Thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu trên nhiều lĩnh vực, đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh niên là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng tạo, muốn tự khẳng định mình. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã xác định công tác thanh niên là công tác của Đảng, một trong các vấn đề có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cách mạng. Tại Án nghị quyết về Cộng sản thanh niên vận động tháng 10 năm 1930, Đảng ta khẳng định : "Thanh niên lao động đã thành một lực lượng cách mạng quan trọng không thể không kể tới được".
Trải qua quá trình xây dựng và phát triển, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản quan trọng về công tác thanh niên. Trong các văn bản này, Đảng ta không chỉ khẳng định vai trò to lớn của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, mà còn khẳng định sự cần thiết phải tăng cường quản lý nhà nước đối với thanh niên, ban hành Luật Thanh niên, tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi để các cấp, các ngành và mỗi công dân chăm lo bồi dưỡng, giáo dục và phát huy tiềm năng to lớn của thanh niên. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) về công tác thanh niên trong thời kỳ mới khẳng định: “
Sự nghiệp đổi mới có thành công hay không, đất nước bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không phần lớn tuỳ thuộc vào lực lượng thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên; công tác thanh niên là vấn đề sống còn của dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng”. Tiếp đó, Nghị quyết số 25/NQ-TW ngày 25/7/2008 Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã xác định “thanh niên là rường cột của nước nhà, là chủ nhân tương lai của đất nước, là một trong những nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Chăm lo, phát triển thanh niên vừa là mục tiêu, vừa là động lực bảo đảm cho sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước và đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Luật Thanh niên được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 29/11/2005 tại kỳ họp lần thứ 8 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006. Trên cơ sở đó, Chính phủ ban hành Nghị định số 120/2007/NĐ-CP ngày 23/7/2007 hướng dẫn thi hành Luật Thanh niên. Thời gian qua, với sự phối hợp của các cấp, các ngành, Luật Thanh niên năm 2005 đã từng bước đi vào thực tiễn, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ, lợi ích hợp pháp của thanh niên và cho việc ban hành các chính sách, pháp luật cho thanh niên; phát huy vai trò xung kích, tình nguyện, sức sáng tạo, tiềm năng to lớn của thanh niên và trách nhiệm của thanh niên đối với đất nước và xã hội. Luật Thanh niên ra đời đã góp phần xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật đối với thanh niên trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam.Việc triển khai thi hành Luật Thanh niên đã góp phần xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam mới giàu lòng yêu nước, có đạo đức cách mạng, ý thức công dân và lý tưởng xã hội chủ nghĩa; có trình độ học vấn, nghề nghiệp và việc làm; có văn hóa, sức khỏe, kỹ năng sống, ý chí vươn lên; xung kích, sáng tạo, làm chủ khoa học, công nghệ tiên tiến; từng bước hình thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, từ thực tiễn hơn 10 năm thi hành Luật Thanh niên cho thấy, một số quy định của Luật Thanh niên đã bộc lộ những bất cập cần phải được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp để tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên và thực hiện quyền, nghĩa vụ của thanh niên; phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển thanh niên, công tác thanh niên và sự phát triển của đất nước hiện nay, cụ thể:
1. Sửa đổi, bổ sung quy định về độ tuổi thanh niên:
Căn cứ từ sự phân tích về phát triển thể chất, tâm lý, sinh lý, sự phát triển về mặt xã hội, ý thức tự lập, tự chủ của thanh niên và có tham khảo về quy định độ tuổi thanh niên của một số nước trong khu vực và trên thế giới, Điều 1 Luật Thanh niên năm 2005 quy định:
“Thanh niên quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu tuổi đến ba mươi tuổi” (được hiểu là 16 tuổi 364 ngày).
Năm 2016, tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khóa XIII, Luật Trẻ em đã được Quốc hội thông qua, theo đó tại Điều 1 quy định:
“Trẻ em là người dưới 16 tuổi” (được hiểu là 15 tuổi 365 ngày) (Trước đó, Điều 1 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004 quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi
”).
Như vậy, có thể thấy rằng giữa độ tuổi trẻ em và độ tuổi thanh niên không có sự nối tiếp nhau và khoảng cách giữa trẻ em và thanh niên trong hai luật trên là một tuổi. Hơn nữa quy định về tuổi trẻ em trong Luật Trẻ em năm 2016 có độ vênh tới 2 tuổi so với Công ước Quốc tế về Quyền trẻ em mặc dù là thành viên đầu tiên ở châu Á và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 mà không bảo lưu điều, khoản nào. Việc quy định không thống nhất, không rõ ràng về độ tuổi trẻ em và độ tuổi thanh niên như trên đã gây ra không ít khó khăn, bất cập trong công tác quản lý nhà nước về thanh niên cũng như trong lĩnh vực quản lý nhà nước về trẻ em.
2. Sửa đổi, bổ sung quy định hành vi bị nghiêm cấm:
Điều 8 Luật Thanh niên năm 2005 quy định các hành vi bị nghiêm cấm gồm:
“1. Nghiêm cấm thanh niên thực hiện các hành vi sau đây:
a) Vận chuyển, mua, bán, tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý;
b) Hoạt động mại dâm, đánh bạc, tham gia các tệ nạn xã hội khác;
c) Mua, bán, trao đổi, tàng trữ, sử dụng văn hoá phẩm có nội dung độc hại;
d) Gây rối trật tự công cộng.
2. Nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân dụ dỗ, lôi kéo, ép buộc thanh niên thực hiện các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này”.
Các hành vi bị nghiêm cấm tại Điều 8 được liệt kê cụ thể, chi tiết, là những hành vi đặc thù thường xảy ra đối với lứa tuổi thanh niên (theo báo cáo của các cơ quan pháp luật, tình hình tội phạm và tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên có xu hướng gia tăng, nhất là những tội phạm về ma tuý, mại dâm, gây rối trật tự công cộng… đặc biệt là tội đua xe trái phép, sử dụng thuốc lắc…). Tuy nhiên, việc quy định cụ thể, chi tiết như hiện nay dễ dẫn đến việc hiểu và áp dụng không thống nhất, không đầy đủ, không bao quát hết những quy định ở các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau trong đó có thanh niên là đối tượng áp dụng. Do đó, cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung theo hướng khái quát, tránh trùng lặp với các văn bản quy phạm pháp luật khác.
3. Sửa đổi, bổ sung, tách bạch, làm rõ giữa quyền của thanh niên và nghĩa vụ của thanh niên:
Luật Thanh niên năm 2005 dành cả Chương II (08 Điều, từ Điều 9 đến Điều 16) để quy định về quyền và nghĩa vụ của thanh niên, gồm quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong học tập; quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong lao động; quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong bảo vệ Tổ quốc; quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong hoạt động khoa học, công nghệ và bảo vệ tài nguyên, môi trường; quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong hoạt động văn hoá, nghệ thuật, du lịch, vui chơi, giải trí; quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong bảo vệ sức khoẻ, hoạt động thể dục, thể thao; quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong hôn nhân và gia đình và quyền và nghĩa vụ của thanh niên trong việc tham gia quản lý nhà nước và xã hội.
Tuy nhiên, quy định như trên khiến nội dung về quyền của thanh niên không có sự tách bạch rõ ràng, cụ thể với nội dung về nghĩa vụ của thanh niên; khó khăn cho thanh niên trong việc xác định đâu là quyền lợi được hưởng, đâu là nghĩa vụ phải thực hiện trong các lĩnh vực nhằm nâng cao trách nhiệm đối với bản thân mình, đối với đất nước; đồng thời cũng gây khó khăn khi ban hành các chính sách, xác định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội nhằm tạo điều kiện cho việc đào tạo, phát huy thanh niên. Hơn nữa, Luật Thanh niên năm 2005 cần sửa đổi theo hướng bổ sung thêm một số quyền của thanh niên bên cạnh những quyền đã được quy định để phù hợp với Hiến pháp năm 2013 như quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe; quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc…v.v và tập trung làm rõ các nội dung về quyền phát triển của thanh niên.
4. Sửa đổi, bổ sung, làm rõ trách nhiệm đầu mối quản lý nhà nước về công tác thanh niên.
Khoản 2 Điều 5 Luật Thanh niên năm 2005 quy định trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác thanh niên như sau:
“a) Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên; b) Các Bộ, cơ quan ngang Bộ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh niên theo sự phân công của Chính phủ; c) Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh niên ở địa phương theo sự phân cấp của Chính phủ” và quy định
Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam là cơ quan tư vấn của Thủ tướng Chính phủ về công tác thanh niên. Tổ chức, hoạt động của Uỷ ban quốc gia về thanh niên Việt Nam do Thủ tướng Chính phủ quy định” (Điều 6) mà chưa quy định đầy đủ, cụ thể, rõ ràng bộ, ngành nào làm đầu mối giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên. Điều này dẫn đến khó khăn, lúng túng trong việc hướng dẫn, đôn đốc, theo dõi, kiểm tra việc thực hiện Luật Thanh niên.
Trên cơ sở Kết luận của Bộ Chính trị tại Thông báo số 327-TB/TW ngày 16/4/2010 về việc phê duyệt Đề án tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về thanh niên, ngày 13/8/2010 Thủ tướng Chính phủ đã ký, ban hành Quyết định số 1471/QĐ-TTg thành lập Vụ Công tác thanh niên trực thuộc Bộ Nội vụ để giúp Bộ trưởng Bộ Nội vụ thực hiện đầy đủ và toàn diện nhiệm vụ được cấp có thẩm quyền giao theo quy định của pháp luật về thanh niên và công tác thanh niên. Ngày 10/02/2011, Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư số 04/2011/TT-BNV hướng dẫn bổ sung nhiệm vụ, tổ chức và biên chế của Sở Nội vụ, Phòng Nội vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện về công tác thanh niên làm cơ sở để các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phân công nhiệm vụ cho Sở Nội vụ và Phòng Nội vụ tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ này. Hiện nay, Nghị định số 34/2017/NĐ-CP ngày 03/4/2017 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Nội vụ, Chính phủ đã bổ sung chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên cho Bộ Nội vụ và thành lập Vụ Công tác thanh niên là đơn vị đầu mối, tham mưu giúp Bộ trưởng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước về thanh niên. Vì vậy, Luật Thanh niên năm 2005 cần sửa đổi, quy định rõ việc giao Bộ Nội vụ là cơ quan đầu mối tham mưu, giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác thanh niên nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về thanh niên trên thực tế; khắc phục sự chồng chéo nhiệm vụ giữa cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên là Bộ Nội vụ và cơ quan tư vấn về công tác thanh niên của Thủ tướng Chính phủ là Ủy ban Quốc gia về thanh niên Việt Nam.
5. Sửa đổi, bổ sung, làm rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên
Điều 4 Luật Thanh niên năm 2005 quy định về trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên như sau:
“1. Thanh niên là tương lai của đất nước, là lực lượng xã hội hùng hậu, có tiềm năng to lớn, xung kích trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo, bồi dưỡng và phát huy thanh niên là trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và xã hội; 2. Nhà nước có chính sách tạo điều kiện cho thanh niên học tập, lao động, giải trí, phát triển thể lực, trí tuệ, bồi dưỡng về đạo đức, truyền thống dân tộc, ý thức công dân, ý chí vươn lên phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; 3. Cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân có trách nhiệm góp phần tích cực vào việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng và phát huy vai trò của thanh niên”.
Có thể thấy, các quy định về trách nhiệm của nhà nước, gia đình và xã hội trong việc thực thi quyền và lợi ích hợp pháp của thanh niên là những quy định mang tính nguyên tắc, mới dừng lại ở việc kêu gọi, khuyến khích thực hiện; để thực hiện cần văn bản dưới Luật quy định chi tiết, thiếu cơ chế, chế tài để đảm bảo thực hiện, khó triển khai và chưa đi vào thực tiễn cuộc sống của thanh niên. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung, làm rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, gia đình và xã hội đối với thanh niên nhằm phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của thanh niên đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; cần thiết kế điều luật theo hướng quy định những nguyên tắc xử sự mang tính bắt buộc và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
6. Sửa đổi bổ sung quy định về hợp tác quốc tế về công tác thanh niên
Điều 7 Luật Thanh niên năm 2005 quy định
: “1. Hợp tác quốc tế về công tác thanh niên với các nước, tổ chức quốc tế trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, phù hợp với pháp luật mỗi nước và thông lệ quốc tế. 2. Nội dung hợp tác quốc tế về công tác thanh niên bao gồm: a) Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án hợp tác quốc tế về công tác thanh niên; b) Tham gia các tổ chức quốc tế, ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế về công tác thanh niên và c) Giao lưu thanh niên; trao đổi thông tin, kinh nghiệm về công tác thanh niên”. Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý khẳng định và nâng cao uy tín, vị thế của thanh niên Việt Nam trên trường quốc tế, tăng cường mở rộng mặt trận đoàn kết, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, quy định về hợp tác quốc tế về công tác thanh niên cần sửa đổi, bổ sung theo hướng phân định rõ hoạt động giao lưu quốc tế của các tổ chức thanh niên và hoạt động hợp tác quốc tế của cơ quan quản lý nhà nước về thanh niên nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả trong việc xây dựng chính sách, pháp luật đối với thanh niên.
Bên cạnh đó, Luật Thanh niên năm 2005 cần bổ sung quy định trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo về thanh niên và công tác thanh niên, cơ chế, chế tài bảo đảm thực hiện Luật Thanh niên nhằm nâng cao vai trò, trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện các quy định trong Luật Thanh niên;bổ sung quy định về chính sách của nhà nước đối với thanh niên tình nguyện nhằm động viên, khuyến khích, phát huy tính xung kích, sáng tạo của thanh niên..../.
N.Thảo