Một số quy định chưa phù hợp về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong BLHS năm 2015

19/12/2016
Để thể hiện rõ chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong việc lập pháp nói chung và cụ thể là trong pháp luật hình sự, từ khi Luật hình sự được quy định một cách hệ thống bằng một bộ luật, vấn đề tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được đề cập đến một cách chi tiết, cụ thể. Bộ luật hình sự năm 1985 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VII, kỳ họp thứ 9, nhất trí thông qua ngày 27 tháng 6 năm 1985, tại khoản 1 Điều 38 BLHS quy định cụ thể 08 tình tiết giảm nhẹ để áp dụng đối với người phạm tội khi xem xét quyết định hình phạt[1]. Ngoài 08 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 38 BLHS, Bộ luật cũng quy định khi xét xử Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải được ghi trong bản án. Tiếp tục kế thừa tính phù hợp của Bộ luật hình sự năm 1985, Bộ luật hình sự năm 1999 được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21 tháng 12 năm 1999, tại khoản 1 Điều 46 BLHS quy định 18 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự có thể áp dụng để giảm nhẹ cho người phạm tội khi xét xử[2]. Rõ ràng theo Bộ luật hình sự năm 1999 thì các nhà làm luật đã mở rộng phạm vi áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội. Ngoài 18 tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS cùng quy định có thể xem xét các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhưng phải được ghi rõ trong bản án.
Sau gần 15 năm thi hành, Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi bổ sung để phù hợp với thực tiễn áp dụng và sự phát triển của đất nước, cũng như quá trình hội nhập vào kinh tế thế giới, ngày 27/11/2015 Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua[3]. Trong Bộ luật này tiếp tục khẳng định chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định theo hướng mở rộng phạm vi áp dụng hơn, cụ thể tại Điều 51 Bộ luật quy định 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. So sánh ở ba giai đoạn khác nhau, ba Bộ luật hình sự quy định tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo hướng ngày càng mở rộng phạm vi áp dụng, đều này một lần nữa khẳng định, tuy pháp luật hình sự quy định xử lý nghiêm khắc người có hành vi phạm tội, nhưng cũng thể hiện rất cao tính nhân đạo trong quá trình áp dụng để đạt được mục đích cao nhất là cải tạo, giáo dục người phạm tội thành người có ích cho xã hội.
Theo đó, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình được quy định tại Điều 51 BLHS được quy định cụ thể như sau:
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
b) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
c) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
d) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
đ) Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
e) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
g) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
h) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
i) Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
k) Phạm tội vì bị người khác đe doạ hoặc cưỡng bức;
l) Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
m) Phạm tội do lạc hậu;
n) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
o) Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
p) Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
q) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
r) Người phạm tội tự thú;
s) Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải;
t) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
u) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
v) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
x) Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.”
Khoản 1 Điều 51 BLHS quy định thêm 04 tình tiết mới để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội khi xét xử so với Bộ luật hình sự năm 1999, cụ thể: Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng. Ngoài ra, Điều 51 BLHS cũng sửa đổi câu từ để thể hiện rõ ý nghĩa của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, với quy định tại Điều 51 BLHS còn có một số điểm chưa thật phù hợp.
- Thứ nhất,khoản 1 Điều 51 BLHS sửa đổi một tình tiết theo hướng bất lợi hơn cho người phạm tội so với khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999, đó là tình tiết quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra”. Trong khi đó điểm đ khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999 quy định Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái  pháp luật của người bị hại hoặc người khác gây ra”. Rõ ràng, với sửa đổi về tình tiết này đã thu hẹp phạm vi áp dụng; đối với quy định tại Điều 46 BLHS thì nếu có hành vi trái pháp luật của người bị hại và người khác không phải là người bị hại, có thể là của cha mẹ, anh, chị, em, bạn bè… gây ra thì có thể áp dụng tình tiết này cho người phạm tội; nhưng theo quy định tại Điều 51 BLHS thì tình tiết này chỉ áp dụng đối với trường hợp người có hành vi trái pháp luật là nạn nhân gây ra. Nạn nhân được xác định là người, tổ chức gánh chịu hậu quả từ bên ngoài đưa đến[4], theo ý nghĩa này thì có thể xác định nạn nhân trong tình tiết này là bị hại trong vụ án hình sự. Như vậy, đối với tình tiết quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 51 BLHS chỉ xảy ra khi có hành vi trái pháp luật của bị hại trong vụ án.
- Thứ hai,tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải”. Đối với tình tiết này được ghép từ hai tình tiết lại đó là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” và “Người phạm tội ăn năn hối cải”. Trong quy định dùng liên từ “hoặc” để diễn tả, có nghĩa là nếu người phạm tội chỉ thành khẩn khai báo cũng có thểáp dụng tình tiết này, hoặc là người phạm tội chỉ ăn năn hối cải cũng có thể áp dụng tình tiết này, hoặc người phạm tội thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải cũng có thể áp dụng tình tiết này. Quy định này trong thực tiễn xét xử xảy ra nhiều bất cập và không đảm bảo được sự công bằng cho người phạm tội, vì có người phạm tội thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, nhưng có người chỉ thành khẩn khai báo, nhưng tỏ thái độ không ăn năn hối cải, và cũng có người ăn năn hối cải nhưng không thành khẩn khai báo. Từ đó việc áp dụng tình tiết này đối với tất cả ba dạng người trong quá trình xét xử là chưa thật phù hợp.
- Thứ ba, tình tiết quy định tại điểm v khoản 1 Điều 51 BLHS “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác”. Cũng giống như tình tiết trên, đối với tình tiết này, quy định dùng dấu “,” và liên từ “hoặc” để thể hiện ý nghĩa trong quy định. Theo đó, nếu người phạm tội sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại quy định này nếu như họ có thành tích xuất sắc trong sản xuất, hoặc có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, hoặc có thành tích xuất sắc trong học tập, hoặc có thành tích xuất sắc trong công tác. Và trong thực tiễn có người phạm tội sẽ có tất cả những tình tiết theo quy định này, hoặc chỉ có một hoặc chỉ có một vài tình tiết theo quy định này thì tất cả những người phạm tội đều được áp dụng tình tiết “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong…”. Quy định này cũng dẫn đến trường hợp bất cập như đã phân tích ở trên, đó là thể hiện tính không công bằng đối với người phạm tội.
- Thứ tư,khoản 2 Điều 51 quy định Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án”.Việc quy định cụ thể tình tiết “Đầu thú” trong khoản 2 nhìn chung có để khẳng định sự khác nhau giữa tình tiết này với tình tiết “Tự thú” được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Nhưng khi phân tích kỹ, chúng ta sẽ thấy sự bất cập trong việc xem trọng giữa tình tiết “đầu thú” với các tình tiết khác không được quy định trong khoản 2 Điều này, có thể là tình tiết người phạm tội có khuyết tật nhẹ, hoặc là người phạm tội là vợ, chồng, con của thương binh, hoặc người bị hại cũng có lỗi… Và chúng ta cũng hiểu rằng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS có giá trị pháp lý để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cao hơn tình tiết quy định tại khoản 2; và cũng có thể hiểu tình tiết được quy định trong khoản 2 sẽ có giá trị pháp lý giảm nhẹ cao hơn tình tiết không quy định trong khoản 2 Điều 51 BLHS? Nếu quy định như khoản 2 Điều 51 BLHS thì người nghiên cứu về vấn đề này có thể hiểu theo hướng này.Do vậy, nếu trong khoản 2 Điều 51 BLHS đã liệt kê tình tiết cụ thể thì phải liệt kê tất cả các tình tiết khác, còn nếu không liệt kê các tình tiết khác thì không nên liệt kê tình tiết “đầu thú” trong khoản 2 Điều 51 BLHS.
- Thứ năm, tuy khoản 1 Điều 51 BLHS đã liệt kê 22 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, điều chỉnh cơ bản nhất các tình tiết để áp dụng có lợi cho người phạm tội khi quyết định hình phạt. Nhưng không phải với 22 tình tiết đó là đã điều chỉnh toàn diện mọi trường hợp. Xem xét các tình tiết khác, tác giả nhận thấy có một số tình tiết có thể quy định thành tình tiết giảm nhẹ cụ thể trong khoản 1 Điều 51 BLHS. Cụ thể, đối với trường hợp người phạm tội là thương binh, thì tình tiết này có thể quy định trong khoản 1 Điều 51 BLHS. Có quan điểm cho rằng người thương binh là thuộc trường hợp có thành tích xuất sắc trong chiến đấu hoặc trong công tác…; nhưng thực tế cho thấy có người là thương binh, nhưng họ lại tiếp tục lập thành tích xuất sắc khác trong chiến đấu, công tác…
Trường hợp bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hoặc xin miễn hình phạt cho người phạm tội đối với trường hợp gây thiệt hại về sức khỏe hoặc gây thiệt hại về tài sản cũng cần xem xét bổ sung vào khoản 1 Điều 51 BLHS. Vì khi bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xác định xin giảm nhẹ hoặc xin miễn hình phạt cho người phạm tội là khi đó người phạm tội đã có những biểu hiện tích cực làm cho bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại nhận thấy rõ ràng người phạm tội đã thật sự ăn năn, hối cải và không cần thiết buộc phải chịu hình phạt hoặc chỉ cần hình phạt nhẹ cũng đảm bảo được tính công minh của pháp luật. Khi đó, tính nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội không còn hoặc đã giảm đến mức đáng kể và không cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với họ.
Từ các phân tích trên, theo tác giả, cần sửa đổi, bổ sung Điều 51 BLHS theo hướng:
Một là, điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra” quy định lại theo hướng kể cả hành vi của người khác gây ra cũng thuộc trường hợp này. Vì thực tế có trường hợp do hành vi trái pháp luật của những người thân thích của nạn nhân đã trực tiếp dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo.
Hai là,điểm s, v khoản 1 Điều 51 BLHS “Người phạm tội thành khẩn khai báo hoặc ăn năn hối cải” và “Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” cần tách ra thành các tình tiết riêng biệt để đảm bảo được sự phù hợp khi người phạm tội có đồng thời nhiều tình tiết khác nhau thuộc hai nhóm tình tiết này.
Ba là, khoản 2 Điều 51 BLHS không liệt kê cụ thể về tình tiết “đầu thú” để đảm bảo tính phù hợp và giá trị pháp lý của tình tiết này và các tình tiết khác không được liệt kê ra.
Bốn là, cần bổ sung thêm hai tình tiết giảm nhẹ vào khoản 1 Điều 51 BLHS đó là “Người phạm tội là thương binh”“Bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hoặc xin miễn hình phạt cho người phạm tội”.
Như vậy, Điều 51 BLHS được quy định lại theo hướng như sau:
Điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự[5]
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
1.1. Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
1.2. Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
1.3. Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
1.4. Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
1.5. Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
1.6. Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân và người thân thích của nạn nhân gây ra;
1.7. Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
1.8. Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
1.9. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
1.10. Phạm tội vì bị người khác đe doạ hoặc cưỡng bức;
1.11. Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
1.12. Phạm tội do lạc hậu;
1.13. Người phạm tội là phụ nữ có thai;
1.14. Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
1.15. Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
1.16. Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
1.17. Người phạm tội tự thú;
1.18. Người phạm tội thành khẩn khai báo;
1.19. Người pham tội ăn năn hối cải;
1.20. Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện hoặc điều tra tội phạm;
1.21. Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
1.22. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất;
1.23. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong chiến đấu;
1.24. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong học tập;
1.25. Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong công tác;
1.26. Người phạm tội là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công với cách mạng;
1.27. Người phạm tội là thương binh;
1.28. Bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hoặc xin miễn hình phạt cho người phạm tội.
2. Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.”
Tóm lại, việc quy định các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình một cách cụ thể và toàn diện sẽ góp phần tích cực vào việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bên cạnh đó có giá trị rất lớn trong công cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm. Các tình tiết giảm nhẹ được áp dụng cho người phạm tội phù hợp với từng vụ việc sẽ mang lại hiệu quả cao về mục đích của hình phạt là giáo dục người phạm tội và giáo dục, phòng ngừa chung.Mặt khác, khi điều chỉnh toàn diện các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để áp dụng cho người phạm tội sẽ thể hiện cao nhất chính sách hình sự nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta./.
Nguyễn Văn Lam
 
[1]Điều 38. Những tình tiết giảm nhẹ.
1- Những tình tiết sau đây được coi là tình tiết giảm nhẹ:
a) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm hoặc tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại;
b) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, vượt quá yêu cầu của tình thế cần thiết hoặc bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của người khác gây ra;
c) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không do mình tự gây ra;
d) Phạm tội mà chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
đ) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức hoặc chi phối về mặt vật chất, công tác hay các mặt khác;
e) Người phạm tội là phụ nữ có thai, là người già hoặc là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
g) Phạm tội do trình độ lạc hậu hoặc do trình độ nghiệp vụ non kém;
h) Người phạm tội tự thú, thật thà khai báo, ăn năn hối cải hoặc tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện và điều tra tội phạm.
2- Khi quyết định hình phạt, Toà án có thể coi những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi trong bản án.
3- Khi có nhiều tình tiết giảm nhẹ, Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất mà Điều luật đã quy định hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ này phải được ghi trong bản án.
[2]Điều 46.  Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1. Các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
A) Người phạm tội đã ngăn chặn, làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
B) Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả;
C) Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
D) Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;  
Đ) Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái  pháp luật của người bị hại hoặc  người khác gây ra;
E) Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
G) Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
H)  Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
I) Phạm tội vì bị người khác đe doạ, cưỡng bức;
K) Phạm tội do lạc hậu;
L) Người phạm tội là phụ nữ có thai;
M) Người phạm tội là người già;
N) Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
O) Người phạm tội tự thú;
P) Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
Q) Người phạm tội tích cực giúp đỡ các cơ quan có trách nhiệm phát hiện, điều tra tội phạm;
R) Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
S) Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc  công tác.
2. Khi quyết định hình phạt, Toà án còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ  trong bản án.
3. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
[3] Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành.
[4] Bộ giáo dục và đào tạo – Trung tâm ngôn ngữa và văn hóa Việt Nam, Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý  chủ biên), Nxb Văn hóa – Thông tin, 1998, tr.1165.
 
[5] Để sửa đổi, bổ sung theo hướng này, cần nghiên cứu thể hiện “điểm” của điều luật cho phù hợp.