khuyến khích và tạo điều kiện tích tụ đất nông nghiệp, phát triển mạnh thị trường quyền sử dụng đất. Đổi mới và thực hiện chế độ quản lý mục đích sử dụng đất nông nghiệp một cách linh hoạt hơn; bãi bỏ các giới hạn về đối tượng được nhận chuyển nhượng đất nông nghiệp, tăng thời hạn giao đất, cho thuê đất nông nghiệp. Công khai, minh bạch việc quản lý, sử dụng đất công; tăng cường giám sát, quản lý chặt chẽ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất giao cho các cộng đồng và doanh nghiệp nhà nước”[34].
Thứ hai, đối với thể chế về tự do kinh doanh, đầu tư và phát triển các thành phần kinh tế, Văn kiện chủ trương: “Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Phấn đấu đến năm 2030 môi trường kinh doanh của Việt Nam được xếp vào nhóm 30 quốc gia hàng đầu (theo xếp hạng của Ngân hàng thế giới).”[35] “Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân của người Việt Nam cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế. Xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế tư nhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa công nghệ và phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyến khích hình thành, phát triển những tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực, quốc tế. Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỉ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60-65%”[36]. “Sửa đổi hệ thống luật và chính sách thuế, phí, lệ phí theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư. Mở rộng cơ sở thu, bảo đảm tính công bằng, trung lập của chính sách thuế; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ các thủ tục nộp thuế, phí của người dân và doanh nghiệp”[37].
Thứ ba, đối với thể chế về bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường nhằm bảo đảm phát triển bền vững, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Đổi mới phương pháp tiếp cận trong xây dựng và thực hiện pháp luật, chính sách lao động, việc làm bám sát với thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và xu hướng của thời đại; gắn trực tiếp các mục tiêu, chỉ tiêu về lao động, việc làm với mục tiêu phát triển kinh tế”[38]; “hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội, phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội linh hoạt, đa dạng, đa tầng hiện đại, hội nhập quốc tế, tiến tới thực hiện bảo hiểm xã hội toàn dân”[39]. “Phát triển kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các-bon thấp; khuyến khích phát triển mô hình kinh tế tuần hoàn để sử dụng tổng hợp và hiệu quả đầu ra của quá trình sản xuất”[40].
Thứ tư, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đề ra nhiều chủ trương thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, xây dựng nền kinh tế số, xã hội số và chính phủ số phù hợp với bối cảnh tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Có thể nói, đây là một trong những điểm nhấn của Văn kiện. Với nhận định “Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là công nghệ số phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia, dân tộc[41], Văn kiện chủ trương “Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới.”[42] Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm… trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Phát triển hạ tầng số và bảo đảm an ninh mạng, tạo điều kiện cho người dân và các doanh nghiệp thuận lợi, an toàn tiếp cận nguồn tài nguyên số, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn. Ưu tiên phát triển một số ngành công nghiệp mũi nhọn, công nghệ mới, công nghệ cao: Công nghệ thông tin và truyền thông, công nghiệp điện tử - viễn thông, công nghiệp sản xuất robot, ô tô, thiết bị tích hợp vận hành tự động, điều khiển từ xa, công nghiệp sản xuất phần mềm, sản phẩm số, công nghiệp an toàn thông tin… Phát triển một số doanh nghiệp viễn thông, công nghệ thông tin, doanh nghiệp số chủ lực thực hiện tốt vai trò dẫn dắt về hạ tầng công nghệ số, làm nền tảng cho nền kinh tế số, xã hội số, gắn với bảo đảm an toàn, an ninh thông tin và chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Tập trung sản xuất các thiết bị phục vụ hệ thống 5G… Giữ vững chủ quyền số quốc gia trên không gian mạng trong mọi tình huống. Đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số; đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số.
Thứ năm, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng khá coi trọng việc xử lý các khía cạnh pháp lý của quá trình hội nhập. Cụ thể, Văn kiện chủ trương “Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế”.[43] “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”.[44] “Bảo vệ lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam trong các tranh chấp kinh tế, thương mại và đầu tư quốc tế”[45], “Hỗ trợ doanh nghiệp về các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế”.[46] “Tiếp tục đổi mới hợp tác quốc tế về pháp luật theo hướng chủ động, tích cực, tận dụng hiệu quả các quy tắc, luật lệ quốc tế và tham gia các hoạt động của cộng đồng khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, nhằm tạo sự thay đổi về chất trong công tác hợp tác quốc tế về pháp luật. Nghiên cứu giải pháp gia tăng sự hiện diện của chuyên gia pháp luật Việt Nam trong các thiết chế luật pháp quốc tế”[47].
Thứ sáu, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng đề cao yêu cầu dân chủ hóa trong quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Đặc biệt, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội, Đảng ta có định hướng về xử lý mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Theo đó, Nhà nướcxây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo đảm an sinh xã hội, đời sống nhân dân, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh… quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường”.[48] Thị trườngđóng vai trò quyết định trong xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ; tạo động lực huy động, phân bổ hiệu quả các nguồn lực; điều tiết sản xuất và lưu thông; điều tiết hoạt động của doanh nghiệp, thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém.”[49] Các tổ chức xã hộicó vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật”.[50]Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp tham gia hình thành và điều tiết các quan hệ kinh tế thị trường[51]. Riêng về phương châm phát huy dân chủ trong văn kiện lần này, bên cạnh các nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được đề cập trước đây, Văn kiện còn bổ sung thêm nội dung “dân thụ hưởng và dân giám sát”. Báo cáo chính trị chủ trương “Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[52].
Ngoài ra, Văn kiện đã định ra tầm nhìn xây dựng hệ thống pháp luật đến năm 2030. Theo đó, “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, xây dựng được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân làm trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới.”[53] Văn kiện đặc biệt nhấn mạnh tới công tác tổ chức thi hành pháp luật trong giai đoạn tới. Theo đó, Văn kiện chủ trương “Đẩy mạnh giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật”.[54]Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và các điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật; cải cách thủ tục hành chính”.[55]Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh[56], “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật… Tăng cường năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.[57]Giảm tối đa rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp”.[58]
Có thể nói, những chủ trương, định hướng kể trên sẽ chi phối công tác hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thập niên sắp tới. Thực hiện được đầy đủ những chủ trương, định hướng này sẽ góp phần đặc biệt quan trọng vào tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước ta trong tình hình mới.
3. Phương hướng lập pháp phục vụ việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian tới
Những chủ trương, định hướng kể trên sẽ chi phối công tác xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật phục vụ sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới. Thực hiện được đầy đủ những chủ trương, định hướng này sẽ góp phần đặc biệt quan trọng vào tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước ta trong tình hình mới. Trên cơ sở những định hướng này, ngày 30/8/2021, Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động nhiệm kỳ 2021-2026 trong đó xác định khá cụ thể danh mục những văn bản Luật và Nghị quyết mà Chính phủ dự kiến trình Quốc hội trong nhiệm kỳ 2021 - 2026 để thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta ngày thêm hoàn thiện. Những văn bản này tập trung vào một số lĩnh vực như sau:
Đối với lĩnh vực về sở hữu, quyền tài sản và hoạt động đầu tư, kinh doanh, sẽ sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Hợp tác xã, Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp, Luật Tài nguyên nước, Luật Khoáng sản, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; xây dựng Luật Khu công nghiệp, Khu kinh tế.
Đối với lĩnh vực pháp luật điều chỉnh một số loại thị trường nhất định, sẽ sửa đổi, bổ sung Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Đấu thầu, Luật Giao dịch điện tử và kinh tế số, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Luật Bảo hiểm tiền gửi, Luật Hóa chất, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Viễn thông, Luật Điện lực, Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Quảng cáo, Luật Giá, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Dược, Luật Năng lượng nguyên tử, Luật Công chứng, Luật Luật sư, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Việc làm; xây dựng và ban hành mới Luật Xử lý nợ xấu, Luật Công nghiệp hỗ trợ, Luật Phát triển công nghiệp…
Đối với lĩnh vực thuế, các luật sau đây sẽ dự kiến được nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung: Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt, Luật Thuế Giá trị gia tăng, Luật Thuế thu nhập cá nhân; xây dựng và ban hành mới Luật Thuế tài sản.
Ngoài ra, một số đạo luật rất quan trọng liên quan trực tiếp tới sự vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng được tính toán để ban hành mới (như Luật Chính phủ số, Luật Công nghiệp công nghệ số, Luật Quản lý không gian ngầm, Luật Quản lý quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Quản lý, phát triển đô thị v.v.) hoặc sửa đổi, bổ sung (như Luật Phòng, chống rửa tiền, Luật Xây dựng, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế v.v.).
Có thể nói, khối lượng công việc xây dựng pháp luật nói chung và hoạt động lập pháp nói riêng nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong nhiệm kỳ 2021-2026 là rất lớn. Điều đó đòi hỏi sự vào cuộc “từ sớm”, “từ xa” của các cơ quan có liên quan trong cả hệ thống chính trị. Việc vận dụng đúng đắn những bài học kinh nghiệm đã đúc rút được trong hoạt động lập pháp những nhiệm kỳ vừa qua, nhất là phải làm sao đầu tư thật thỏa đáng nguồn lực cho công tác dự báo tình hình, phân tích chính sách, đánh giá tác động, tham vấn ý kiến của các đối tượng chịu sự tác động của văn bản, chuyên nghiệp hóa và nâng tầm đội ngũ cán bộ, công chức tham gia quá trình xây dựng pháp luật chính là điều rất quan trọng. Thêm vào đó, việc giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động xây dựng pháp luật, tuân thủ đúng và đầy đủ các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2020) cũng là một trong những chìa khóa để bảo đảm thành công việc thực hiện các nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra.
TS. Nguyễn Văn Cương, Viện trưởng
Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp
 
[1] PGS.TS. Bùi Tất Thắng, “Thay đổi tư duy và quan điểm lý luận về các thành phần kinh tế trong bối cảnh mới” trong PGS.TS. Trần Đình Thiên (Chủ biên), Các thành phần kinh tế Việt Nam: Vấn đề và định hướng chính sách (Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia sự thật, 2020) tr. 77.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 59-60.
[3] Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015.
[4] Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 và Luật Đất đai năm 2013.
[5] Luật Nhà ở năm 2005 và Luật Nhà ở năm 2014.
[6] Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009).
[7] Luật Thương mại năm 1997 và Luật Thương mại năm 2005.
[8] Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990, Luật Doanh nghiệp năm 1999, Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2020.
[9] Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài năm 1996, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 1994, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đầu tư năm 2014 và Luật Đầu tư năm 2020.
[10] Luật Cạnh tranh năm 2004, sau đó được thay thế bởi Luật Cạnh tranh năm 2018.
[11] Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010.
[12] Luật An toàn thực phẩm năm 2010.
[13] Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007.
[14] Luật Kinh doanh bất động sản năm 2006 và Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014.
[15] Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014.
[16] Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020.
[17] Việt Nam lần đầu tiên ban hành luật phá sản với tên gọi là “Luật Phá sản doanh nghiệp” vào năm 1993, sau đó đạo luật này được thay thế bởi Luật Phá sản năm 2004.
[18] Điều 57 Hiến pháp năm 1992 quy định “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”.
[19] Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề pháp luật không cấm”.
[20] Kể từ Nghị quyết này, năm 2015, 2016, 2017, 2018, Chính phủ đều ban hành Nghị quyết về chủ đề tương tự (Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 12/3/2015, Nghị quyết số 19-2016/NQ-CP ngày 28/4/2016, Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP ngày 6/2/2017, Nghị quyết số 19-2018/NQ-CP ngày 15/5/2018). Từ năm 2019, Chính phủ ban hành Nghị quyết có nội dung tương tự và được đặt tên là Nghị quyết số 02 (xem: Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2019 của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2020 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2020; Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2021 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021).
[21] Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 1/1/2021 về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2021.
[22] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 80-82.
[23] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 112.
[24] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 112.
[25] Theo phân loại của World Bank áp dụng cho năm tài chính 2020-2021, nước thu nhập trung bình cao là nước có thu nhập bình quân đầu người nằm trong khoảng 4.046-12.535 USD.
[26] Zhijie Zheng, Middle-Income Trap: An Analysis Based on Economic Transformations and Social Governance (Singapore: Palgrave Macmillan, 2020) at v.
[27] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 203.
[28] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 204.
[29] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 204.
[30] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 265.
[31] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 223.
[32] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 238.
[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 230.
[34] Chiến lược cũng chủ trương “Phát triển thị trường, đẩy mạnh thương mại hóa quyền sử dụng đất, tăng cường đăng ký quyền sử dụng đất và áp dụng định giá đất theo thị trường bảo đảm công khai, minh bạch”.
[35] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 224.
[36] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 240.
[37] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 237-238.
[38] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 269.
[39] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 270.
[40] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 275.
[41] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 106.
[42] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 132. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 chủ trương “Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công, quản lý và bảo vệ môi trường…” [Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 223].
[43] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 135-136.
[44] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 164.
[45] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 284.
[46] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 243.
[47] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), tập II, tr. 154.
[48] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 130-131.
[49] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 131.
[50] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 131-132.
[51] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 133.
[52] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 173.
[53] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 285.
[54] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 143.
[55] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 179.
[56] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 223.
[57] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 285-287.
[58] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr. 224-225.