Pháp luật về thương mại điện tử, một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

09/10/2017
 Thương mại điện tử (TMĐT) về cơ bản là việc ứng dụng các phương tiện điện tử vào hoạt động kinh doanh, thương mại. Hiện nay, mạng lưới Internet phát triển và phổ cập rộng rãi, tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh trực tuyến phát triển và mang lại cho chủ thể kinh doanh những giá trị và lợi ích to lớn. Chủ thể tham gia hoạt động TMĐT bên cạnh việc tuân thủ các quy định trực tiếp về TMĐT, còn phải thực hiện các quy định pháp luật liên quan khác như đầu tư kinh doanh, thương mại, dân sự. Do đó, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về TMĐT trở nên cần thiết và cấp bách. Pháp luật về TMĐT được xem là công cụ pháp lý bảo vệ, định hướng chủ thể kinh doanh, tạo ra môi trường kinh doanh thông qua TMĐT an toàn.

Theo Quyết định số 1563/QĐ-TTg ngày 08/8/2016 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2016 - 2020, theo đó, vào năm 2020, 50% doanh nghiệp sẽ có trang thông tin điện tử; 80% doanh nghiệp thực hiện đặt hàng hoặc nhận đơn đặt hàng thông qua các ứng dụng TMĐT; 50% dịch vụ công liên quan tới xuất nhập khẩu được cung cấp trực tuyến mức độ 4; 100% các thông tin trong quá trình lựa chọn nhà thầu, thực hiện hợp đồng được đăng tải công khai trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia, 50% gói thầu mua sắm công được thực hiện trực tuyến trên Hệ thống mạng đấu thầu quốc gia;…Hầu hết các doanh nghiệp TMĐT đều cho rằng việc phát triển TMĐT trên nền tảng di động là tất yếu. Tùy theo quy mô phát triển kinh doanh, các doanh nghiệp có thể chọn thời điểm thích hợp để ra mắt ứng dụng mua sắm trên di động. Hiện tại, các doanh nghiệp TMĐT lớn như Lazada, Sendo, Zalora, Hotdeal... đã sớm triển khai các ứng dụng mua sắm qua di động. Ở Việt Nam trong thời gian qua số lượng các vụ tranh chấp về TMĐT có xu hướng ngày càng gia tăng, chủ yếu là các tranh chấp liên quan đến thông tin cá nhân; về hình thức giao kết hợp đồng thương mại; liên quan tới tội phạm trên không gian mạng;… Khảo sát về tình trạng lừa đảo TMĐT tại Việt Nam cho thấy, nguyên nhân chủ yếu của các trường hợp tranh chấp là người bán không chuyển hàng hoặc hàng giao không đúng như mô tả. Do vậy, Hiệp hội Thương mại điện tử Việt Nam (VECOM) cho rằng việc lựa chọn website uy tín, đảm bảo về chất lượng hàng hóa và giá cả hợp lý là điều quan trọng khi quyết định mua hàng qua mạng. Một website TMĐT uy tín phải hiện thị đầy đủ các thông tin về người bán, thông tin sản phẩm, quy trình mua hàng rõ ràng, quy trình thanh toán và vận chuyển hàng hóa. Đồng thời, phải có chính sách bảo mật thông tin và giải quyết khiếu nại phát sinh hợp lý.
Theo nhận định của VECOM, hiện nay các website đa phần vẫn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật, nhiều trường hợp sau khi có được thông tin của khách hàng đã bán lại hoặc để lộ, gây hậu quả nghiêm trọng như một số vụ mất cắp tài khoản ngân hàng. Ngoài ra, khi cần giải quyết những vấn đề liên quan đến khiếu nại hàng hóa, người mua hàng cũng không có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi của mình. Vì vậy, để đảm bảo việc mua bán trực tuyến được diễn ra hiệu quả và mang lại lợi ích song phương, điều cơ bản nhất người tiêu dùng nên tìm hiểu kỹ về các website TMĐT đạt tiêu chuẩn uy tín[1] để giao dịch.
1. Quy định của pháp luật về thương mại điện tử
1.1. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về TMĐT
Năm 2005, Quốc hội thông qua ba luật có tính chất đặt nền tảng pháp lý cho TMĐT, đó là Luật Thương mại, Bộ luật Dân sự và Luật Giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, hoạt động TMĐT và việc giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực TMĐT còn chịu sự điều chỉnh của một số luật như; Luật Công nghệ thông tin năm 2006; Luật Viễn thông năm 2009; Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Luật Bảo vệ người tiêu dùng năm 2010; Luật Quảng cáo năm 2012; Luật Đầu tư 2014; Luật Doanh nghiệp năm 2014. Ngoài ra, để hướng dẫn, quản lý hoạt động giao dịch và các hoạt động liên quan đến TMĐT, Chính phủ đã ban hành: Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày 09/6/2006 về Thương mại điện tử; Nghị định 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013 về Thương mại điện tử (thay thế Nghị định 57/2006/NĐ-CP); Nghị định 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số; Nghị định số 106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011sửa đổi, bổ sung Nghị định số 26/2007/NĐ-CP về Chữ ký và Dịch vụ chứng thực chữ ký; Nghị định số 170/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số và Nghị định số 106/2011/NĐ-CP ngày 23/11/2011 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007; Nghị định 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; Nghị định 35/2007/NĐ-CP ngày 08/03/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động Ngân hàng; Nghị định số 90/2008/NĐ-CP ngày 13/8/2008 về chống thư rác; Nghị định 77/2012/NĐ-CP ngày 05/10/2012 sửa đổi bổ sung Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về Chống thư rác; Nghị định 25/2011/NĐ-CP ngày 06/04/2011 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Viễn thông; Nghị định 43/2011/NĐ-CP ngày 13/06/2011 quy định về việc cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Nghị định số 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2012 về Thanh toán không dùng tiền mặt; Nghị định số 72/2013/NĐ-CP ngày 15/7/2013 của Chính phủ về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng; Nghị định số 154/2013/NĐ-CP ngày 08/11/2013 quy định về khu công nghệ thông tin tập trung;; Nghị định số 181/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quảng cáo.
Về xử lý vi phạm trong lĩnh vực TMĐT có các Nghị định sau: Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao du lịch và quảng cáo; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện; Nghị định số 25/2014/NĐ-CP ngày 07/4/2014 quy định về Phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao. Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buốn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buốn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Về Thông tư hướng dẫn thi hành, có các văn bản sau: Thông tư số 78/2008/TT-BTC ngày 15/9/2008, của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số nội dung của Nghị định số 27/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính; Thông tư số 12/2008/TT-BTTTT ngày 30/12/2008, của Bộ Thông tin và Truyền thông hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP của Chính phủ về chống thư rác; Thông tư 03/2009/TT-BTC ngày 2/03/2009, của Bộ Tài chính quy định về mã số quản lý đối với nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo bằng thư điện tử, tin nhắn, nhà cung cấp dịch vụ tin nhắn qua mạng Internet, hướng dẫn thi hành Nghị định số 90/2008/NĐ-CP; Thông tư số 50/2009/TT-BTC ngày 16/03/2009, của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường chứng khoán; Thông tư 26/2009/TT-BTTTT ngày 31/07/2009, của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định về cung cấp thông tin và bảo đảm khả năng truy cập thuận tiện đối với trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Thông tư số 37/2009/TT-BTTTT ngày 22/7/2010, của Bộ Thông tin và Truyền thông  quy định về hồ sơ và thủ tục liên quan đến cấp phép, đăng ký, công nhận các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số; Thông tư số 17/2010/TT-BKH ngày 22/07/2010, của Bộ Kế hoạch và Đầu tư quy định chi tiết thí điểm đấu thầu qua mạng; Thông tư số 153/2010/TT-BTC ngày 28/9/2010, của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thông tư số 23/2010/TT-NHNN ngày 9/11/2010, của Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định về việc quản lý, vận hành và sử dụng Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng; Thông tư số 180/2010/TT-BTC ngày 9/11/2010 ,của Bộ Tài chính hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế; Thông tư số 25/2010/TT-BTTTT ngày 15/11/2010, của Bộ Thông tin và Truyền thông quy định việc thu thập, sử dụng, chia sẻ, đảm bảo an toàn và bảo vệ thông tin cá nhân trên trang thông tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; Thông tư số 209/2010/TT-BTC ngày 20/12/2010, của Bộ Tài chính quy định giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ kho bạc nhà nước; Thông tư số 32/2011/TT-BTC ngày 14/3/2011, của Bộ Tài chính hướng dẫn về khởi tạo, phát hành và sử dụng hóa đơn điện tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCA-BQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC ngày 10/9/2012, của Bộ Công an – Bộ Quốc phòng – Bộ Tư pháp - Bộ Thông tin và Truyền thông - Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông; Thông tư số 47/2014/TT-BCT ngày 05/12/2014, của Bộ Công thương quy định về quản lý website thương mại điện tử; Thông tư số 39/2014/TT-NHNN ngày 11/12/2014, của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về dịch vụ trung gian thanh toán.
1.2. Các nguyên tắc hoạt động trong thương mại điện tử, theo quy định tại Nghị định 52/2013/NĐ-CP
Một là, nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong giao dịch TMĐT
Các chủ thể tham gia hoạt động TMĐT có quyền tự do thỏa thuận không trái với quy định của pháp luật để xác lập quyền và nghĩa vụ của từng bên trong giao dịch. Thỏa thuận này là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quá trình giao dịch.
Hai là, nguyên tắc xác định phạm vi hoạt động kinh doanh trong TMĐT
Nếu thương nhân, tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và xúc tiến thương mại trên website TMĐT không nêu cụ thể giới hạn địa lý của những hoạt động này, thì các hoạt động kinh doanh đó được coi là tiến hành trên phạm vi cả nước.
Ba là, nguyên tắc xác định nghĩa vụ về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT
Người sở hữu website TMĐT bán hàng và người bán trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử phải tuân thủ các quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng khi cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng; Khách hàng trên website cung cấp dịch vụ TMĐT là người tiêu dùng dịch vụ TMĐT và là người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ do người bán trên website này cung cấp; Trường hợp người bán hàng trực tiếp đăng thong tin về hàng hóa, dịch vụ của mình trên website TMĐT thì thương nhân, tổ chức cung cấp dịch vụ TMĐT và thương nhân, tổ chức cung cấp hạ tầng không phải là bên thứ ba cung cấp thông tin theo quy định của Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Bốn là, nguyên tắc kinh doanh các hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện thông qua TMĐT
Các chủ thể ứng dụng TMĐTđể kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện phải tuân thủ các quy định pháp luật liên quan đến việc kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó.
1.3. Điểm mới liên quan đến hoạt động TMĐT theo quy định của pháp luật
1.3.1. Điểm mới liên quan đến hoạt động TMĐT theo Luật Đầu tư năm 2014 và Luật Doanh nghiệp năm 2014
Luật Đầu tư năm 2014 có nhiều nội dung mới bảo đảm hành lang pháp lý mở rộng thu hút đầu tư, xây dựng môi trường đầu tư minh bạch, đảm bảo quyền lợi của các chủ thể trong hoạt động đầu tư, đem lại lợi ích tốt nhất cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Điểm mới nổi bật trong Luật Đầu tư năm 2014 là các vấn đề liên quan đến nguyên tắc về quyền tự do đầu tư kinh doanh của công dân trong các ngành, nghề cấm đầu tư kinh doanh và Danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện theo pháp luật loại trừ, theo đó các nhà đầu tư  chỉ được quyền thực hiện hoạt động đầu tư, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật cho phép sang nguyên tắc được tự do đầu tư, kinh doanh tất cả các ngành, nghề mà Luật không cấm hoặc quy định phải có điều kiện.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 có nhiều điểm mới so với Luật Doanh nghiệp năm 2005, thể hiện theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 về quyền tự do kinh doanh của công dân, của doanh nghiệp. Mà theo đó, những gì luật pháp không cấm thì người dân, doanh nghiệp được tự do đầu tư, kinh doanh. Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với các thủ tục về đầu tư dự án, chứng nhận đầu tư, tạo cơ hội về khả năng gia nhập thị trường cho doanh nghiệp; bãi bỏ quy định đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã nghành khi thực hiện đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp được tự chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và nghành, nghề kinh doanh; theo xu hướng phát triển phương thức giao dịch điện tử thì việc sử dụng con dấu có sự thay đổi. Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; đồng thời, có nghĩa vụ thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Không phải tất cả văn bản của doanh nghiệp phải đóng dấu mà chỉ đóng dấu vào văn bản nào pháp luật quy định hoặc đối tác yêu cầu phái có dấu. Trước đây, theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định,  Doanh nghiệp nhà nước là Doanh nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ, thì nay theo Luật Doanh nghiệp 2014 quy định , Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
1.3.2. Điểm mới liên quan đến hoạt động TMĐT theo Nghị định 124/2015/NĐ-CP
Mà theo đó, nội dung sửa đổi từ khoản 32 đến khoản 35 Điều 1 của Nghị định 124/2015/NĐ-CP, đã quy định các hành vi vi phạm hành chính và mức xử phạt cho từng hành vi vi phạm cụ thể:
+Đối với hành vi vi phạm về thiết lập website thương mại điện tử hoặc ứng dụng thương mại điện tử trên nền tảng di động (gọi tắt là ứng dụng di động), mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Thiết lập website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử mà không đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định;
b) Nhận chuyển nhượng website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử mà không làm thủ tục chuyển nhượng hoặc không tiến hành đăng ký lại với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền theo quy định;
c) Triển khai cung cấp dịch vụ thương mại điện tử không đúng với hồ sơ đăng ký;
d) Gian dối hoặc cung cấp thông tin sai sự thật khi đăng ký website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử;
đ) Giả mạo thông tin đăng ký trên website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử hoặc ứng dụng dịch vụ thương mại điện tử;
e) Tiếp tục hoạt động cung cấp dịch vụ thương mại điện tử sau khi chấm dứt hoặc bị hủy bỏ đăng ký.
+ Đối với hành vi vi phạm về thông tin và giao dịch trên website thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động, mức phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Giả mạo hoặc sao chép giao diện website thương mại điện tử hoặc ứng dụng di động của thương nhân, tổchức, cá nhân khác để kiếm lợi hoặc để gây nhầm lẫn, gây mất lòng tin của khách hàng đối với thương nhân, tổ chức, cá nhân đó;
b) Đánh cắp, tiết lộ, chuyển nhượng, bán các thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh của thương nhân, tổ chức khác hoặc thông tin cá nhân của người tiêu dùng trong thương mại điện tử khi chưa được sự đồng ý của các bên liên quan.
+ Đối với hành vi vi phạm về bảo vệ thông tin cá nhân trong hoạt động thương mại điện tử, mức phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Thu thập thông tin cá nhân của người tiêu dùng mà không được sự đồng ý trước của chủ thể thông tin;
b) Thiết lập cơ chế mặc định buộc người tiêu dùng phải đồng ý với việc thông tin cá nhân của mình bị chia sẻ, tiết lộ hoặc sử dụng cho mục đích quảng cáo và các mục đích thương mại khác;
c) Sử dụng thông tin cá nhân của người tiêu dùng không đúng với mục đích và phạm vi đã thông báo.
1.3.3. Điểm mới liên quan đến hoạt động TMĐT theo Thông tư 47/2014/TT-BCT
Thông tư số 47/2014/TT-BCT  ngày 05/12/2014, của Bộ Công Thương quy định về quản lý website thương mại điện tử, có hiệu lực từ ngày 20/01/2015 (viết tắt Thông tư 47/2014/TT-BCT - thay thế Thông tư 12/2013/TT-BCT quy định thủ tục thông báo, đăng ký và công bố thông tin liên quan đến website thương mại điện tử) hướng dẫn một số quy định của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013, của Chính phủ về Thương mại điện tử.
Bên cạnh việc kế thừa về các quy định liên quan đến thủ tục thông báo, đăng ký liên quan website thương mại điện tử thì Thông tư 47/2014/TT-BCT đã chi tiết hóa hơn một số các quy định khác của Nghị định số 52/2013/NĐ-CP ngày 16/5/2013, của Chính phủ về Thương mại điện tử, như các vấn đề liên quan đến: Quản lý hoạt động kinh doanh trên các website TMĐT, bao gồm việc phân định trách nhiệm quản lý với các website chuyên ngành; hoạt động kinh doanh hàng hóa hạn chế kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện trên website TMĐT; quản lý hoạt động kinh doanh TMĐT trên các mạng xã hội;... Thông tư 47/2014/TT-BCT không áp dụng đối với các website hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, tín dụng, bảo hiểm, website mua bán, trao đổi tiền, vàng, ngoại hối và các phương tiện thanh toán khác, website cung cấp dịch vụ trò chơi trực tuyến, đặt cược hoặc trò chơi có thưởng.
Việc quản lý hoạt động kinh doanh trên mạng xã hội, chủ sở hữu mạng xã hội sẽ cho phép người tham gia được lập các website nhánh để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; chủ sở hữu mạng xã hội cho phép người tham gia mở gian hàng trên đó để trưng bày, giới thiệu hàng hóa hoặc dịch vụ; chủ sở hữu mạng xã hội có chuyên mục mua bán, trên đó cho phép người tham gia đăng tin mua bán hàng hóa và dịch vụ. Tất cả các hoạt động này đều phải đăng ký qua sàn giao dịch TMĐT.
Thông tư 47/2014/TT-BCT cũng quy định việc quản lý hoạt động kinh doanh hàng hóa hạn chế kinh doanh hoặc hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện trên website TMĐT theo đó: Thương nhân, tổ chức, cá nhân không được phép kinh doanh hàng hóa hạn chế kinh doanh trên website TMĐT bán hàng và website cung cấp dịch vụ TMĐT; cá nhân không được phép kinh doanh hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện; thương nhân, tổ chức được phép thiết lập website TMĐT bán hàng để kinh doanh hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện và phải công bố trên website của mình số, ngày cấp, nơi cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh đối với hàng hóa, dịch vụ đó trong trường hợp pháp luật quy định phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện đăng ký kinh doanh; thương nhân và tổ chức được phép sử dụng website cung cấp dịch vụ TMĐT để bán hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện; phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh hàng hóa, dịch vụ đó theo quy định của pháp luật, chủ sở hữu website cung cấp dịch vụ TMĐT trong trường hợp này phải có trách nhiệm: yêu cầu người bán cung cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh (trong trường hợp pháp luật quy định phải có Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh); loại bỏ khỏi website thông tin bán hàng hóa, dịch vụ vi phạm pháp luật khi phát hiện hoặc nhận được phản ánh có căn cứ xác thực.
1.3.4. Điểm mới liên quan đến hoạt động thương mại điện tử theo Thông tư  39/2014/TT-NHNN
Ngày 11/12/2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn về dịch vụ trung gian thanh toán (viết tắt Thông tư 39/2014/TT-NHNN), được quy định tại Nghị định 101/2012/NĐ-CP ngày 22/11/2013 của Chính phủ về thanh toán không dùng tiền mặt.
Thông tư 39/2014/TT-NHNN làm rõ các loại hình dịch vụ trung gian thanh toán, đồng thời đưa ra các quy định cụ thể đối với hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, bao gồm: Quản lý rủi ro, đảm bảo an toàn, bảo mật; đảm bảo khả năng thanh toán; hoạt động cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phải thực hiện các quy định sau:
Một là, xây dựng và thực hiện các nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng điện tử
Hai là, bảo đảm an toàn, bảo mật hệ thống công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng; an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử;
Ba là, tuân thủ các quy định về việc lập, sử dụng, bảo quản, lưu trữ chứng từ điện tử theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử trong hoạt động Ngân hàng.
2. Một số vướng mắc phát sinh từ hoạt động TMĐT và kiến nghị
Hiện nay chúng ta đang thiết lập hành lang pháp lý cho các giao dịch TMĐT được tiến hành một cách minh bạch, trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, qua đó tạo điều kiện để TMĐT phát triển, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và xây dựng các tập quán thương mại hiện đại cho Việt Nam.Tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh TMĐT được kiểm soát chặt chẽ hơn, nhưng không “làm khó” cho chủ thể tham gia hoạt động này, theo tác giả cần tiếp tục nghiên cứu khắc phục một số vướng mắc sau:
Thứ nhất, bên cạnh website TMĐT, các mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, được sử dụng rất phổ biến ở Việt Nam. Hiện số người sử dụng các diễn đàn mạng xã hội để mua sắm trực tuyến cũng gia tăng. Số doanh nghiệp sử dụng nền tảng di động như kênh liên lạc giữa nhà bán lẻ và người tiêu dùng ngày càng tăng. Do đó, quản lý các mạng xã hội kinh doanh TMĐT cũng như nền tảng di động cũng không kém phần cấp thiết. Thực tế cho thấy, Cơ quan chức năng cũng chưa có quy định rõ ràng đối với danh sách các website TMĐT khuyến cáo người tiêu dùng thận trọng; thiếu hướng dẫn chi tiết về quy trình giao kết hợp đồng mua hàng trực tuyến cũng như những cảnh báo cần thiết đối với người tham gia loại hình dịch vụ này. Tại Mục 2 của Nghị định 52/2013/NĐ- CP dành 8 điều để quy định về quy trình giao kết hợp đồng giữa người bán hàng trực tuyến với người mua.Theo Điều 23 Nghị định 52/2013/NĐ-CP, quy định: “Bộ Công thương có trách nhiệm quy định cụ thể về quy trình giao kết hợp đồng trực tuyến trên website TMĐT do thương nhân, tổ chức, cá nhân lập ra để mua hàng hóa, dịch vụ.”, nhưng cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết này. Nếu cho rằng, trước đây Bộ Công thương đã ban hành Thông tư 09/2008/TT-BCT ngày 21/7/2008, hướng dẫn về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website TMĐT, nay không cần phải quy định gì thêm là không phù hợp. Vì, tại thời điểm Thông tư 09/2008/TT-BCT được ban hành, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này chưa được ban hành, chính vì vậy, việc quy định như tại Điều 23 Nghị định 52/2013/NĐ-CP là cần thiết, nhằm bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng khi tham gia giao dịch TMĐT.
Thứ hai, quy định hiện hành cho phép Bộ Công thương công bố công khai trên cổng thông tin Quản lý hoạt động TMĐT danh sách các website TMĐT bị phản ánh về việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Câu hỏi đặt ra, đây là điều kiện quản lý nhằm tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh hay là cơ sở để cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện? Quy định hiện hành không giới hạn những người có quyền phản ánh website có dấu hiệu vi phạm pháp luật, cũng không quy định chi tiết quy chế xác thực, dẫn tới rủi ro các đối thủ cạnh tranh lợi dụng phản ánh lẫn nhau.
Thứ ba, Thông tư số 47/2014/TT-BCT quy định, các công ty có trang web bán hàng, các trang mạng xã hội phải đăng ký trên sàn giao dịch điện tử và các trang mạng xã hội phải có trách nhiệm quản lý thông tin, hoạt động của người đăng ký trên trang mạng xã hội của mình. Mọi hoạt động kinh doanh TMĐT phải đăng ký với Cục Thương mại điện tử thuộc Bộ Công thương. Cơ quan thuế phối hợp, lấy thông tin trên Cục Thương mại điện tử để theo dõi các doanh nghiệp, các tổ chức sở hữu website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử, từ đó rà soát các hợp đồng, thỏa thuận hợp tác để thu thuế. Thông qua đó, cơ quan thuế kiểm tra chứng từ liên quan đến các khoản thu chi của các doanh nghiệp này. Thông tin nguồn dữ liệu quản lý kê khai hoạt động TMĐT, cơ quan thuế sẽ nắm bắt hoạt động kinh doanh qua sàn, nhất là các trường hợp xây dựng kho hàng trên mạng của các cá nhân, doanh nghiệp để áp dụng các biện pháp quản lý thuế. Thế nhưng, hiện nay việc kê khai đăng ký với Cục Thương mại điện tử không nhiều. Nguyên nhân, do Thông tư quy định trách nhiệm đăng ký là của doanh nghiệp mà không quy định rõ trách nhiệm kiểm tra, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do vậy, nhiều doanh nghiệp “né” trách nhiệm đăng ký mà vẫn không bị xử lý. Đó cũng là lý do ngành thuế thất thu vì không có nguồn dữ liệu doanh nghiệp điện tử để tính thuế. Theo Luật Quản lý thuế năm 2006 (sửa đổi, bổ sung năm 2012, 2016) thì tổ chức, cá nhân phát sinh nghĩa vụ thuế khi có hoạt động thương mại hoặc làm công, mua bán tài sản, không phân biệt giao dịch thương mại được thực hiện theo phương thức truyền thống hay theo phương thức điện tử. Có nghĩa là bất kể doanh nghiệp hay cá nhân có đăng ký kinh doanh hay không, miễn có hoạt động mua bán phát sinh thu nhập thì có trách nhiệm thực hiện đăng ký, kê khai, nộp thuế. Với người bán hàng là cá nhân thì được miễn nộp các loại thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập cá nhân nếu mức doanh thu cả năm không vượt quá 100 triệu đồng. Tuy nhiên, đã mua bán phải kê khai, khi kê khai mới xác định có phải nộp thuế hay không. Thế nhưng, hầu hết những cá nhân kinh doanh trên các trang TMĐT hiện nay không kê khai. Thậm chí nhiều doanh nghiệp kinh doanh trên mạng không có địa điểm kinh doanh, không tài khoản ngân hàng rõ ràng. Không ít doanh nghiệp, cá nhân có cả website điện tử bán hàng nhưng không thông báo cho Cục Thương mại điện tử và không kê khai hoặc kê khai thuế không đầy đủ; …
Thứ tư, việc giải quyết các tranh chấp liên quan TMĐT hiện nay theo quy định Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015, mà theo đó, tại khoản 3 Điều 95 Bộ luật này có quy định “Thông điệp dữ liệu điện tử được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử.” được coi là chứng cứ. Vậy có thể hiểu: Chứng cứ điện tử là những chứng cứ được lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử trong máy tính hoặc trong các thiết bị có bộ nhớ kỹ thuật số có liên quan đến vụ việc tranh chấp. Những chứng cứ điện tử có thể thu thập được để phục vụ việc chứng minh, bao gồm:
- Những chứng cứ điện tử do máy tính tự động tạo ra như: “cookies”, “URL”, E-mail logs, web server logs…
- Những thông tin điện tử do con người tạo ra được lưu giữ trong máy tính hoặc các thiết bị điện tử khác, như các văn bản, bảng biểu, các hình ảnh, thông tin… được lưu giữ dưới dạng tín hiệu điện tử.
Để thu thập được những dấu vết điện tử này, cần sử dụng kỹ thuật, công nghệ máy tính và phần mềm phù hợp để có thể phục hồi lại những “dấu vết điện tử” đã bị xóa, bị ghi đè, những dữ liệu tồn tại dưới dạng ẩn, đã mã hóa, những phần mềm, mã nguồn được cài đặt dưới dạng ẩn, để làm cho có thể đọc được, ghi lại dưới hình thức có thể đọc được và có thể sử dụng làm bằng chứng pháp lý trước tòa án.
Tuy nhiên, cách thức thu thập chứng cứ điện tử này như thế nào? Quy trình ra sao? Quyền của chủ thể liên quan khi tiến hành thu thập… khiến cho Tòa án và các bên đương sự gặp nhiều khó khăn khi giải quyết tranh chấp. Vì Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 không quy định cụ thể việc này. Để tiến hành thu thập chứng cứ điện tử theo quyết định của Tòa án được thuận lợi, theo tác giả, pháp luật cần có quy định:
- Quyền yêu cầu cung cấp dữ liệu máy tính; quyền và thủ tục thu giữ và lưu giữ chứng cứ điện tử đối với các nhà cung cấp dịch vụ internet, chủ sở hữu máy tính; 
- Quy định cụ thể quyền yêu cầu cung cấp thông tin trên máy tính dưới dạng có thể mang đi, hữu hình và đọc được. Điều này rất quan trọng vì với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và viễn thông, đòi hỏi các nhà cung cấp dịch vụ thường xuyên phải đầu tư rất lớn về công nghệ. Cơ quan chức năng vì lý do nào đó không thể tự đầu tư thiết bị để tìm, thu thập, chặn bắt thông tin và đặc biệt là chuyển thông tin ở dạng kỹ thuật số, như giao thức IP sang dạng thông tin có thể đọc, nghe, nhìn được.
- Qui định quyền truy cập và lấy dữ liệu phục vụ việc thu thập.
- Qui định bảo quản dữ liệu điện tử đã được truyền tải qua mạng máy tính, đặc biệt là dữ liệu có nguy cơ bị mất hoặc sửa đổi, để bắt buộc người quản lý máy tính giữ bí mật, bảo quản và lưu giữ sự toàn vẹn của dữ liệu máy tính trong một khoảng thời gian cần thiết, tối đa là 90 ngày, để cơ quan có thẩm quyền tìm kiếm và thu giữ những thông tin có liên quan đến vụ việc.
- Quyền yêu cầu cung cấp thông tin thuê bao, thông tin truy cập, thông tin các cuộc gọi và những thông tin khác có liên quan đến vụ việc đối với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông, internet.
Thứ năm, chúng ta nhắc nhiều đến điều kiện kinh doanh với mong muốn hủy bỏ những quy định gây khó khăn, cản trở hoạt động của các doanh nghiệp, doanh nhân. Tuy nhiên, trong lĩnh vực này có lẽ cần xem xét quy định nhãn tín nhiệm như một điều kiện kinh doanh trong TMĐT nhằm hạn chế tối đa nhiều website kinh doanh TMĐT không an toàn và có dấu hiệu lừa đảo người tiêu dùng. VECOM đã phối hợp với Trung tâm Phát triển thương mại điện tử thuộc Cục Thương mại điện tử và Công nghệ thông tin xây dựng hệ thống tiêu chuẩn trong giao dịch TMĐT với tên gọi là Safeweb. Các website TMĐT thuộc phạm vi cấp nhãn tín nhiệm bao gồm B2C, Sàn giao dịch TMĐT và Nhóm mua. Nên chăng, sử dụng safeweb như một điều kiện kinh doanh TMĐT cho các website TMĐT? Nhãn tín nhiệm chính là cầu nối giúp cho các doanh nghiệp TMĐT xây dựng niềm tin đối với người tiêu dùng. Tương tự như nhãn tín nhiệm của các nước phát triển như Truste của Mỹ, TradeSafe của Nhật Bản, TrustSg của Singapore,…
Thứ sáu, trong điều kiện nhiều hacker thành thạo kỹ thuật Social Engineering tới mức họ hiểu rõ việc tạo lập các website giả mạo và cả hành vi của người dùng, dẫn dụ thành công người dùng vào việc đăng nhập tài khoản và mật khẩu, chìa khoá để vượt qua các hệ thống bảo mật. Kịch bản đơn giản nhất cho các hacker trong hàng loạt các vụ khách hàng bị “rút ruột” tài khoản là phishing . Để đánh lừa, hacker đã xây dựng một trang web giả mạo giống y hệt trang mà người dùng muốn truy cập. Trên thế giới, để hạn chế tối đa việc các hacker sử dụng kỹ thuật phishing, nhiều doanh nghiệp đã mua những domain vệ tinh, gần liên quan đến domain chính để tránh việc người dùng có thể gõ nhầm, hoặc nhìn nhầm domain của họ. Doanh nghiệp nước ngoài xem xét rất kỹ những vấn đề này, nhưng doanh nghiệp Việt Nam thì chưa. Có thể lấy trường hợp của Google.com, nếu gõ Gogle.com thì trang đích vẫn dẫn đến trang chủ của Google. Tương tự như vậy, trang chủ của Vietcombank là vietcombank.com.vn, tuy nhiên, chỉ cần một dấu - ở giữa các domain này cũng có thể khiến điều hướng đến trang đích bị thay đổi. Ví dụ, các hacker có thể lợi dụng những tên miền như vietcom-bank.com.vn, viet-combank.com.vn… để giả lập giao diện website của Vietcombank, dẫn dụ người dùng vào việc làm cho họ nhầm tưởng rằng, họ đang truy cập vào trang chủ của Vietcombank. Hiện tại pháp luật nước ta về TMĐT không quy định bắt buộc Vietcombank áp dụng phương pháp bảo mật bằng cách mua những tên miền gần gũi với thương hiệu của mình, những tên miền nói trên vẫn đang trong trạng thái sẵn sàng để đăng ký[2]. Do vậy, để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng trong hoạt động TMĐT, cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét quy định buộc các Doanh nghiệp Việt Nam cần quan tâm vấn đề này hơn.
Tóm lại: Trong điều kiện các văn bản pháp luật hiện tại chưa phản ảnh đầy đủ thực tiễn kinh doanh trực tuyến nhưng thực tế TMĐT không chỉ tác động đối với hoạt động thương mại mà còn tác động lên các hoạt động khác của nền kinh tế, chính trị, văn hóa… Do đó, pháp luật về TMĐT là công cụ để cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng khi giải quyết các tranh chấp liên quan. Để TMĐT phát huy thế mạnh của mình đồng thời tạo cơ chế thuận lợi cho việc giải quyết các tranh chấp, cần bổ sung thêm các quy định về công nhận giá trị pháp lý của chứng cứ điện tử; cách thức quản lý các mạng xã hội kinh doanh TMĐT cũng như nền tảng di động; đưa ra các chế tài tương ứng với hành vi vi phạm; xây dựng và thừa nhận tính pháp lý cho việc thu thập dữ liệu điện tử bởi cơ quan có thẩm quyền để kịp thời giải quyết tranh chấp TMĐT.
Ths.LS Lê Văn Sua
Văn phòng luật sư Lê Sua
 
 
 
 
[1] http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/nhan-dien-website-uy-tin-trong-giao-dich-truc-tuyen-3115990.html
[2] http://ictnews.vn/cntt/thuong-mai-dien-tu-viet-nam-bi-phu-mot-vet-mo-sau-vu-hack-nua-ty-vao-vietcombank-142381.ict