Vai trò của Bộ Tư pháp trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong bối cảnh hiện nay

30/08/2021
 1. Hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa là một nhiệm vụ quan trọng của các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ này lại càng quan trọng hơn hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa[1], nhất là trong bố cảnh dịch bệnh Covid-19 ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp[2]. Mặc dù, Nhà nước không phải là chủ thể duy nhất có thể hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa[3] nhưng Nhà nước (Bộ Tư pháp thống nhất quản lý nhà nước công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi cả nước[4]) luôn phải đóng vai trò chính trong hoạt động này.  
Hệ thống quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được quy định trong Luật (Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017), Nghị định (Nghị định số 55/2019/NĐ-CP thay thế Nghị định số 66/2008/NĐ-CP), Thông tư (Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP) và các văn bản pháp luật liên quan; nội dung bao gồm các nội dung cơ bản quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp về đối tượng, hoạt động hỗ trợ, trách nhiệm các cơ quan có liên quan, bảo đảm thực hiện cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Sự hình thành và phát triển pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại Việt Nam trong thời gian qua cụ thể như sau:
- Giai đoạn trước năm 2008[5]: việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn này chưa được coi là một chính sách, một công việc quan trọng thuộc chức năng kinh tế của Nhà nước. Điều này thể hiện ở chỗ: Một là, chưa có văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành dành cho vấn đề này. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về sự quan tâm đến doanh nghiệp chủ yếu tồn tại dưới hình thức các chủ trương, chính sách, nghị quyết mà thôi. Hai là, chưa hình thành một tổ chức (dù là sơ khai) có tính chất nhà nước để thực hiện một cách chuyên nghiệp các nhiệm vụ có liên quan đến công tác hỗ trợ nói chung và hỗ trợ pháp lý nói riêng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ba là, Nhà nước chưa hình thành (xây dựng) bất cứ một nguồn tài chính đáng kể nào cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trên thực tế, mạnh ai nấy làm một cách manh mún, tự phát. 
Các hoạt động, hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp còn “đơn giản, nghèo nàn” chủ yếu thông qua hoạt động phổ biến, tuyên truyền, tập huấn pháp luật cho doanh nghiệp, do đó, hiệu quả chưa cao, chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của doanh nghiệp và chưa đáp ứng được yêu cầu cần hỗ trợ pháp lý của doanh nghiệp; không phát huy được vai trò, ý nghĩa của hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trên thực tế, giữa nhu cầu tìm hiểu pháp luật, nâng cao tri thức pháp luật, các doanh nghiệp rất cần đến các hình thức hỗ trợ pháp lý khác như giải đáp pháp luật, giải quyết các công việc cụ thể phát sinh trong hoạt động sản xuất, kinh doanh mà doanh nghiệp tự thấy bản thân mình không thể giải quyết được… vì vậy, tính nghèo nàn, giải đơn là đặc thù nổi bật các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn này.
- Giai đoạn từ năm 2008 đến năm 2017: hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp lần đầu tiên được ghi nhận trong một văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý cao của Nhà nước là Nghị định của Chính phủ (Nghị định số 66/2008/NĐ-CP). Với sự ra đời của Nghị định này, ở nước ta đã chấm dứt tình trạng thiếu quy định pháp luật về một lĩnh vực hoạt động rất quan trọng và cần thiết của Nhà nước đối với doanh nghiệp là lĩnh vực hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn sau năm 2008 được thực hiện thống nhất, đa dạng trên phạm vi cả nước; bước đầu đã phát huy được vai trò, ý nghĩa nhất định của hoạt động hỗ trợ pháp lý của Nhà nước đối với các doanh nghiệp, nâng cao vai trò, uy tín và tầm quan trọng của ngành Tư pháp trong cộng đồng doanh nghiệp.
- Giai đoạn từ năm 2017 đến nay: lần đầu tiên, chế định hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã được ghi nhận trong Luật với tư cách là văn bản quy phạm pháp luật có giá trị cao nhất (chỉ sau Hiến pháp) trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Khoản 3 Điều 14 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa năm 2017 quy định một cách khái quát nội dung hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn này được tập trung vào doanh nghiệp nhỏ và vừa, tuy nhiên, trong Nghị định số 55/2019/NĐ-CP vẫn cho phép mở rộng các đối tượng được hỗ trợ pháp lý khi có quy định. Cơ chế tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp thông qua mạng lưới tư vấn pháp luật được thiết lập tại các bộ, ngành lần đầu tiên được thí điểm áp dụng để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa (Điều 9 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP). Cơ chế này tạo điều kiện để huy động sự tham gia tích cực hơn nữa của các tư vấn viên pháp luật gồm các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, trung tâm tư vấn pháp luật vào hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2. Công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (trong đó tập trung doanh nghiệp nhỏ và vừa) tại Việt Nam trong hơn 10 năm qua, bên cạnh những thành công và kết quả đáng ghi nhận, giúp cho Bộ Tư pháp tạo được “dấu ấn” trong cộng đồng doanh nghiệp[6] thì vẫn còn những khó khăn, bất cập cơ bản như sau:
Thứ nhất, sự quan tâm của của các bộ, ngành, địa phương trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vẫn còn những hạn chế, nhiều nơi mới chỉ dừng lại chủ trương ban hành chưa đi vào thực hiện cụ thể. Đến hết năm 2020, nhiều bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vẫn chưa ban hành Chương trình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong từng giai đoạn hoặc hàng năm theo yêu cầu của Nghị định số 55/2019/NĐ-CP, do đó, chưa có cơ sở để triển khai các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong ngành, lĩnh vực và địa phương[7]. Công tác phối kết hợp giữa bộ, ngành và giữa bộ, ngành với địa phương, giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp còn hạn chế;
Thứ hai, nhân lực thực hiện các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của bộ, ngành và địa phương còn kiêm nhiệm thực hiện, không bố trí nhân sự cụ thể, xác định nhiệm vụ rõ ràng; cơ sở vật chất và phương tiện thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý liên ngành còn hạn chế và chưa đáp ứng được nhu cầu; chế độ thù lao cho các cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ pháp lý vẫn chưa đủ để mang tính khuyến khích cũng như tạo điều kiện cho nhân sự thực hiện công tác này;
Thứ ba, việc cân đối và bố trí kinh phí cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp; định mức kinh phí đối với nhiều hoạt động còn thấp so với thực tiễn triển khai trên thực tế dẫn đến khó khăn trong việc triển khai; nhiều địa phương không bố trí kinh phí riêng cho việc triển khai hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong khi kinh phí dành Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành còn hạn chế[8], công tác truyền thông chưa được đầu tư thỏa đáng.
3. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong bối cảnh mới và vai trò của Bộ Tư pháp trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đã trải qua hơn 10 năm triển khai chính thức ở Việt Nam và đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Chính vì vậy, lần đầu tiên trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã ghi nhận: “hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có bước phát triển mạnh”[9], thông qua đấy, tại các báo các đánh giá, chiến lược trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ đạo trọng tâm, định hướng trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong thời gian tới như sau: (i) hỗ trợ doanh nghiệp các vấn đề pháp lý trong giải quyết tranh chấp thương mại, giảm thiểu rủi ro trong hội nhập quốc tế[10]; (ii) tăng cường khả năng tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp[11]; (iii) có chính sách hỗ trợ hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp[12]; (iv) điều chỉnh các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp theo hướng thống nhất, có trọng tâm, trọng điểm, mang tầm quốc gia và thể hiện tính liên ngành, liên vùng[13]
Trên cơ sở đó, việc thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong bối cảnh mới, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, bối cảnh đại dịch Covid-19 toàn cầu đang ảnh hưởng lớn đến sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa thì việc tiếp tục hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần tiếp tục được nghiên cứu, thực hiện để đưa chủ trương, Nghị quyết của Đảng và thực tiễn. Tuy nhiên, để thực hiện tốt chủ trương này thì vai trò của ngành Tư pháp (Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan thống nhất quản lý nhà nước về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trong phạm vi cả nước[14]) cần được xác định rõ và được nâng cao trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; nhằm đưa ngành Tư pháp tới “gần” cộng đồng doanh nghiệp hơn, góp phần phát huy hiệu quả trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Đối với Bộ Tư pháp với tư cách là cơ quan thống nhất quản lý về công tác này trong thời gian tới vẫn cần có trách nhiệm chính tập trung thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm sau đây: (i) nghiên cứu, hoàn thiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo các phương thức mới, hiện đại, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm; (ii) tổng hợp, đánh giá, báo cáo tình hình hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên phạm vi cả nước; (iii) tổ chức, kiện toàn đầu mối hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp từ Trung ương tới địa phương (cấp tỉnh); (iv) đầu tư cơ sở vật chất phục vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; (v) xây dựng, vận hành hệ thống thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tập trung một đầu mối, đáp ứng được nhu cầu thông tin pháp lý đúng, kịp thời của doanh nghiệp, định kỳ công bố thông tin, thống kê về kết quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp và hiệu quả của nó.
Ngoài ra, với chức năng, nhiệm vụ được giao, Bộ Tư pháp cần quan tâm hơn nữa việc đánh giá, tổng kết kết quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hàng năm và 05 năm/01 lần trên phạm vi toàn quốc (không chỉ ở trong nước mà cả nước ngoài, khi bản thân các doanh nghiệp, nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn cần các hình thức hỗ trợ pháp lý của nhà nước như thông tin minh bạch các chính sách pháp luật cho doanh nghiệp); quan tâm nghiên cứu và triển khai các Đề tài khoa học cấp bộ nghiên cứu về vấn đề lý luận pháp luật và thực tiễn hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để từ đó nghiên cứu và hoàn thiện các quy định pháp luật trong các hoạt động này, đồng thời triển khai thống nhất, hiệu quả các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên cả nước, đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp về hỗ trợ pháp lý ở Việt Nam.
Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp mang tính chuyên ngành cao, do đó, Bộ Tư pháp mặc dù được coi là cơ quan đầu mối có vai trò thống nhất quản lý nhà nước và thực thi một số hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhưng do bị hạn chế về nhiều mặt (năng lực chuyên môn, bộ máy, kinh phí, nhân lực thực hiện…) nên không thể một mình gánh vác được hết trọng trách hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Vì vậy, trong Nghị định số 55/2019/NĐ-CP đã dành nhiều quy định cụ thể để làm rõ mối quan hệ giữa Bộ Tư pháp với các bộ, ngành khác có liên quan đến việc thực thi trách nhiệm chung của Nhà nước về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành và đặc biệt là mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan này với Bộ Tư pháp – đầu mối về công tác quản lý nhà nước về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp vẫn còn không ít điều chưa rõ, chưa đầy đủ, chưa hợp lý. Ví dụ: Nghị định số 55/2019/NĐ-CP quy định trách nhiệm của Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc hướng dẫn lập dự toán, bố trí, sử dụng, thanh quyết toán kinh phí ngân sách nhà nước cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, quy định này không rõ phạm vi, trách nhiệm, kết quả thực hiện dẫn đến việc chậm ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thay thế Thông tư liên tịch số 157/2010/TTLT-BTC-BTP trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (Thông tư liên tịch trên đã được áp dụng hơn 10 năm nay, đến tháng 5/2021, Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành Thông tư thay thế Thông tư liên tịch nêu trên).
Vì vậy, đây sẽ là vấn đề mà sắp tới Nhà nước ta phải quan tâm giải quyết vì trong bất cứ việc gì của Nhà nước, sự thành công của nó phụ thuộc rất nhiều vào năng lực hành động, chất lượng làm việc của cán bộ, công chức có liên quan. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không phải là độc quyền của Nhà nước. Hiệp hội, các tổ chức đại diện cho các doanh nghiệp, các Liên đoàn, Đoàn Luật sư cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong lĩnh vực này (ví dụ: tổng đài tư vấn doanh nghiệp miễn phí 19006199 do một số Công ty Luật thực hiện như Công ty Luật Việt Luật…; Hiệp hội doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam thường xuyên tổ chức hỗ trợ pháp lý miễn phí cho doanh nghiệp hội viên qua các đối thoại, tọa đàm, lớp bồi dưỡng pháp luật kinh doanh được tổ chức hằng năm…).
4. Các kiến nghị, đề xuất nâng cao vai trò của Bộ Tư pháp trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên tuyền, phổ biến pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Bộ Tư pháp thông qua Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025 cần tăng cường công tác tuyên tuyền, phổ biến pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp đối với cán bộ, công chức và đối với doanh nghiệp. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức các cấp, các ngành và doanh nghiệp về tầm quan trọng của pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp cần được nhìn nhận đúng đắn, đầy đủ và toàn diện về vị trí, vai trò và ý nghĩa của nó trong điều kiện phát triển kinh tế, xã hội hiện nay. Tình trạng không chỉ doanh nghiệp mà cả cán bộ, công chức không tôn trọng, thậm chí “thờ ơ, coi thường” các quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp là khá phổ biến. Quan tâm bố trí nguồn lực xây dựng “Đề án nâng cao chất lượng hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giai đoạn 2021-2030” trình Thủ tướng Chính phủ năm 2022 theo Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 20/5/2021 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (mục 131 Phụ lục).
Các hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hỗ trợ pháp lý hiện nay đã có nhưng cần quan tâm đầu tư nâng cấp hiệu quả. Ví dụ: việc xây dựng và vận hành Trang tin về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên Cổng thông tin của Bộ Tư pháp; việc xây dựng và phát hành các bản tin, tài liệu điện tử hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh Covid – 19 như hiện nay. Quan tâm, đầu tư nhân lực và kinh phí cho Trang tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (đặt ở Cổng thông tin của Bộ Tư pháp) để trở thành 01 trang tin điện tử chính thống về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, thu hút sự truy cập của các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp về các vấn đề liên quan đến hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Việc xây dựng thường xuyên và phát hành các bản tin, tài liệu điện tử về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; đổi mới các hình thức, nội dung trong việc xây dựng và phát sóng định kỳ hàng tuần các chương trình “Kinh doanh và pháp luật” trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam; xây dựng các Clip bài giảng điện tử về pháp luật kinh doanh cho doanh nghiệp, các tài liệu hướng dẫn pháp luật đơn giản, cụ thể dễ hiểu để phát rộng rãi trên các môi trường mạng, điện tử hay các trang xã hội để tăng cường lan tỏa các quy định pháp luật tới từng doanh nghiệp có nhu cầu.
Để tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần tập trung, nâng cao các hình thức tuyên truyền, phổ biến hiệu quả như sau: Xây dựng và nhân rộng các mô hình điểm, hiệu quả về hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp như mô hình “Cà phê doanh nhân”, “Cà phê doanh nghiệp thứ 7[15]...; nghiên cứu và nhân rộng mô hình “Bác sĩ doanh nghiệp”ở tỉnh Bắc Ninh.
Thứ hai, tăng cường phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp; giữa Bộ Tư pháp và địa phương trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Việc phối hợp giữa Bộ Tư pháp với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp; giữa Bộ Tư pháp và địa phương trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là 03 mối quan hệ phối hợp chủ yếu như sau: (i) Mối quan hệ phối hợp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giữa Bộ Tư pháp với Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (đầu mối là Sở Tư pháp) ở địa phương; (ii) Mối quan hệ phối hợp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giữa Bộ Tư pháp với các Bộ, ngành ở Trung ương; giữa Sở Tư pháp với các Sở, ngành ở địa phương; (iii)  Mối quan hệ phối hợp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giữa các bộ, ngành ở Trung ương với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, các hiệp hội ở Trung ương; giữa các sở, ngành ở địa phương với các tổ chức đại diện, hiệp hội ở địa phương.
Việc tăng cường phối hợp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp là một trong những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Trên tinh thần như vậy, để tăng cường hơn nữa sự phối hợp trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp cần phải thống nhất và thực hiện các giải pháp sau: (i) cần thống nhất sự phối hợp nên được thực hiện thông qua việc phối hợp thông tin pháp lý cho doanh nghiệp; tổ chức các hội nghị đối thoại, tọa đàm, lấy ý kiến doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật; phối hợp trong việc xây dựng tài liệu, giới thiệu văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến doanh nghiệp; phối hợp giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, tiếp nhận kiến nghị của doanh nghiệp; (ii) cần nghiên cứu xây dựng Quy chế phối hợp chung thực hiện hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp giữa Trung ương với địa phương, giữa các bộ, ngành với nhau và giữa bộ, ngành với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp, các hiệp hội trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, Bộ Tư pháp cần quan tâm ưu tiên nguồn lực triển khai Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành dành cho doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025; đổi mới xây dựng và thực hiện các hoạt động cụ thể của Chương trình giai đoạn 2021-2025 theo hướng tiếp cận từ mô hình quản lý theo kết quả và hướng tới nâng cao sự hài lòng của doanh nghiệp đối với hoạt động của cơ quan Nhà nước. Xây dựng khung đầu ra và kết quả cho Chương trình hỗ trợ pháp lý liên ngành và nâng cao năng lực xây dựng Kế hoạch hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ở địa phương cấp tỉnh gắn với xác định và đầu ra và kết quả cụ thể trong từng năm, từng giai đoạn.
Thứ ba, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua các hình thức, phương tiện, công nghệ thông tin hiện đại nhằm truyền tải, thực hiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hiệu quả trong thời đại công nghệ 4.0 và trong bối cảnh của đại dịch bệnh Covid – 19 toàn cầu như hiện nay. Với việc chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động, nhất là việc thông tin, tuyên truyền về pháp luật hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên các phương tiện thông tin đại chúng sẽ nâng cao năng lực sử dụng các phương tiện công nghệ thông tin trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của các cán bộ, công chức cơ quan nhà nước nói chung và thực hiện sử dụng, thụ hưởng các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của các doanh nghiệp, người lao động nói riêng sẽ được nâng cao, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu hỗ trợ pháp lý đa dạng của doanh nghiệp.
Để tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời đại cuộc Cách mạng công nghệ 4.0 và bối cảnh của đại dịch bệnh Covid – 19 toàn cầu như hiện nay, cần quan tâm nghiên cứu và thực hiện đồng bộ các giải pháp như sau:
Một là, việc quản lý, sử dụng hiệu quả hạ tầng kỹ thuật các ứng dụng công nghệ thông tin cần được triển khai áp dụng đến các cơ quan tư pháp (từ tổ chức pháp chế ở các bộ, ngành đến các Sở Tư pháp thành một hệ thống tin xuyên trục) trong toàn quốc và kể cả các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài nhằm thông tin pháp luật rộng rãi đến các đối tượng doanh nghiệp nhỏ và vừa trong và ngoài nước. Theo đó, cần xây dựng và vận hành cơ sở dữ liệu, phần mềm quản lý hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để tổ chức thực hiện, báo cáo thống kê hiệu quả về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong và ngoài nước, từ Trung ương tới địa phương; áp dụng trí tuệ nhân tạo trong việc tư vấn, hỗ trợ các thủ tục pháp lý cho doanh nghiệp.
Hai là, cần quan tâm kiện toàn và nâng cấp “Trang thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp” của Bộ Tư pháp thành “Trang thông tin Quốc gia về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp” nhằm phục vụ công tác quản lý, khai thác thông tin, đánh giá, rút kinh nghiệm trong hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; công khai thông tin về kết quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, công tác thông tin pháp luật cho doanh nghiệp, giải đáp pháp luật và tiếp nhận, tổng hợp, xử lý các kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật, tích hợp các nội dung, thông tin về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp của các bộ, ngành, địa phương vào Trang thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhằm thống nhất đầu mối và quản lý, theo dõi chung hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Kinh nghiệm các nước như Anh, Pháp, Hàn Quốc cho thấy, việc hỗ trợ thông tin pháp lý cho doanh nghiệp qua cơ sở dữ liệu, trang tin điện tử là hiệu quả và đáp ứng nhu cầu hỗ trợ của doanh nghiệp trong thời đại công nghệ số hiện nay.
Ba là, nghiên cứu thí điểm, đánh giá kết quả, nhân rộng việc tuyên truyền, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa trên các kênh thông tin khác ngoài kênh thông tin trên Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, các Trang thông tin điện tử… như kênh thông tin hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trên facebook, youtube, twitter và các mạng xã hội khác... đang được đánh giá có tính tuyên truyền, phố biến cao và tính lan tỏa mạnh mẽ hơn đối với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam.
Thứ tư, đảm bảo các điều kiện cần thiết để hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Kiện toàn tổ chức bộ máy hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, đội ngũ cán bộ làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp: Bộ Tư pháp cần chỉ đạo việc quan tâm trong việc sắp xếp, bố trí nhân sự chuyên trách trong công tác quản lý nhà nước hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi sự, doanh nghiệp sáng tạo. Trước mắt cần quan tâm tổ chức bộ phận chuyên trách thực hiện quản lý nhà nước trong công tác này tại Bộ Tư pháp (việc hình thành bộ phận này đảm bảo không phát sinh nhân sự mà Bộ có thể nghiên cứu bố trí riêng, đổi tên gọi nhóm thường trực hỗ trợ pháp lý (chủ yếu đang kiêm nhiệm hiện nay) để có vị trí, chức năng rõ ràng, độc lập trong việc thực hiện quản lý nhà nước về công tác này bởi trên thực tế Bộ Tư pháp vẫn đang phải thực tiếp tiếp dân, trả lời vướng mắc cho doanh nghiệp...[16]
Việc triển khai hiệu quả đầu mối chuyên trách hoạt động này sẽ giúp cho Bộ Tư pháp triển khai hiệu quả hơn hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp trong thời gian tới vì: (1) sẽ có một bộ phận chuyên trách ở Trung ương thường xuyên thực hiện, theo dõi và triển khai hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; (2) tập trung được nguồn lực, kinh phí dành cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp; và (3) thực hiện hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương trong cả nước trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, việc đảm bảo kinh phí, cơ cở vật chất, phương tiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp: Kinh phí, cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan nhà nước trong thời gian gần đây luôn được hoàn thiện và nâng cao nhưng về cơ bản là còn nhiều hạn chế trong điều kiện làm việc khó khăn, thu nhập thấp so với chi tiêu cuộc sống, vì vậy, những người làm ở các cơ quan nhà nước dễ bị dao động về lập trường tư tưởng, ảnh hưởng tới tinh thần trách nhiệm trong công tác nói chung và nhất là việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Do vậy, nguy cơ ngại hướng dẫn, thông tin hoặc tâm huyết thực hiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hiệu quả hoặc thực hiện hình thức, qua loa là khó tránh khỏi, do đó, để đảm bảo hiệu quả công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tăng cường sự tích cực của các cơ quan nhà nước trong việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa và doanh nghiệp khởi sự, doanh nghiệp sáng tạo thì phải đáp ứng đầy đủ và kịp thời kinh phí cho công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện hoạt động, đặt biệt là áp dụng công nghệ thông tin trong công tác này.
Thứ năm, tăng cường kiểm tra, giám sát và tổng kết, chia sẻ kinh nghiệm trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được đánh giá bước đầu đã có những kết quả thực hiện tích cực nhất. Để đạt được kết quả trên, hàng năm Bộ Tư pháp đều phối hợp với các bộ, ngành liên quan và các Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương triển khai công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Bộ Tư pháp phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiến hành kiểm tra, giám sát và tổng kết công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các Bộ, ngành và địa phương đại diện cho các tỉnh ở các miền Bắc, Trung và Nam và một số tổ chức đại diện cho doanh nghiệp. Qua công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp tại các Bộ, ngành và địa phương đại diện cho các tỉnh ở các miền Bắc, Trung và Nam và một số tổ chức đại diện cho doanh nghiệp đã tiếp nhận được nhiều thông tin thực tiễn về công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, những kết quả đạt được, hạn chế, khó khăn và các kiến nghị đề xuất về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp để cơ quan có thẩm quyền chỉ đạo, thực hiện các kiến nghị của các cơ quan, tổ chức nhằm khắc phục những hạn chế, khó khăn trong công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp.
Từ thực tế trên, các cơ quan chức năng có thẩm quyền, nhất là Bộ Tư pháp cần tiếp tục tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhằm kịp thời phát hiện các vướng mắc, khó khăn, uốn nắn kịp thời các nội dung, hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp. Tập trung công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có trọng tâm, trọng điểm; chú trọng công tác kiểm tra đột xuất nhằm kịp thời phát hiện những thiếu sót, vi phạm, nhất là những nơi có nhiều đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp. Thường xuyên tổng kết, đánh giá những mặt được, chưa được trong quá trình kiểm tra, giám sát, từ đó nghiên cứu, tổng hợp đề xuất hoặc sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp không còn phù hợp với thực tiễn hoặc ban hành văn bản chỉ đạo việc thực hiện trong toàn quốc nhằm tạo sự thống nhất trong hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, tránh trùng lặp, lẵng phí và hình thức, không đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp. Việc tổng kết thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp theo định kỳ hoặc theo chuyên đề phải hình thành được những quan điểm, những bài học và những hướng dẫn để đảm bảo việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được thực hiện thống nhất theo một quy chuẩn chung mà pháp luật quy định.
Thứ sáu, hoàn thiện chế độ khen thưởng, xử lý vi phạm trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Kịp thời động viên, khen thưởng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức có thành tích trong hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Bộ Tư pháp cần có các chế độ khen thưởng khích lệ cho các cá nhân, tổ chức làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp (nhất là các Luật sư, doanh nghiệp, những người làm công tác hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp ngoài nhà nước). Ví dụ: cần ban hành Quy chế khen thưởng và tổ chức thực hiện các hoạt động gắn với việc nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua việc tổ chức thường xuyên hàng năm để bình chọn, tôn vinh các luật sư, văn phòng luật sư… có nhiều hoạt động thiết thực, hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ví dụ: “Chương trình tôn vinh Luật sư để góp phần hỗ trợ pháp lý cho Doanh nghiệp”; “Chương trình Vinh danh Hãng Luật và Luật sư tiêu biểu” có nhiều đóng góp cho hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp…
Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong việc thực hiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp, nhất là việc thông tin kịp thời, chính xác các thông tin pháp lý cho doanh nghiệp khi có yêu cầu, thực hiện giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, tiếp nhận và xử lý các kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật; xử lý nghiêm, kiên quyết thay thế những công chức nhũng nhiễu, gây phiền hà, vi phạm đạo đức, lối sống và chuyên môn nghiệp vụ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp. Ví dụ: trường hợp công chức không thực hiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp như giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, tiếp nhận và xử lý các kiến nghị của doanh nghiệp thì có thể xem xét để đánh giá mức độ hoàn thành công việc cuối năm và là căn cứ để xem xét khi bình bầu, khen thưởng cho cán bộ, công chức đối với nhiệm vụ hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được giao.
Đối với công chức phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp thực hiện không đúng hoặc không thực hiện việc hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp thông qua các hình thức như thông tin pháp lý cho doanh nghiệp khi có yêu cầu, thực hiện giải đáp pháp luật cho doanh nghiệp, tiếp nhận và xử lý các kiến nghị của doanh nghiệp về hoàn thiện pháp luật. Đối với các tổ chức đại diện cho doanh nghiệp và các cá nhân, doanh nghiệp cũng phải xử lý nghiêm nếu có hành vi vi phạm trong quá trình thực hiện các hình thức hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp hình thức, gây lãng phí ngân sách của nhà nước và kịp thời khen thưởng bằng các hình thức khen thưởng xứng đáng đối với kết quả hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp./.
TS. Trần Minh Sơn[17]
 
 
[1] Trong số 758.610 doanh nghiệp đăng ký hoạt động hiện nay thì 97,7% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nhiều doanh nghiệp siêu nhỏ (Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam năm 2020, Bộ Kế hoạch và Đầu tư (số liệu về đăng ký doanh nghiệp Việt Nam tính đến ngày 31/12/2019).
[2] 87,2% doanh nghiệp bị ảnh hưởng tiêu cực bởi COVID-19 trong năm 2020 và những tháng đầu năm 2021, chỉ có 11% không ảnh hưởng gì và gần 2% vẫn kinh doanh tốt (Số liệu năm 2021 của Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) và Ngân hàng Thế giới (WB)).
[3] Còn có các thiết chế khác như các hiệp hội doanh nghiệp, câu lạc bộ, luật sư… cũng có thể thực hiện công việc này một cách độc lập hoặc cùng Nhà nước thực hiện hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
[4] Điểm a khoản 1 Điều 14 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
[5]Giai đoạn trước năm 2008 là giai đoạn trước khi Nghị định số 66/2008/NĐ-CP ngày 28/5/2008 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp được ban hành.
 
[7] Báo cáo số 292/BC-BTP ngày 31/12/2019 của Bộ Tư pháp tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình 585.
[8] Báo cáo số 292/BC-BTP ngày 31/12/2019 của Bộ Tư pháp tổng kết 10 năm thực hiện Chương trình 585.
[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo kết quả, tập II, trang 31.
[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược, tập I, trang 243.
[11] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chiến lược, tập I, trang 287.
[12] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo, tập I, trang 200.
[13] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo, tập II, trang 126.
[14] Điểm a, khoản 1, Điều 14 Nghị định số 55/2019/NĐ-CP ngày 24/6/2019 của Chính phủ về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa.
[15]Các mô hình này đã được triển khai hiệu quả ở một số tỉnh phía Bắc và phía Nam như: Quảng Ninh, Bắc Giang, Đồng Nai, Long An…
[16] Bộ Lập pháp của Hàn Quốc bố trí 06 biên chế chuyên trách vận hành hiệu quả mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp nhỏ và vừa với sự tham gia của hơn 200 luật sư.
[17] Vụ Pháp luật dân sự - kinh tế, Bộ Tư pháp