Mặc dù việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ như đã nêu trên nhưng trong thực tế, vì nhiều lý do khác nhau, việc ban hành các quyết định về xử phạt vi phạm hành chính vẫn không thể tránh khỏi có sai sót. Do vậy, tại khoản 3 Điều 18 Luật xử lý vi phạm hành chính (Luật XLVPHC) đã quy định về việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp có sai sót. Đây là một trong những quy định mới của Luật XLVPHC so với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính trước đây nhằm bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý của quyết định về xử phạt vi phạm hành chính sau khi được ban hành, nâng cao hơn nữa trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền trong công tác xử phạt vi phạm hành chính, kịp thời khắc phục, sửa chữa những sai sót, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính và cá nhân, tổ chức khác có liên quan.
Cần lưu ý, khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC quy định về việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính trong trường hợp có sai sót, bao gồm cả các quyết định về xử phạt vi phạm hành chính và các quyết định về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính. Do vậy, việc nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện pháp luật về sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính cũng vẫn phải được đặt trong tổng thể vấn đề sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính trong trường hợp có sai sót. Điều này có nghĩa là, các giải pháp hoàn thiện pháp luật về sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong bài viết này cũng gắn liền với giải pháp hoàn thiện pháp luật về sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính trong trường hợp có sai sót.
Cụ thể hóa quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC, Nghị định số 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xử lý vi phạm hành chính (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP ngày 18/8/2017) đã quy định chi tiết một số nội dung liên quan như: Căn cứ thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành mới các quyết định về xử phạt vi phạm hành chính; thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính; hiệu lực, thời hạn, thời hiệu thi hành của quyết định sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính; trách nhiệm và việc xem xét, xử lý trách nhiệm đối với người có thẩm quyền ban hành quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có sai sót tại các điều 6a, 6b, 6c, 6d và 6đ.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng các quy định của Luật XLVPHC và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) về sửa đổi, bổ sung, đính chính hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp có sai sót vẫn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc, cần được nghiên cứu tháo gỡ.
1. Về căn cứ thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành mới các quyết định về xử phạt vi phạm hành chính
Theo quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được bổ sung theo khoản 8 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP), nếu quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có sai sót về kỹ thuật soạn thảo thì tùy từng trường hợp, có thể được xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc đính chính: Nếu sai sót về kỹ thuật soạn thảo làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định thì phải sửa đổi, bổ sung; nếu sai sót về kỹ thuật soạn thảo không làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định thì chỉ cần thực hiện việc đính chính.
Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 6a và điểm a khoản 2 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được bổ sung theo khoản 8 và khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP), nếu quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có sai sót về nội dung thì tùy từng trường hợp, có thể được xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ: Nếu sai sót về nội dung nhưng không làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định thì chỉ sửa đổi, bổ sung; nếu sai sót về nội dung làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định thì phải hủy bỏ.
Mặc dù Điều 6a và Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được bổ sung theo khoản 8 và khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) đã quy định các trường hợp sai sót khác nhau làm căn cứ để người có thẩm quyền, tùy từng trường hợp cụ thể có thể thực hiện việc đính chính hoặc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ đối với quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có sai sót. Tuy nhiên, khi triển khai thực hiện trong thực tế, đã nảy sinh một số vấn đề khó khăn, vướng mắc xuất phát từ quy định tại Điều 6a và Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được bổ sung theo khoản 8 và khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP), cụ thể là:
1.1. Về căn cứ sửa đổi, bổ sung quyết định về xử phạt vi phạm hành chính
Khoản 12 Điều 38 Luật tố tụng hành chính năm 2015 quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán trong giải quyết vụ án hành chính đó là: “
Xem xét về tính hợp pháp của văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị kiện và đề nghị Chánh án Tòa án kiến nghị với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền xem xét văn bản hành chính, hành vi hành chính đó theo quy định của pháp luật”.
Điểm h khoản 1 Điều 37 Luật tố tụng hành chính cũng quy định một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của Chánh án Tòa án trong giải quyết vụ án hành chính đó là: “
Kiến nghị với cơ quan, cá nhân có văn bản hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khởi kiện xem xét sửa đổi, bổ sung hoặc bãi bỏ văn bản, chấm dứt hành vi đó nếu phát hiện có dấu hiệu trái với quy định của pháp luật”.
Điểm h khoản 2 Điều 31 Luật khiếu nại năm 2011 quy định quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính phải có nội dung sau đây: “
Giữ nguyên, sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại; giải quyết các vấn đề cụ thể trong nội dung khiếu nại”.
Điểm h khoản 2 Điều 40 Luật khiếu nại cũng quy định quyết định giải quyết khiếu nại lần hai đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính phải có nội dung sau đây: “
Kết luận nội dung khiếu nại là đúng, đúng một phần hoặc sai toàn bộ. Trường hợp khiếu nại là đúng hoặc đúng một phần thì yêu cầu người có quyết định hành chính, hành vi hành chính bị khiếu nại sửa đổi, hủy bỏ một phần hay toàn bộ quyết định hành chính, chấm dứt hành vi hành chính bị khiếu nại. Trường hợp kết luận nội dung khiếu nại là sai toàn bộ thì yêu cầu người khiếu nại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan thực hiện nghiêm chỉnh quyết định hành chính, hành vi hành chính”.
Căn cứ các quy định pháp luật nêu trên, có thể thấy, quyết định giải quyết khiếu nại của người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại được ban hành, trong đó có nội dung liên quan đến việc phải sửa đổi, bổ sung quyết định về xử phạt vi phạm hành chính hành chính và bản án, quyết định của Tòa án, trong đó có nội dung về việc phải sửa đổi, bổ sung quyết định về xử phạt vi phạm hành chính bị khởi kiện cũng là các căn cứ để người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính thực hiện việc sửa đổi, bổ sung quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có sai sót. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 8 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) lại không quy định các căn cứ này. Do vậy, để bảo đảm sự phù hợp với các quy định của Luật tố tụng hành chính, Luật khiếu nại, đồng thời thống nhất với cách quy định tại khoản 2 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP)
[1], chúng tôi cho rằng, cần bổ sung các căn cứ nêu trên vào khoản 1 Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (đã được bổ sung theo khoản 8 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP). Theo đó, khoản 1 Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 8 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) có thể được sửa đổi như sau:
“
1. Quyết định về xử lý vi phạm hành chính được sửa đổi, bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có sai sót về kỹ thuật soạn thảo làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định;
b) Có sai sót về nội dung nhưng không làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định;
c) Có quyết định giải quyết khiếu nại của người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về việc sửa đổi, bổ sung quyết định về xử lý vi phạm hành chính;
d) Có kiến nghị của Tòa án về việc sửa đổi, bổ sung quyết định về xử lý vi phạm hành chính bị khởi kiện.”
1.2. Về căn cứ hủy bỏ quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có sai sót
Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) thì người đã ban hành quyết định về xử phạt vi phạm hành chính phải hủy bỏ toàn bộ nội dung quyết định khi “
có vi phạm quy định pháp luật về thẩm quyền, thủ tục” xử phạt vi phạm hành chính.
Đây là trường hợp cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt áp dụng đúng các quy định của pháp luật xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm hành chính, cho nên, về mặt nội dung áp dụng pháp luật, quyết định về xử phạt vi phạm hành chính hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong quá trình ban hành quyết định về xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt đã không thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định pháp luật. Do vậy, người có thẩm quyền xử phạt phải ra quyết định hủy bỏ quyết định về xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành, đồng thời, ban hành quyết định về xử phạt vi phạm hành chính mới theo thẩm quyền nhằm bảo đảm đúng trình tự, thủ tục pháp luật quy định, hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ khiếu nại, khởi kiện đối với quyết định về xử phạt vi phạm hành chính.
Về mặt quy định pháp luật hiện hành là vậy, nhưng về mặt thực tiễn, chúng tôi cho rằng, quy định này chưa hoàn toàn phù hợp, gây lãng phí thời gian, phát sinh thủ tục. Bởi vì, quyết định về xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp này mặc dù có vi phạm về trình tự, thủ tục ban hành quyết định nhưng
không làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định, không cần thiết phải hủy bỏ toàn bộ để rồi lại phải ban hành một quyết định mới.
Nên chăng, trong trường hợp này, nhà làm luật cần nghiên cứu phân tách 02 trường hợp, tương tự như việc xử lý đối với 02 trường hợp có sai sót về mặt kỹ thuật làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định và sai sót về mặt kỹ thuật không làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định theo quy định tại điểm a khoản 1 và khoản 2 Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 8 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP), cụ thể là:
(i) Trường hợp thứ nhất, quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có vi phạm về trình tự, thủ tục ban hành quyết định, nhưng không làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định (ví dụ, đáng lẽ vụ việc vi phạm đơn giản, rõ ràng, người có thẩm quyền phải tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính ngay khi phát hiện hành vi vi phạm nhưng lại để kéo dài đến vài ngày sau mới lập biên bản, vi phạm quy định về tính “
kịp thời” của việc lập biên bản quy định tại khoản 1 Điều 58 Luật XLVPHC) hoặc nếu có hủy bỏ toàn bộ để ban hành quyết định mới, thì cũng không thể khắc phục được sai sót về trình tự, thủ tục (ví dụ, khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính, người có thẩm quyền đang thi hành công vụ không thực hiện việc buộc đối tượng chấm dứt ngay hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 55 Luật XLVPHC) thì không yêu cầu phải hủy bỏ toàn bộ quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
(ii) Trường hợp thứ hai, quyết định xử phạt vi phạm hành chính có vi phạm về trình tự, thủ tục ban hành quyết định, làm ảnh hưởng đến nội dung của quyết định thì mới yêu cầu phải hủy bỏ toàn bộ. Ví dụ, trường hợp vụ việc phải tiến hành định giá tang vật để làm căn cứ xác định khung tiền phạt, thẩm quyền xử phạt theo quy định tại Điều 60 Luật XLVPHC, nhưng người có thẩm quyền đã không tiến hành định giá hoặc có tiến hành việc định giá, nhưng không đúng theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định thì phải hủy bỏ toàn bộ quyết định xử phạt và tiến hành khắc phục sai sót về trình tự, thủ tục định giá tang vật vi phạm hành chính. Bởi vì, rất có thể, kết quả của việc tiến hành định giá (hoặc định giá lại) sẽ dẫn đến thay đổi về khung tiền phạt và thẩm quyền xử phạt.
1.3. Về căn cứ ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính
Điểm a khoản 3 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định việc người đã ban hành quyết định phải ban hành quyết định mới hoặc chuyển người có thẩm quyền ban hành quyết định mới (nếu có căn cứ để ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính) trong “
các trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1, khoản 2 Điều này”. Khoản 2 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định về các trường hợp
hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định. Quy định này dẫn đến cách hiểu rằng, sau khi quyết định về xử phạt vi phạm hành chính bị hủy bỏ một phần, người có thẩm quyền phải ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính.
Tương tự, điểm b khoản 3 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) cũng quy định việc người đã ban hành quyết định phải ban hành quyết định mới hoặc chuyển người có thẩm quyền ban hành quyết định mới (nếu có căn cứ để ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính) trong trường hợp có bản án, quyết định của Tòa án về việc
hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị khởi kiện
[2]. Quy định này cũng dẫn đến cách hiểu rằng, khi có bản án, quyết định của Tòa án về việc hủy bỏ một phần quyết định về xử phạt vi phạm hành chính, thì sau khi quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị hủy bỏ một phần, người có thẩm quyền phải ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính.
Chúng tôi thấy rằng, việc ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong các trường hợp này là không cần thiết và bất hợp lý, vì khi quyết định về xử phạt vi phạm hành chính bị hủy bỏ một phần thì chỉ phần nội dung quyết định bị hủy bỏ đó không còn hiệu lực thi hành, các nội dung khác của quyết định không bị hủy bỏ vẫn còn nguyên hiệu lực thi hành.
Để khắc phục bất cập trên đây, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung khoản 2 và khoản 3 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) theo hướng sau: Chuyển điểm b khoản 3 lên thành điểm c khoản 2; tại khoản 3, khi viện dẫn đến các trường hợp hủy bỏ tại khoản 2, chỉ viện dẫn các trường hợp hủy bỏ toàn bộ (không viện dẫn toàn bộ khoản 2, vì nếu viện dẫn toàn bộ khoản 2 sẽ bao gồm cả trường hợp hủy bỏ một phần và hủy bỏ toàn bộ). Theo đó, khoản 2 và khoản 3 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) sẽ được chỉnh sửa như sau:
“
2. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ sai sót, người đã ban hành quyết định về xử lý vi phạm hành chính phải hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có sai sót về nội dung làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định;
b) Có quyết định giải quyết khiếu nại của người hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về việc phải hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định về xử lý vi phạm hành chính;
c) Có bản án, quyết định của Tòa án về việc hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định về xử lý vi phạm hành chính bị khởi kiện.
3. Trong các trường hợp sau đây, nếu có căn cứ để ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính thì người đã ban hành quyết định phải ban hành quyết định mới hoặc chuyển người có thẩm quyền ban hành quyết định mới:
a) Các trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này;
b) Các trường hợp quyết định về xử lý vi phạm hành chính phải hủy bỏ toàn bộ quy định tại khoản 2 Điều này.”.
2. Về phạm vi xem xét để xử lý quyết định xử phạt vi phạm hành chính có sai sót
Phạm vi xem xét để xử lý quyết định xử phạt vi phạm hành chính có sai sót: Chỉ xem xét quyết định xử phạt vi phạm hành chính hay phải xem xét toàn bộ hồ sơ, quá trình ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính? Đây là vấn đề vướng mắc khiến cho người thực thi pháp luật khá lúng túng. Hiện nay có 02 quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Thứ nhất, có quan điểm cho rằng, theo quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC thì: “
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm phát hiện quyết định về xử lý vi phạm hành chính do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót và phải kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới theo thẩm quyền”. Luật chỉ đề cập đến việc phát hiện “
quyết định về xử lý vi phạm hành chính” có sai sót, không đề cập đến việc xem xét toàn bộ quá trình xử lý vi phạm hành chính xem có sai sót hay không. Do vậy, thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người có thẩm quyền chỉ cần xem xét quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành xem có sai sót hay không để có biện pháp xử lý phù hợp
[3].
Thứ hai, có quan điểm khác lại cho rằng, quyết định xử phạt vi phạm hành chính là kết quả của quá trình thực hiện xử phạt vi phạm hành chính, là hình thức biểu hiện của việc xử phạt vi phạm hành chính. Do vậy, thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính, người có thẩm quyền không chỉ xem xét quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã được ban hành mà cần phải xem xét toàn bộ hồ sơ vụ việc, cả quá trình xử phạt từ khi bắt đầu phát hiện hành vi vi phạm đến khi ban hành quyết định xử phạt xem có sai sót hay không để có biện pháp xử lý phù hợp.
Về vấn đề này, chúng tôi đồng tình với cách hiểu theo quan điểm thứ hai, vì quyết định xử phạt vi phạm hành chính là kết quả của cả quá trình giải quyết vụ việc vi phạm hành chính. Do vậy, để phát hiện ra những sai sót trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thủ trưởng cơ quan, đơn vị quản lý người có thẩm quyền xử phạt và người có thẩm quyền xử phạt cần kiểm tra, xem xét về việc tuân thủ pháp luật, việc bảo đảm phù hợp với quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính trên các phương diện: (i) trình tự, thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và (ii) nội dung áp dụng quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Đối với vấn đề trình tự, thủ tục, cần xem xét toàn bộ trình tự, thủ tục ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của Luật XLVPHC và các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật, đặc biệt là các nghị định quy định chi tiết những vấn đề mà Luật giao Chính phủ quy định chi tiết như: Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP); Nghị định số 112/2013/NĐ-CP ngày 02/10/2013 quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục trục xuất (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 17/2016/NĐ-CP ngày 17/3/2016); Nghị định số 165/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định việc quản lý, sử dụng và danh mục các phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ được sử dụng để phát hiện vi phạm hành chính về trật tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi trường; Nghị định số 166/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính,… Đối với nội dung áp dụng quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính thì cần thiết phải rà soát, nghiên cứu, xem việc áp dụng các quy định về thẩm quyền xử phạt, về áp dụng chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính xảy ra trong thực tiễn, việc áp dụng hình thức, mức phạt, biện pháp khắc phục hậu quả có đúng quy định pháp luật không… Từ đó, mới có thể đánh giá một cách toàn diện, khách quan về diễn biến vụ việc vi phạm, đồng thời, kết luận chính xác về những sai sót (nếu có) trong quyết định xử phạt vi phạm hành chính.
2. Về thẩm quyền thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính
Khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC quy định: “
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, thủ trưởng cơ quan, đơn vị có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính có trách nhiệm phát hiện quyết định về xử lý vi phạm hành chính do mình hoặc cấp dưới ban hành có sai sót và phải kịp thời sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới theo thẩm quyền”.
Khoản 3 Điều 6a Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 8 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định: “
Khi phát hiện quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót thuộc các trường hợp quy định tại các khoản 1 và 2 Điều này, người đã ban hành quyết định về xử lý vi phạm hành chính tự mình hoặc theo yêu cầu của thủ trưởng cơ quan, đơn vị của người đó có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung hoặc đính chính những nội dung sai sót trong quyết định”.
Khoản 1 và khoản 2 Điều 6b Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 9 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định:
“
1. Người đã ban hành quyết định về xử lý vi phạm hành chính phải hủy bỏ toàn bộ nội dung quyết định…
2. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ sai sót, người đã ban hành quyết định về xử lý vi phạm hành chính phải hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung quyết định…”.
Các quy định pháp luật nêu trên chưa thực sự rõ ràng, chưa có sự thống nhất, dẫn đến những cách hiểu khác nhau về các vấn đề như: Cụm từ “
theo thẩm quyền” tại khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC được hiểu như thế nào (cụm từ này chỉ được gắn với cụm từ “
ban hành quyết định mới” hay được gắn với cả cụm từ “
sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới”); cách hiểu khác nhau đối với cụm từ “
theo thẩm quyền” dẫn đến cách hiểu khác nhau về thẩm quyền thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính thuộc về ai (người có thẩm quyền đã ra quyết định về xử phạt vi phạm hành chính hay cấp trên của người này), cụ thể có 02 cách hiểu sau đây:
Cách hiểu thứ nhất, cần hiểu cụm từ “
theo thẩm quyền” chỉ được gắn với cụm từ “
ban hành quyết định mới”. Nếu hiểu cụm từ này chỉ được gắn với cụm từ “
ban hành quyết định mới” thì thẩm quyền thực hiện việc
sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ quyết định về xử phạt vi phạm hành chính thuộc về cấp trên của người có thẩm quyền đã ra quyết định về xử phạt vi phạm hành chính, kể cả trong trường hợp họ không có thẩm quyền xử phạt; riêng việc
ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính thì phải “
theo thẩm quyền”, tức là, tùy từng trường hợp, họ được thực hiện nếu họ có thẩm quyền hoặc không được thực hiện nếu theo quy định pháp luật, họ không có thẩm quyền.
Cách hiểu thứ hai, cần hiểu cụm từ “
theo thẩm quyền” không chỉ được gắn với cụm từ “
ban hành quyết định mới” mà còn được gắn với các cụm từ “
sửa đổi, bổ sung”, “
hủy bỏ”. Bởi vì, khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC khi đề cập đến chủ thể ban hành quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót thì có đề cập 02 loại quyết định về xử lý vi phạm hành chính (do chính bản thân cấp trên đó ban hành hoặc do cấp dưới của họ ban hành); cụm từ “
theo thẩm quyền” được hiểu là: Ai ban hành quyết định có sai sót thì người đó thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ (cấp trên ban hành quyết định có sai sót thì cấp trên thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ; cấp dưới ban hành quyết định có sai sót thì cấp dưới thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ); riêng đối với việc ban hành quyết định mới, nếu vẫn thuộc thẩm quyền của người hủy bỏ (người đã ban hành quyết định ban đầu có sai sót) thì thẩm quyền thuộc về họ, ngược lại, nếu không thuộc thẩm quyền của người hủy bỏ thì họ phải chuyển người có thẩm quyền (có thể là cấp trên hoặc cũng có thể là người có thẩm quyền thuộc lực lượng khác).
Theo chúng tôi, nếu hiểu và áp dụng theo cách hiểu thứ nhất thì chỉ xử lý được trường hợp cấp trên của người có thẩm quyền đã ban hành quyết định về xử lý vi phạm hành chính (nói chung và quyết định về xử phạt vi phạm hành chính nói riêng) có sai sót cũng có thẩm quyền về xử lý vi phạm hành chính theo quy định pháp luật. Tuy nhiên, sẽ không xử lý được trường hợp cấp trên của người có thẩm quyền đã ban hành quyết định về xử lý vi phạm hành chính có sai sót không có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính. Chẳng hạn một số chức danh như Bộ trưởng, Giám đốc Sở, đây là các chức danh không có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính nên không thể thực hiện được việc sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ quyết định về xử phạt vi phạm hành chính của cấp dưới (người không được trao thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính thì không thể, không nên được trao thẩm quyền trực tiếp xử lý các quyết định đó, kể cả trong trường hợp chỉ sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, không ban hành mới).
Từ phân tích nêu trên, chúng tôi cho rằng, về tính thống nhất, phù hợp giữa các quy định về “
sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới” của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) và Luật XLVPHC, nếu hiểu theo cách hiểu thứ hai nêu trên thì hoàn toàn thống nhất và phù hợp. Tuy nhiên, về tính minh bạch, cụ thể, rõ ràng, quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC nêu trên chưa đạt được, cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung theo hướng: Quy định rõ việc sửa đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ, ban hành quyết định mới quyết định về xử lý vi phạm hành chính (nói chung và quyết định về xử phạt vi phạm hành chính nói riêng) phải do chính người đã ban hành quyết định có sai sót trực tiếp thực hiện (trừ trường hợp thẩm quyền ban hành quyết định mới thuộc về người có thẩm quyền khác thì phải chuyển người có thẩm quyền), cấp trên của người đã ban hành quyết định có sai sót chỉ có quyền yêu cầu, đề nghị cấp dưới thực hiện.
3. Về trình tự, thủ tục thực hiện việc hủy bỏ, ban hành mới quyết định về xử phạt vi phạm hành chính
Hiện nay, theo quy định pháp luật hiện hành, để chấm dứt hiệu lực của quyết định về xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành có sai sót và ban hành quyết định mới thay thế quyết định đã bị chấm dứt hiệu lực, phải trải qua 02 thủ tục, tương ứng với 02 thủ tục đó, người có thẩm quyền phải ban hành 02 loại quyết định, trước tiên là quyết định hủy bỏ quyết định về xử phạt vi phạm hành chính có sai sót, sau đó là quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính.
Chúng tôi cho rằng, việc ban hành 02 loại quyết định như vậy là không cần thiết, có thể nghiên cứu quy định trình tự, thủ tục đơn giản hơn. Theo đó, chỉ cần ban hành 01 loại quyết định: Quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có nội dung về việc thay thế cho quyết định đã ban hành mà có sai sót (có thể ghi nội dung này ngay tại Điều 2 của Mẫu quyết định số 02 - Quyết định xử phạt vi phạm hành chính ban hành kèm theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP).
4. Về thời hạn, thời hiệu thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành mới các quyết định về xử phạt vi phạm hành chính
Điều 6c Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 10 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) quy định: “
Thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định...”. Trong thực tiễn thi hành cũng nảy sinh một số vấn đề khó khăn, vướng mắc liên quan đến quy định này, cụ thể là:
Thứ nhất, thời hạn thực hiện việc ban hành mới quyết định xử phạt vi phạm hành chính có cần tuân theo quy định về thời hạn ban hành quyết định tại Điều 66 Luật XLVPHC
[4] không? Tương tự, thời hạn tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề có cần tuân theo quy định tại Điều 125 Luật XLVPHC
[5] không?
Thứ hai, việc Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) chỉ quy định thời hạn thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính (nói chung và quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính nói riêng) là 01 năm, kể từ khi ra quyết định mà không có quy định cụ thể trong bao lâu, kể từ ngày phát hiện ra quyết định về xử lý vi phạm hành chính sai sót, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính phải thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính. Điều này đã khiến nhiều vụ việc bị kéo dài thời gian xử lý.
Đối với vấn đề thứ nhất, chúng tôi cho rằng, nếu thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới vẫn phải tuân theo quy định tại Điều 66 Luật XLVPHC thì rất nhiều trường hợp không thể thực hiện được, vì tính đến thời điểm phát hiện ra sai sót, hầu hết nhiều trường hợp đã quá 07 ngày (hoặc 30 ngày, hoặc 60 ngày, tùy từng vụ việc), kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Thời hạn ban hành mới quyết định xử phạt vi phạm hành chính được tính kể từ thời điểm ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính ban đầu đã có sai sót - tạm gọi là quyết định thứ nhất, trừ trường hợp sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới (sau khi đã hủy bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính ban đầu) - tạm gọi là quyết định thứ hai, thì thời hạn 01 năm được tính kể từ ngày ra quyết định thứ hai. Thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm vi phạm hành chính quy định tại Điều 66 Luật XLVPHC chỉ áp dụng đối với quyết định thứ nhất. Việc ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính (quyết định thứ hai trở đi) không áp dụng quy định về thời hạn quy định tại Điều 66 Luật XLVPHC. Tương tự, thời hạn ban hành quyết định tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề mới cũng không cần phải tuân theo quy định tại Điều 125 Luật XLVPHC. Tuy nhiên, vấn đề này cần phải được nghiên cứu, quy định cụ thể, rõ ràng trong Nghị định số 81/2013/NĐ-CP để có căn cứ áp dụng.
Đối với vấn đề thứ hai, chúng tôi cho rằng, việc định lượng để quy định một khoảng thời gian cụ thể trong bao lâu, kể từ khi phát hiện ra quyết định về xử lý vi phạm hành chính sai sót, người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính phải thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính là khó khả thi, vì các vụ việc vi phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước rất đa dạng, không thể quy định cứng nhắc một khoảng thời gian cụ thể. Chính phủ có thể nghiên cứu, bổ sung quy định về việc người có thẩm quyền phải “
kịp thời” thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính khi phát hiện ra sai sót, tương tự như quy định về việc người có thẩm quyền phải kịp thời lập biên bản vi phạm hành chính khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính tại khoản 1 Điều 58 Luật XLVPHC. Bên cạnh việc quy định thời hạn thực hiện sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính như đã nêu trên (phải
“kịp thời”), chúng tôi thiết nghĩ quy định về “
thời hạn” tại Điều 6c Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 10 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) hiện hành cần được nghiên cứu, chỉnh sửa thành quy định về “
thời hiệu thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử lý vi phạm hành chính” (vẫn giữ nguyên thời hạn 01 năm) thì sẽ phù hợp hơn.
5. Việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính trong trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã hết thời hiệu thi hành
Điều 74 Luật XLVPHC quy định về thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính:
“1. Thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định, quá thời hạn này thì không thi hành quyết định đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội.
2. Trong trường hợp cá nhân, tổ chức bị xử phạt cố tình trốn tránh, trì hoãn thì thời hiệu nói trên được tính kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, trì hoãn”.
Điều 6c Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được bổ sung theo khoản 10 Điều 1 Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) chỉ quy định một trường hợp không được thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính, đó là “
trường hợp hết thời hiệu quy định tại điểm a khoản 1 và điểm a khoản 2 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính”, không có quy định cụ thể về việc quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã hết thời hiệu thi hành (01 năm, kể từ ngày ra quyết định có sai sót) thì có được thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới về xử phạt vi phạm hành chính không. Do vậy, trên thực tế, cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng rất lúng túng.
Căn cứ quy định tại Điều 74 Luật XLVPHC nêu trên, chúng tôi thấy rằng, thời hiệu để cơ quan, tổ chức, cá nhân thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là 01 năm, kể từ ngày ra quyết định xử phạt. Nếu quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã hết thời hiệu thi hành thì không thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đó nữa, trừ trường hợp quyết định xử phạt có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thì vẫn phải tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội. Do vậy, về mặt nguyên tắc, nếu trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành đã hết thời hiệu thi hành thì cơ quan, người có thẩm quyền không thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới, vì việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới lúc này không còn có ý nghĩa. Tuy nhiên, trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp cần thiết để bảo vệ môi trường, bảo đảm giao thông, xây dựng và an ninh trật tự, an toàn xã hội, thì cơ quan, người có thẩm quyền có thể xem xét thực hiện việc sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới thay cho quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành trước đó có sai sót, nhưng chỉ liên quan đến nội dung về tịch thu tang vật, phương tiện thuộc loại cấm lưu hành, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả thuộc trường hợp quy định tại Điều 74 Luật XLVPHC. Trường hợp người có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xử lý vi phạm hành chính gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều 13 Luật XLVPHC.
Pháp luật cần có quy định cụ thể về 02 trường hợp nêu trên (trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính không có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả và trường hợp quyết định xử phạt vi phạm hành chính có hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả) để cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có căn cứ áp dụng.
Quyết định về xử phạt vi phạm hành chính là một trong những loại quyết định hành chính thường gặp trong quản lý hành chính nhà nước. Trong quá trình ban hành, thực thi quyết định, không thể tránh khỏi những sai sót và việc xử lý những sai sót là không đơn giản, vấn đề là pháp luật phải xây dựng được cơ chế xử lý phù hợp, kịp thời khắc phục những sai sót đó, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời, bảo đảm và bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Hiện nay, pháp luật về ban hành quyết định hành chính chưa có những quy định cụ thể về vấn đề sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới. Do vậy, chúng tôi cho rằng, vấn đề sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới quyết định về xử phạt vi phạm hành chính cần được đặt trong tổng thể nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện pháp luật về ban hành quyết định hành chính nói chung để có thể đi sâu nghiên cứu trong mối quan hệ biện chứng với các vấn đề khác có liên quan, từ đó mới có cơ sở lý luận và thực tiễn vững chắc để đề xuất đầy đủ những yêu cầu và nội dung điều chỉnh pháp lý đối với vấn đề này
[6].
Từ những nội dung phân tích trên đây, trước mắt, để bảo đảm tính minh bạch, thống nhất, đồng bộ trong các quy định pháp luật về sửa đổi, bổ sung, đính chính, hủy bỏ, ban hành quyết định mới quyết định về xử lý vi phạm hành chính (nói chung và quyết định về xử phạt vi phạm hành chính nói riêng), chúng tôi xin đề xuất, kiến nghị Quốc hội nghiên cứu quy định cụ thể, rõ ràng hơn quy định tại khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC, tránh những cách hiểu và áp dụng khác nhau như đã nêu trong bài viết trên đây; đồng thời, Luật hóa (và nghiên cứu quy định cụ thể hơn) một số quy định của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) về vấn đề này. Bởi vì, đây là vấn đề rất lớn, thuộc thẩm quyền của Quốc hội, phải được quy định trong Luật XLVPHC. Hiện tại, Luật XLVPHC không có điều khoản nào giao Chính phủ quy định chi tiết khoản 3 Điều 18 của Luật. Việc Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung của khoản 3 Điều 18 Luật XLVPHC tại Nghị định số 81/2013/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị định số 97/2017/NĐ-CP) chỉ là giải pháp tạm thời, nhằm kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong khi chưa có điều kiện để sửa đổi ngay Luật XLVPHC./.