Hiện nay, nhiều UBND cấp huyện lúng túng khi lựa chọn cơ quan tham mưu giải quyết hồ sơ yêu cầu bồi thường nhà nước (BTNN), do pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể. Để bảo đảm hiệu quả công việc, cấp huyện cần cân nhắc kỹ các yếu tố trước khi giao.
Giải quyết yêu cầu BTNN là công việc phức tạp. Cán bộ phụ trách công tác này ở các cơ quan chuyên môn cũng chưa có kinh nghiệm, hầu hết làm kiêm nhiệm nên không có nhiều thời gian nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này. Mặt khác, rất hiếm địa phương cấp huyện phát sinh hồ sơ giải quyết yêu cầu BTNN, do đó khi tiếp cận hồ sơ cán bộ được giao nhiệm vụ tham mưu giải quyết thường lúng túng… Đó là bởi giải quyết yêu cầu BTNN là cả quá trình với nhiều hoạt động xử lý nghiệp vụ phức tạp, cần sự tham gia, phối hợp của nhiều cơ quan, tổ chức có liên quan. Bên cạnh đó, có nhiều yếu tố (đặc biệt là bên bị thiệt hại) làm ảnh hưởng đến quá trình giải quyết hồ sơ như: thời gian xác minh thiệt hại, thương lượng; tính hợp lý, khách quan của chứng cứ chứng minh do bên thiệt hại cung cấp; nếu vụ việc giải quyết kéo dài sẽ làm ảnh hưởng đến quy định về giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính, đến kết quả công tác cải cách hành chính của cơ quan, địa phương…
Trong khi đó, một trong những điểm mới căn bản của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (TNBTCNN) năm 2017 so với Luật TNBTCNN năm 2009 là quy định đầu mối quản lý nhà nước (QLNN) về công tác BTNN. Theo đó, ở trung ương, Bộ Tư pháp là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện chức năng QLNN về công tác BTNN. Ở địa phương, Sở Tư pháp được giao giúp UBND cấp tỉnh QLNN về công tác BTNN.
Điều 1 Thông tư số 08/2019/TT-BTP của Bộ Tư pháp quy định biện pháp thực hiện chức năng QLNN về công tác BTNN cũng nêu: “Thông tư này quy định biện pháp thực hiện chức năng QLNN về công tác BTNN của Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án đối với một số nhiệm vụ sau đây…”. Tại Điều 2 nêu: “Bộ Tư pháp và UBND cấp tỉnh (sau đây gọi chung là cơ quan quản lý nhà nước)”.
Như vậy, Luật TNBTCNN năm 2017 và văn bản liên quan không quy định chức năng QLNN về công tác BTNN tại địa phương của UBND cấp huyện.
Bên cạnh đó, tại Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện thuộc tỉnh, thành phố thuộc trung ương và Thông tư số 07/2020/TT-BTP của Bộ Tư pháp hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Sở Tư pháp thuộc UBND cấp tỉnh, Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện, Phòng Tư pháp không có chức năng tham mưu UBND cùng cấp thực hiện chức năng QLNN về công tác BTNN tại địa phương.
Trong khi đó, trước kia, Nghị định 16/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định tại Điều 26: UBND cấp huyện trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình phối hợp với Sở Tư pháp thực hiện QLNN về công tác BTNN tại địa phương. Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ quy định: Phòng Tư pháp thuộc UBND cấp huyện có chức năng, nhiệm vụ tham mưu UBND cùng cấp thực hiện QLNN về BTNN tại địa phương”.
Tuy vậy, Luật TNBTCNN năm 2017 không quy định chức năng QLNN về công tác BTNN của UBND cấp huyện, nhưng lại quy định rõ trách nhiệm giải quyết yêu cầu bồi thường. Cụ thể, khoản 3 Điều 33 nêu: “UBND cấp huyện là cơ quan giải quyết bồi thường trong trường hợp người thi hành công vụ gây thiệt hại thuộc thẩm quyền quản lý trực tiếp của mình”.
Điều này khiến các địa phương băn khoăn, không biết cơ quan chuyên môn cấp huyện nào có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp giải quyết khi phát sinh hồ sơ yêu cầu BTNN; việc tham mưu chỉ mang tính thời vụ hay ổn định, lâu dài…
Trong quá trình triển khai thi hành Luật TNBTCNN năm 2017, có nhiều quan điểm khác nhau về cơ quan nào được xem là phù hợp để tham mưu cho UBND cấp huyện giải quyết hồ sơ theo quy định tại khoản 3 Điều 33. Tựa chung có hai luồng quan điểm chính.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, chức năng tham mưu lĩnh vực này thuộc Phòng Tư pháp. Bộ phận này đã có thời gian dài thực hiện nhiệm vụ này theo văn bản hướng dẫn Luật TNBTCNN năm 2009. Đây cũng là cơ quan tham mưu cho UBND cùng cấp các vấn đề về pháp luật nên có chuyên môn sâu, có nhiều kinh nghiệm giải quyết hồ sơ. Có khá nhiều địa phương lựa chọn áp dụng quan điểm này không chỉ giao việc tham mưu giải quyết hồ sơ yêu cầu BTNN mà cả trong việc triển khai những văn bản, chỉ đạo của cơ quan có thẩm quyền.
Quan điểm thứ hai lại cho rằng, tùy tình hình địa phương và lĩnh vực chuyên môn phát sinh yêu cầu bồi thường mà UBND cấp huyện giao cơ quan chuyên môn phù hợp giải quyết. Cách làm này sẽ tạo sự linh hoạt trong từng trường hợp cụ thể, không làm tăng thêm nhiệm vụ cho phòng chuyên môn. Điều này còn giúp cán bộ, công chức, viên chức không ngừng tự tìm tòi, nghiên cứu tài liệu để nâng cao trình độ, nêu cao ý thức trách nhiệm trong công việc, không để xảy ra sai sót khi giải quyết hồ sơ.
Như trên đã nói, Luật TNBTCNN năm 2017 không quy định chức năng QLNN về công tác BTNN của UBND cấp huyện. Do vậy, khi có phát sinh hồ sơ theo khoản 3 Điều 33 Luật TNBTCNN năm 2017 phải có cơ quan được giao nhiệm vụ tham mưu cho UBND cấp huyện giải quyết. Tuy vậy, dù Phòng Tư pháp hoặc cơ quan chuyên môn khác được giao nhiệm vụ tham mưu giải quyết hồ sơ; giao theo vụ việc hoặc giao ổn định, lâu dài thì UBND cấp huyện cũng cần cân nhắc kỹ nhiều yếu tố như: tình hình biên chế, số lượng đầu việc của cơ quan chuyên môn, lĩnh vực phát sinh yêu cầu bồi thường… Chỉ như vậy, cấp huyện mới có quyết định chính xác, phù hợp thực tiễn địa phương, đặc biệt là bảo đảm chất lượng công tác tham mưu, nâng cao hiệu quả giải quyết yêu cầu BTNN đúng pháp luật.
Hải Dương