Luật Cạnh tranh năm 2004được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2005 là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh mối quan hệ cạnh tranh giữa các chủ thể hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Luật Cạnh tranh và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hànhđã tạo thành một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ,một hành lang và khuôn khổ pháp lý quan trọng để các doanh nghiệp căn cứ vào đó điều chỉnh các hành vi cạnh tranh trong kinh doanh tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, thúc đẩy tạo lập và duy trì môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh trong nhiều ngành, lĩnh vực của nền kinh tế, từ đó tạo điều kiện phát triển kinh tế đất nước, phân bổ hiệu quả các nguồn lực xã hội và đảm bảo lợi ích của người tiêu dùng. Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định nhưng kết quả12 năm thi hành Luật Cạnh tranhkhông đạt được như kỳ vọng, một số quy định của Luật Cạnh tranh đã dần bộc lộ những hạn chế và bất cập, gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực thidẫn đến yêu cầu hoàn thiện. Theo đó, việc sửa đổi toàn diện Luật Cạnh tranh năm 2004 sẽ góp phần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý đồng bộ, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, tăng cường hiệu quả, hiệu lực và tính minh bạch trong thực thi pháp luật về cạnh tranh, phù hợp với các cam kết quốc tế, nâng cao hiệu quả kinh tế, phúc lợi xã hội và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; đồng thời là một bước quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ và giải pháp về “hoàn thiện thể chế về cạnh tranh, tăng cường tính minh bạch về độc quyền nhà nước” nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần của Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.
So sánh quy định trongLuật cạnh tranh năm 2004 với quy định trong dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) đang trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XIV cho thấy, các quy định trong dự thảo Luật cạnh tranh đã sửa đổi một cách toàn diện các quy định của Luật cạnh tranh năm 2004. Trong các nội dung sửa đổi, bổ sung tại lần trình này, phần tố tụng cạnh tranh (từ Điều 52 đến Điều 112 của dự thảo Luật cạnh tranh) đã được sửa đổi, bổ sung toàn diện theo hướng minh bạch hơn, chi tiết hơn và tiếp tục kế thừa một số quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 còn phù hợp. Cụ thể:
Trước tiên, về bố cục, so với Luật cạnh tranh năm 2004, nội dung này đượcdự thảo Luật quy định tại 01 chương riêng, Chương VII “Tố tụng cạnh tranh”, bao gồm 07 mục: quy định chung; người tham gia tố tụng cạnh tranh; cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh, người tiến hành tố tụng cạnh tranh; trình tự, thủ tục điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh; giải quyết khiếu nại quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh; công bố các quyết định của cơ quan cạnh tranh quốc gia; và hợp tác quốc tế trong quá trình tố tụng cạnh tranh.
Phần nội dung tố tụng cạnh tranh, dự thảo Luật cạnh tranh đã có những quy định mới cụ thể, minh bạch hơn so với quy định của Luật cạnh tranh năm 2004.Ví dụ, với quy định về chứng cứ:
Điều 60. Chứng cứ
1. Chứng cứ là những gì có thật, được điều tra viên, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi vi phạm quy định của Luật này.
2. Chứng cứ được xác định từ các nguồn sau đây:
a) Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện vi phạm, tiền và những vật khác có giá trị chứng minh hành vi vi phạm quy định của Luật này;
b) Lời khai của người làm chứng, giải trình của tổ chức, cá nhân liên quan;
c) Tài liệu gốc, bản sao tài liệu gốc, bản dịch tài liệu gốc được công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận;
d) Kết luận giám định.
|
Điều 54.Chứng cứ
1. Chứng cứ là những gì có thật, được Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh, doanh nghiệp có hành vi vi phạm và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ việc cạnh tranh.
2. Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:
a) Tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được, dữ liệu điện tử;
b) Vật chứng;
c) Lời khai, lời trình bày của người làm chứng;
d) Lời khai, lời trình bày, giải trình của bên khiếu nại, bên bị điều tra hoặc các tổ chức, cá nhân liên quan;
đ) Kết luận giám định;
e) Biên bản trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh;
g) Các tài liệu, đồ vật khác hoặc nguồn khác theo quy định của pháp luật.
3. Xác định chứng cứ
a) Tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu là bản chính hoặc bản saocó công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan hoặc có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.
b) Tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản trình bày của người có tài liệu đó về xuất xứ của tài liệu nếu họ tự thu âm, thu hình hoặc văn bản xác nhận của người đã cung cấp cho người xuất trình về xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan đến việc thu âm, thu hình đó.
c) Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.
d) Vật chứng là chứng cứ phải là hiện vật gốc liên quan đến vụ việc.
đ) Lời khai, lời trình bày của người làm chứng; lời khai, lời trình bày, giải trình của bên khiếu nại, bên bị điều tra hoặc các tổ chức, cá nhân liên quan được coi là chứng cứ nếu được ghi bằng văn bản, băng ghi âm, đĩa ghi âm, băng ghi hình, đĩa ghi hình, thiết bị khác lưu trữ âm thanh, hình ảnh theo quy định tại điểm b khoản này hoặc khai bằng lời tại phiên điều trần.
e) Kết luận giám định được coi là chứng cứ nếu việc giám định đó được tiến hành theo thủ tục do pháp luật quy định. |
Từ bảng đối chiếu, so sánh trên cho thấy, quy định về Chứng cứ trong tố tụng cạnh tranh tại dự thảo Luật đã có bổ sung thêm nội dung xác định chứng cứ gồm 06 điểm tại khoản 3 để giải thích rõ những chứng cứ như “
tài liệu đọc được”, “
Tài liệu nghe được”, “
thông điệp dữ liệu điện tử” là gì. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo nên sự thuận lợi, minh bạch cho Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh khi đánh giá, xem xét giải quyết vụ việc cạnh tranh, đồng thời cũng giúp cho bên khiếu nại hay bên bị khiếu nại thuận lợi hơn trong việc xuất trình các tài liệu, đồ vật,… được xác định là chứng cứ để chứng minh cho hành vi của mình.
Bên cạnh đó, một sự sửa đổi, bổ sung nữa của dự thảo Luật canh tranh (sửa đổi) (khoản 3 Điều 56) so với Luật cạnh tranh năm 2004 là việc thay thế thuật ngữ “Luật sư” trong Luật cạnh tranh năm 2004 (khoản 3 Điều 64) bằng thuật ngữ “
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị điều tra”. Có thể thấy, sự thay đổi này không chỉ thuần túy là sự thay đổi về mặt từ ngữ mà hàm chứa trong đó là sự thay đổi cả về khía cạnh nội dung. Bởi: nếu theo Luật cạnh tranh năm 2004 thì chỉ có Luật sư – những người hành nghề luật thỏa mãn quy định về luật sư (theo Luật luật sư)
[1] mới có quyền tham gia tố tụng bảo vê quyền và lợi ích cho bên khiếu nại hoặc bên bị điều tra, nhưng nay với sự sửa đổi này, dự thảo luật đã mở rộng đối tượng có quyền tham gia tố tụng cạnh tranh để bảo về quyền, lợi ích hợp pháp cho người khiếu nại, bên bị điều tra. Theo đó, ngoài luật sư thì trợ giúp viên pháp lý hoặc người tham gia trợ giúp pháp lý theo quy định của pháp luật về trợ giúp pháp lý hoặc bất kỳ người nào là “công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, có kiến thức pháp lý, chưa bị kết án hoặc bị kết án nhưng đã được xóa án tích, không thuộc trường hợp đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, không phải là cán bộ, công chức của cơ quan Cạnh tranh quốc gia hoặc cán bộ, công chức trong các ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an” đều có thể trở thành “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại hoặc bên bị điều tra”
[2]. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên khiếu nại, bên bị điều tra có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhiều bên trong cùng một vụ việc, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của những bên đó không đối lập nhau. Nhiều người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có thể cùng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một bên trong vụ việc.
Về quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bên bị điều tra, người khiếu nại, dự thảo luật cơ bản giữ nguyên quy định của Luật cạnh tranh năm 2004, đồng thời có bổ sung quy định mở tại điểm i khoản 4 Điều 59 dự thảo luật.
Đối với các quy định về người làm chứng, người giám định, người phiên dịch người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ việc cạnh tranh, thủ tục từ chối giám định, phiên dịch hoặc đề nghị thay đổi người giám định, người phiên dịch; quyết định việc thay đổi người giám định, người phiên dịch,... dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) về cơ bản giữ nguyên như quy định của Luật canh tranh năm 2004.
Về cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh và người tiến hành tố tụng cạnh tranh
Có thể thấy, đây là sửa đổi lớn nhất về tố tụng cạnh tranh bởi những lẽ sau:
- Thứ nhất, theo quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 thì mô hình cơ quan cạnh tranh hiện nay được tổ chức với 03 cơ quan gồm: (1) Cục quản lý cạnh tranh trực thuộc Bộ Công thương; (2) Hội đồng cạnh tranh làm việc theo cơ chế kiêm nhiệm; và (3) Văn phòng Hội đồng cạnh tranh với chức năng thư ký trong qua trình Hội đồng cạnh tranh làm việc giải quyết các vụ việc hạn chế cạnh tranh.
Tuy nhiên, dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) đã sửa đổi mô hình cơ quan cạnh tranh quy định theo hướng cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh mang tính chuyên nghiệp, phù hợp với chức năng của các cơ quan này, cụ thể là khoản 1 Điều 66 dự thảo luật quy định cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh gồm “Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh” và “Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh”. Điều này giúp khắc phục được những hạn chế của Luật cạnh tranh năm 2004, đólà khắc phục được sự “lưỡng tính” của cơ quan cạnh tranh. Vì theo Luật cạnh tranh năm 2004 thì Cục Quản lý cạnh tranh với tư cách là 01 đơn vị thuộc Bộ Công thương vừa có chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh vực cạnh tranh, tham mưu giúp Bộ trưởng Bộ Công thương ban hành chính sách pháp luật về cạnh tranh thuộc thẩm quyền lại vừa có tính chất của cơ quan tài phán- giải quyết các vụ việc cạnh tranh. Điều này dẫn đến việc khó có thể bảo đảm tính độc lập, khách quan của Cục quản lý cạnh tranh khi giải quyết các vụ việc cạnh tranh. Trong khi đó, yêu cầu đầu tiền của một cơ quan làm nhiệm vụ tài phán là phải độc lập, khách quan và không chịu sự can thiệp từ bên ngoài. Nói cách khác, nếu theo quy định của Luật cạnh tranh năm 2004 thì Cục quản lý cạnh tranh là một cơ quan “vừa đá bóng, vừa thổi còi”, và với tổ chức và chức năng nhiệm vụ của Cục quản lý cạnh tranh như vậy sẽ không thểthực hiện được chức năng điều tra, xử lý các hành vi cản trở cạnh tranh của các cơ quan quản lý nhà nước. Bên cạnh Cục quản lý cạnh tranh, theo Luật cạnh tranh năm 2004, cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh còn có Hội đồng cạnh tranh. Tuy nhiên, Hội đồng cạnh tranh lại được tổ chức theo cơ chế kiêm nhiệm, gồm đại diện của nhiều Bộ, ngành cùng tham gia. Điều này đồng nghĩa với việc Hội đồng cạnh tranh làm việc theo chế độ không thường xuyên, không chuyên nghiệp và chỉ có Văn phòng Hội đồng cạnh tranh thì hoạt động liên tục như là 01 cơ quan thường trực của Hội đồng cạnh tranh, nhưng Văn phòng Hội đồng cạnh tranh cũng chỉ đảm nhiệmchức năng thư ký trong qúa trình giải quyết các vụ việc cạnh tranh còn lại là làm công tác văn phòng. Tại Báo cáo tổng kết thực tiễn 12 năm thi hành Luật Cạnh tranh cũng thẳng thắn nhìn nhận, đánh giá rằng mô hình và địa vị pháp lý của cơ quan cạnh tranh như hiện nay không đảm bảo tính độc lập, không đảm bảo hiệu quả, hiệu lực trong hoạt động, gây lãng phí nguồn lực và không phù hợp với thông lệ quốc tế. Mô hình hai cơ quan cạnh tranh cùng với các quy định chưa hợp lý về tố tụng cạnh tranh dẫn đến kéo dài quá trình giải quyết vụ việc cạnh tranh, nguồn lực bị phân tán khiến việc giải quyết vụ việc cạnh tranh chưa được tập trung, kết quả giải quyết vụ việc luôn đi sau diễn biến của thị trường và chưa thể hiện vai trò can thiệp kịp thời của Nhà nước để khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Qua hơn 12 năm thi hành, Cơ quan QLCT và HĐCT mới giải quyết được 06 vụ việc hạn chế cạnh tranh, thời gian điều tra, xử lý trung bình mỗi vụ tính từ thời điểm ban hành quyết định điều tra sơ bộ đến thời điểm ban hành quyết định xử lý (kể cả đình chỉ giải quyết, giải quyết khiếu nại, khởi kiện) trung bình là 03 năm, nhưng trong 6 vụ giải quyết thì 04/06 vụ việc được Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh ra quyết địnhtrả hồ sơ để điều tra bổ sung, 02/6 vụ còn lại bị đình chỉ. Ngoài ra, với chế độ làm việc kiêm nhiệm gồm đại diện các bộ, ngành tham gia Hội đồng cạnh tranh, nếu xảy ra vụ việc liên quan đền chức năng quản lý, lợi ích của các bộ ngành có đại diện tham gia Hội đồng sẽ rất khó để bảo đảm tính khách quan vì thành viên tham gia Hội đồng đã bị lợi ích của ngành mình chi phối, đều này sẽ dẫn đến việc giải quyết vụ việc bị kéo dài, phán quyết không khách quan và không bảo đảm yêu cầu khách quan, trung thực, công bằng của một cơ quan tài phán. Đó là chưa tính đến việc trong quá trình công tác, các thành viên Hội đồng cạnh tranh buộc phải cân đối, đảm bảo hiệu quả công tác ở cả cơ quan đương nhiệm và ở cả Hội đồng cạnh tranh. Với tính chất phức tạp của vụ việc hạn chế cạnh tranh, cơ chế hoạt động kiêm nhiệm này của Hội đồng cạnh tranh là chưa hợp lý, dẫn đến thiếu tập trung, thiếu kịp thời trong giải quyết vụ việc cạnh tranh.
Khắc phục những tồn tại, hạn chế này, đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm, mô hình cơ quan tố tụng cạnh tranh của các nước trên thế giới, Điều 66 dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) đã quy định về cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh gồm 02 cơ quan: Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh; đồng thời có những sửa đổi, bổ sung cụ thể quy định về Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, cơquan điều tra vụ việc cạnh tranh như sau:
Điều 80.Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
1. Khi giải quyết vụ việc cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
2. Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh được Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh thông qua bằng cách biểu quyết theo đa số, trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định theo phía có ý kiến của Chủ tọa phiên điều trần.
|
Điều 67.Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
1. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh do Thủ trưởng Cơ quan cạnh tranh Quốc gia quyết định thành lập để xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh cụ thể, chấm dứt hoạt động và tự động giải thể khi hoàn thành nhiệm vụ.
2. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh gồm 03 thành viên trở lên, do Thủ trưởng Cơ quan cạnh tranh Quốc gia quyết định lựa chọn trong số những người có thẩm quyền xử lý vụ việc cạnh tranh, trong đó có 01 thành viên được phân công là Chủ tịch Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
3. Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh tiến hành xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh theo nguyên tắc tập thể, quyết định theo đa số. Trường hợp số phiếu ngang nhau thì quyết định theo phía có ý kiến của Chủ tịch Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. |
|
Điều 68. Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh
1. Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh là tổ chức trực thuộc Cơ quan cạnh tranh Quốc gia, có chức năng phát hiện, điều tra các hành vi vi phạm quy định của Luật này.
2. Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Thu thập, tiếp nhận thông tin nhằm phát hiện dấu hiệu vi phạm quy định của Luật này;
b) Tiếp nhận khiếu nại;
c) Tổ chức điều tra các vụ việc cạnh tranh;
d) Kiến nghị áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính trong điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh;
đ) Thực hiện các biện pháp nghiệp vụ điều tra trong quá trình điều tra các vụ việc cạnh tranh;
e) Các nhiệm vụ khác theo phân công của Thủ trưởng Cơ quan cạnh tranh Quốc gia. |
Theo nội dung Điều 67 dự thảo luật nêu trên thì Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh là 01 cơ quan hoạt động không thường xuyên (được thành lập để giải quyết vụ việc hạn chế cạnh tranh cụ thể), chấm dứt hoạt động và tự động giải thể khi khi hoàn thành nhiệm vụ; còn Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh (Điều 68) là tổ chức thuộc Cơ quan cạnh tranh quốc gia có chức năng phát hiện, điều tra các hành vi vi phạm của Luật này (các hành vi này được liệt kê cụ thể tại Điều 46 của dự thảo Luật).
Xem xét 02 quy định tại Điều 67, Điều 68 dự thảo Luật nói trên, cũng như các quy định khác còn lại trong phần tố tụng cạnh tranh được quy định trong dự thảo Luật trong mối tương quan, so sánh với các quy định về tố tụng nói chung và tố tụng dân sự, trọng tài thương mại nói riêng cho thấy, các quy định trong dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) vẫn còn có những lỗ hổng, thiếu sự logic và liên kết trong tố tụng cạnh tranh, cụ thể như sau:
Theo các quy định về thẩm quyền tố tụng trong Chương III Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì có sự phân công rất rõ ràng về nhiệm vụ theo đơn vị hành chính, theo tính chất vụ việc, theo giai đoạn tố tụng. Ví dụ, Điều 35 BLTTDS năm 2015 quy định về thẩm quyền củaTòa án nhân dân cấp huyện như sau: ”1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp sau đây:
a) Tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình quy định tại Điều 26 và Điều 28 của Bộ luật này, trừ tranh chấp quy định tại khoản 7 Điều 26 của Bộ luật này;
b) Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 Điều 30 của Bộ luật này;
c) Tranh chấp về lao động quy định tại Điều 32 của Bộ luật này.
2. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những yêu cầu sau đây:
a) Yêu cầu về dân sự quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 6, 7, 8, 9 và 10 Điều 27 của Bộ luật này;
b) Yêu cầu về hôn nhân và gia đình quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 10 và 11 Điều 29 của Bộ luật này;
c) Yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại khoản 1 và khoản 6 Điều 31 của Bộ luật này;
d) Yêu cầu về lao động quy định tại khoản 1 và khoản 5 Điều 33 của Bộ luật này.
3. Những tranh chấp, yêu cầu quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan đại diện nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án, cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
4. Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam theo quy định của Bộluật này và các quy định khác của pháp luật Việt Nam.”
Hay tại Điều 36 Bộ luật TTDS quy định cụ thể thẩm quyền của các tòa chuyên trách của tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết những loại việc nào? Tòa án cấp tỉnh, tòa chuyên trách của tòa án nhân dân cấp tỉnh (Điều 37, 38 Bộ luật TTDS) giải quyết những loại việc nào?...
Trong tố tụng hình sự cũng tương tự khi quy định rất cụ thể, rõ ràng quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của từng cơ quan tham gia vào quá trình giải quyết vụ án, ví dụ như ở giai đoạn điều tra cơ quan điều tra thực hiện những quyền, nghĩa vụ gì? Kết qủa của quá trình điều tra là gì? Là cơ sở cho giai đoạn truy tố như thế nào? Ở giai đoạn truy tố, Viện kiểm sát thực hiện những nhiệm vụ gì? Kết quả của quá trình truy tố là như thế nào? Kết quả của giai đoạn truy tố có là cơ sở cho giai đoạn xét xử không?
[3]... Hay ngay cả theo pháp luật trọng tài thương mại, bên cạnh việc đề cao yếu tố tự nguyện và thỏa thuận nhưng cũng quy định rất rõ về các thủ tục, trình tự giải quyết từ khi các bên tranh chấp và kết thúc việc giải quyết bằng phán quyết của trọng tài và hậu quả pháp lý nếu các bên không đồng ý với phán quyết của trọng tài,…
Tuy nhiên, tại phần tố tụng cạnh tranh trong dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) chưa thể hiện được những mối quan hệ trong quy trình tố tụng cạnh tranh; vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa các cơ quan, tố chức trong quy trình tố tụng, cụ thể:
Điều 66 dự thảo luật quy định cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh gồm 02 cơ quan: (1) Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh; (2) Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh. Điều 67 quy định về loại việc thuộc thẩm quyền của Hội động xử lý vụ việc cạnh tranh và cơ cấu tổ chức của Hội động xử lý vụ việc cạnh tranh; Điều 68 quy định về loại việc thuộc thẩm quyền của cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh. Tuy nhiên, cả 02 nội dungquy định tại Điều 67, Điều 68 dự thảo Luật cạnh tranh đều có đề cập đến 01 cơ quan là
Cơ quan cạnh tranh quốc gia nhưng trong toàn bộ dự thảo luật không có một quy định nào xác định Cơ quan cạnh tranh quốc gia là như thế nào? Vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan cạnh tranh quốc gia là như thế nào? Mối liên hệ về thẩm quyền trong quy trình tố tụng cạnh tranh giữa Cơ quan cạnh tranh quốc gia với Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh? Với cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh như thế nào không được dự thảo luật làm rõ. Mặt khác, trong nội dung dự thảo luật có đề cập đến vai trò của Thủ trưởng Cơ quan cạnh tranh quốc gia nhưng vị trí pháp lý của Thủ trưởng cơ quan cạnh tranh quốc gia với chính cơ quan cạnh tranh quốc gia lại chưa được khắc họa rõ nét; Thủ trưởng cơ quan cạnh tranh quốc gia quyết định thành lập Hội đồng xử lý vụ viêccạnh tranh còn cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh thuộc cơ quan cạnh tranh quốc gia. Vậy, thủ trưởng cơ quan cạnh tranh quốc gia có mối quan hệ về quyền hạn, nhiệm vụ với cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh như thế nào thì chưa được dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) làm rõ.
Về Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh
Khoản 2 Điều 67 dự thảo luật quy định về thành phần Hội đồng xử lý vụ việc hạn chế cạnh tranh gồm 03 thành viên trở lên, do Thủ trưởng Cơ quan cạnh tranh Quốc gia quyết định lựa chọn trong số những người có thẩm quyền xử lý vụ việc cạnh tranh, trong đó có 01 thành viên được phân công là Chủ tịch Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Vấn đề đặt ra là “những người có thẩm quyền xử lý vụ việc cạnh tranh” là những người như thế nào? Phải đáp ứng những tiêu chuẩn, điều kiện nào để trở thành người “có thẩm quyền xử lý vụ việc cạnh tranh”? thì dự thảo Luật cạnh tranh chưa làm rõ điều này. Tham khảo các luật về tố tụng nói chung, Bộ luật tố tụng dân sự nói riêng và Luật trọng tài thương mại nói chung thì quy định trong các luật về tố tụng đều khẳng định là thẩm phán mới là người có thẩm quyền xét xử, còn để trở thành thẩm phán (tùy theo ngạch thẩm phán) đòi hỏi phải thỏa mãn những quy chuẩn riêng theo quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân. Ngay cả Luật trọng tài thương mại cũng quy định rõ tiêu chuẩn để trở thành trọng tài thương mại
[4], xác định rõ thẩm quyền của trọng tài thương mại khi giải quyết tranh chấp.
Do đó, dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) cần bổ sung quy định về nội dung này.
Về Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh
Điều 68 dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi) quy định về Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh. Bên cạnh việc quy định cụ thể các nhiệm vụ, quyền hạn của Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, tại điểm e khoản 2 Điều 68 dự thảo Luật có quy định “
Các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan cạnh tranh Quốc gia”.
Và tại khoản 1, khoản 3 Điều 72 dự thảo Luật quy định về trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh như sau: “
Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh chịu trách nhiệm về hoạt động điều tra và kết quả điều tra của Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh theo sự phân công của Thủ trưởng Cơ quan cạnh tranh Quốc gia.
Kết thúc quá trình điều tra, Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh ký kết luận điều tra vụ việc cạnh tranh; chuyển báo cáo điều tra, kết luận điều tra cùng toàn bộ hồ sơ vụ việc cạnh tranh để Thủ trưởng Cơ quan cạnh tranh Quốc gia quyết định tổ chức xử lý theo quy định của Luật này.”
Như vậy có thể thấy, quan hệ giữa Thủ trưởng Cơ quan cạnh tranh quốc gia với Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh là quan hệ cấp trên cấp dưới trực tiếp trong tố tụng cạnh tranh. Tuy nhiên, dự thảo luật lại chưa quy định cụ thể về các tiêu chuẩn, điều kiện của thủ trưởng cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh. Thủ trưởng cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh liệu có buộc phải bảo đảm điều kiện là điều tra viên không? Yêu cầu về kinh nghiệm trong giải quyết vụ việc cạnh tranh hoặc yêu cầu về kiến thức pháp lý cần có để được bổ nhiệm như thế nào?
Tương tự như vậy, trong Điều 73 dự thảo Luật cạnh tranh khi quy định về Điều tra viên vụ việc cạnh tranh. Đây là quy định được tích hợp từ khoản 2 Điều 51, Điều 77 và Điều 78 Luật cạnh tranh 2004, có sửa đổi, bổ sung một số nội dung phù hợp. Theo đó, Điều 73 dự thảo Luật cạnh tranh quy định cụ thể về nhiệm vụ, quyền hạn của điều tra viên vụ việc cạnh tranh. Tuy nhiên, trong dự thảo Luật cạnh tranh lại không có quy định về tiêu chuẩn, điều kiện để được bổ nhiệm điều tra viên vụ việc cạnh tranh?
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của điều tra viên vụ việc cạnh tranh, cũng như Thủ trưởng Cơ quan điều tra vụ việc cạnh tranh, thiết nghĩ cần thiết phải có quy định về nội dung này trong dự thảo Luật cạnh tranh (sửa đổi).
Nguyễn Thị Giang
[1]Điều 10. Tiêu chuẩn luật sư
Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, đã qua thời gian tập sự hành nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư.
Điều 11. Điều kiện hành nghề luật sư
Người có đủ tiêu chuẩn quy định tại Điều 10 của Luật này muốn được hành nghề luật sư phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư và gia nhập một Đoàn luật sư.
[2] khoản 2 Điều 59 dự thảo Luật cạnh tranh
[3]Ví dụ, khoản 2 Điều 41 Bộ luật TTHS 2015 quy định: “2. Khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện trưởng Viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn:
a) Yêu cầu Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm, khởi tố hoặc thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định khởi tố, không khởi tố, thay đổi, bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can theo quy định của Bộ luật này;
b) Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; quyết định khởi tố, không khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án; quyết định khởi tố, bổ sung hoặc thay đổi quyết định khởi tố bị can; quyết định nhập, tách vụ án;
... l) Quyết định áp dụng thủ tục rút gọn hoặc hủy bỏ quyết định áp dụng thủ tục rút gọn;
m) Quyết định truy tố bị can, trả hồ sơ để điều tra bổ sung hoặc điều tra lại;...”
[4]Điều 20. Tiêu chuẩn Trọng tài viên
1. Những người có đủ các tiêu chuẩn sau đây có thể làm Trọng tài viên:
a) Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của Bộ luật dân sự;
b) Có trình độ đại học và đã qua thực tế công tác theo ngành đã học từ 5 năm trở lên;
c) Trong trường hợp đặc biệt, chuyên gia có trình độ chuyên môn cao và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, tuy không đáp ứng được yêu cầu nêu tại điểm b khoản này, cũng có thể được chọn làm Trọng tài viên.
2. Những người có đủ tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây không được làm Trọng tài viên:
a) Người đang là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Chấp hành viên, công chức thuộc Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cơ quan điều tra, Cơ quan thi hành án;
b) Người đang là bị can, bị cáo, người đang chấp hành án hình sự hoặc đã chấp hành xong bản án nhưng chưa được xóa án tích.
3. Trung tâm trọng tài có thể quy định thêm các tiêu chuẩn cao hơn tiêu chuẩn quy định tại khoản 1 Điều này đối với Trọng tài viên của tổ chức mình.