Pháp luật hình sự VN với yêu cầu bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo Công ước chống tra tấn

16/03/2016
Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 83/2014/QH13 ngày 28/11/2014, phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người (tiếng Anh United Nations Convention against Torture and Other Cruel, Inhuman or Degrading Treatment or Punishment – gọi tắt Công ước chống tra tấn[1] – CAT). Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 364/QĐ-TTg ngày 17/3/2015 về việc phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Việc ký kết, phê chuẩn Công ước có ý nghĩa quan trọng trong việc thể hiện chính sách hình sự nhân đạo của Nhà nước ta cũng như thể hiện sự quyết tâm duy trì nền tảng đạo đức, pháp lý và văn hoá quyền con người đang được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng và Hiến pháp năm 2013; cho thấy nỗ lực của Việt Nam trong việc bảo vệ quyền con người,tạo cơ sở pháp lý quan trọng góp phần hiệu quả trong đấu tranh chống các luận điệu vu cáo, xuyên tạc của các thế lực thù địch nhằm chống phá Nhà nước Việt Nam. Việc phê chuẩn Công ước này cũng tạo điều kiện để rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan, cụ thể là quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người cho phù hợp hơn với Công ước và các quy chuẩn chung của pháp luật quốc tế về quyền con người.
Theo nghị quyết 83/2014/QH13, Việt Nam xây dựng, hoàn thiện pháp luật để phù hợp với các quy định Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.
Nghị quyết không coi quy định tại khoản 2[2] Điều 8 Công ước chống tra tấn là cơ sở pháp lý trực tiếp để dẫn độ. Mà theo đó, việc dẫn độ sẽ được thực hiện theo quy định của pháp luật Việt Nam, trên cơ sở các hiệp định về dẫn độ mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia hoặc nguyên tắc có đi có lại. Nghị quyết bảo lưu quy định tại Điều 20 về thẩm quyền tiếp nhận khiếu nại và điều tra của Ủy ban chống tra tấn và khoản 1 Điều 30 về tranh chấp về việc giải thích hay áp dụng Công ước giữa các quốc gia, của Công ước chống tra tấn. Cụ thể, Điều 20 quy định nếu Ủy ban chống tra tấn (được thành lập theo quy định của Công ước) nhận được thông tin đáng tin cậy chứa đựng những dấu hiệu có cơ sở là việc tra tấn đang được tiến hành một cách có hệ thống trên lãnh thổ của một quốc gia thành viên, Ủy ban sẽ mời quốc gia thành viên đó hợp tác trong việc kiểm tra thông tin và vì mục đích này, đưa ra ý kiến về những thông tin liên quan đó. Khoản 1 Điều 30 Công ước chống tra tấn, quy định: “Mọi tranh chấp giữa hai hay nhiều Quốc gia thành viên liên quan đến việc giải thích hay áp dụng Công ước này mà không thể giải quyết bằng thương lượng sẽ được đưa ra trọng tài theo yêu cầu của một trong số các Quốc gia thành viên đó. Nếu trong vòng 6 tháng kể từ ngày yêu cầu đưa ra trọng tài mà các bên vẫn không thể thoả thuận được về tổ chức trọng tài, thì bất kỳ bên nào cũng có thể đề nghị đưa tranh chấp ra Toà án Công lý quốc tế, phù hợp với quy chế của Toà.”
Đặc biệt, Nghị quyết cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC) trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình tổ chức thực hiện Công ước chống tra tấn.Trong lĩnh vực tố tụng hình sự, vấn đề bảo vệ quyền con người, quyền công dân được quan tâm đặc biệt. Cùng với những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ quyền con người, quyền công dân cần nghiên cứu một cách thấu đáo và nghiêm túc các quy định của Công ước chống tra tấn để nội luật hóa vào pháp luật tố tụng hình sự ở Việt Nam.
Hiến pháp năm 2013 đã có một số quy định phù hợp với Công ước chống tra tấn, như: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật” (khoản 1 Điều 31); “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa.” (khoản 4 Điều 31); Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án trái pháp luật có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự. Người vi phạm pháp luật trong việc bắt, giam, giữ, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý theo pháp luật (khoản 5 Điều 31); “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.” (khoản 7 Điều 103);…
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016 (viết tắt BLTTHS). Mà theo đó, rất nhiều những nội dung quy định có tính nguyên tắc được đưa vào Bộ luật này là sự cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, như:
Thứ nhất, cụ thể hóa quy định tại khoản 1[3] Điều 20 Hiến pháp năm 2013 vào Điều 8 BLTTHS thành Quy định về tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân: Khi tiến hành tố tụng, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân; thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của những biện pháp đã áp dụng, kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp đó nếu xét thấy có vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết.
Thứ hai, quy định về bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, việc bắt, tạm giữ, tạm giam người phải theo quy định của Bộ luật này. Nghiêm cấm tra tấn, bức cung, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, tính mạng, sức khỏe của con người. (Điều 10). Ngoài ra, khoản 6 Điều 183 BLTTHS quy định: “Việc hỏi cung bị can tại cơ sở giam giữ hoặc tại trụ sở cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc hỏi cung bị can tại các địa điểm khác được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh theo yêu cầu của bị can, của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”. Với quy định này, đối với hoạt động hỏi cung được đánh giá là cần thiết nhằm bảo đảm minh bạch quá trình hỏi cung, bảo vệ bị can, chống tra tấn, bức cung, dùng nhục hình, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp, đồng thời bảo vệ người hỏi cung tránh bị vu cáo. Tại khoản 1[4] Điều 2 Nghị quyết số 110/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về việc thi hành BLTTHS, giao Chính phủ bảo đảm kinh phí thực hiện quy định về chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình khi hỏi cung bị can;  Bộ trưởng Bộ Công an quy định cụ thể nơi có điều kiện để thực hiện việc ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung kể từ ngày 01/01/2017. Chậm nhất đến 01/01/2019 thực hiện thống nhất việc ghi âm, ghi hình hoạt động hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc.
Thứ ba, cụ thể hóa khoản 5 Điều 31 Hiến pháp 2013 thành quy định tại Điều 11 BLTTHS về bảo hộ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân. Mà theo đó, Mọi người có quyền được pháp luật bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản. Mọi hành vi xâm phạm trái pháp luật tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản của cá nhân bị xử lý theo pháp luật. Ngoài ra, Luật Tạm giữ, tạm giam năm 2015 được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, mà theo đó, tại khoản 3 Điều 4 của Luật này ghi nhận nguyên tắc quản lý, thi hành tạm giữ, tạm giam: Bảo đảm nhân đạo; không tra tấn, truy bức, dùng nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam”; khoản 1 Điều 8 quy định hành vi bị nghiêm cấm:“Tra tấn, truy bức, dùng nhục hình; các hình thức đối xử, trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo, hạ nhục con người hoặc bất kỳ hình thức nào khác xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tạm giam.”. Một trong những quyền của người bị tạm giữ, tạm giam được pháp luật bảo đảm theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 9:“Được bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nếu bị giam, giữ trái pháp luật;” Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự năm 2015, được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2016, mà theo đó, tội “Dùng nhục hình” có quy định tại Điều 373. Nếu so sánh tội danh này với quy định tại Điều 298 BLHS năm 1999, rõ ràng nhà làm luật đã có sự “nội luật hóa” Công ước chống tra tấn của Liên Hợp Quốc theo tinh thần Nghị quyết 83/2014/QH13. Theo Điều 1 Công ước chống tra tấn, tra tấn được hiểu là: bất kỳ hành vi cố ý gây ra sự đau đớn hoặc chịu đựng đối với một người về thể xác lẫn tinh thần, nhằm mục đích lấy những thông tin, sự thú tội từ người đó hay một người thứ ba; trừng phạt người đó về một việc mà người đó hay người thứ ba đã thực hiện hoặc nghi ngờ đã thực hiện; đe doạ hoặc ép buộc người đó hay người thứ ba; hoặc vì các mục đích khác dựa trên sự phân biệt đối xử dưới mọi hình thức, khi mà sự đau đớn hoặc chịu đựng đó được gây ra bởi hoặc với sự xúi giục của hoặc với sự đồng ý hoặc sự ưng thuận của một nhân viên chính quyền.
Khái niệm tại Công ước cho thấy “tra tấn” gồm ba yếu tố cơ bản: hành vi, chủ thể thực hiện và mục đích. Trong đó, i) Về hành vi, tra tấn gồm: mọi hành vi cố ý gây đau đớn về thể xác hay tinh thầncho một người nhằm mục đích lấy thông tin hoặc lời thú tội từ người đó hay một người thứ ba; hành vi trừng phạt người đó vì một hành vi mà người đó hay người thứ ba đã thực hiện hay bị nghi ngờ đã thực hiện; hành vi đe doạ hay ép buộc người đó hay người thứ ba, hoặc bất kỳ hành vi đối xử có tính chất phân biệt đối xử. ii) Về chủ thể thực hiện bao gồm: một công chức thực hiện hoặc do người khácthực hiện bởi sự xúi giục, đồng tình của một công chức. iii) Về mục đích: nhằm lấy thông tin hoặc lời thú tộitừ người đó hay một người thứ ba hoặc trừng phạt họ. Đáng chú ý là BLHS 2015 đã sửa đổi tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, tội dùng nhục hình, tội bức cung theo hướng tăng nặng nhằm đảm bảo yêu cầu của Công ước chống tra tấn, cụ thể:
+ BLHS 2015 bổ sung tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục phẩm giá nạn nhân” vào tội bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật (điểm b khoản 3 Điều 157, mức hình phạt từ năm năm tù đến 12 năm tù).
+ BLHS 2015 bổ sung hành vi khách quan “dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm của người khác dưới bất kỳ hình thức nào” vào tội dùng nhục hình (Điều 373). Điều luật cũng quy định nếu người phạm tội làm nạn nhân tự sát thì bị phạt tù từ bảy năm đến 12 năm (khoản 3); làm người bị nhục hình chết thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân (khoản 4).
+ BLHS 2015 bổ sung tình tiết tăng nặng định khung vào tội bức cung (Điều 374). Trường hợp “dùng nhục hình hoặc đối xử tàn bạo, hạ nhục nhân phẩm người bị lấy lời khai, hỏi cung” sẽ bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm (khoản 2); phạm tội thuộc một trong các trường hợp: Làm người bị bức cung chết; dẫn đến làm oan người vô tội; dẫn đến bỏ lọt tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân (khoản 4).
Với các quy định như trên, tác giả cho rằng, vừa chặt chẽ về từ ngữ và cú pháp vừa mang tính bao quát chung, đồng thời thể hiện tinh thần trách nhiệm của Việt Nam là quốc gia thành viên đã ký kết tham gia Công ước.
Thứ tư, ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội theo đúng tinh thần quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 vào Điều 13 BLTTHS phù hợp với nội dung quy định của Công ước chống tra tấn và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 của Liên hợp quốc. Mà theo đó: Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội. Tại điểm d khoản 1 Điều 58; điểm c khoản 2 Điều 59; điểm d khoản 2 Điều  60 và điểm h khoản 2 Điều 61 BLTTHS quy định người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt theo quyết định truy nã; người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có quyền: Trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Có thể nói, quy định về quyền im lặng này được giới luật học và nhân dân đánh giá cao vì nó góp phần chống bức cung, nhục hình, bảo vệ quyền con người và phù hợp với nền tố tụng tiến bộ của nhiều nước trên thế giới. Những quy định này cũng trùng khớp với quy định tại điểm g[5] khoản 3 Điều 14 của Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị được Đại hội đồng Liên Hợp Quốc thông qua theo Nghị quyết số 2200 A (XXI) ngày 16/12/1966; có hiệu lực ngày 23/3/1976 mà Việt Nam đã gia nhập ngày 24/9/1982.
Thứ năm, cụ thể hóa quy định tại khoản 4 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 vào Điều 16 BLTTHS, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự: Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa. Cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm cho người bị buộc tội, bị hại, đương sự thực hiện đầy đủ quyền bào chữa, quyền và lợi ích hợp pháp của họ theo quy định của Bộ luật này. Thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cho thấy, tuy khoản 1 Điều 58 BLTTHS năm 2003 quy định: “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ…”, nhưng việc tham gia vào các giai đoạn tố tụng hình sự ban đầu của người bào chữa là rất khó khăn và ít thực hiện được. Người bào chữa chủ yếu chỉ được tham gia bào chữa khi Cơ quan điều tra đã hoàn tất các hoạt động điều tra và chuyển sang giai đoạn truy tố. Do đó, trong khoảng thời gian từ khi bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam đến khi truy tố có nhiều khả năng, cũng như nguy cơ xảy ra các hành vi tra tấn, bức cung, dùng nhục hình sẽ được thực hiện. Vì vậy, để hạn chế việc thực hiện các hành vi nêu trên thì người bào chữa cần phải có mặt, tham gia ngay từ giai đoạn tố tụng ban đầu, cụ thể trong giai đoạn khởi tố vụ án thì người bào chữa tham gia từ khi một người bị bắt (trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang), bị tạm giữ, tạm giam. Đồng thời, phải quy định quyền của người bào chữa là có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên hoặc Kiểm sát viên đồng ý thì được hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi có được, Việt Nam cũng vấp phải không ít khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện Công ước chống tra tấn trên thực tế. Qua nghiên cứu tác giả tìm thấy một số sau:
+Về cơ sở pháp lý, Việt Nam đã xây dựng hệ thống pháp luật tương đối có hệ thống về bảo vệ quyền con người, quyền tự do của công dân, trong đó có nhiều quy định về phòng ngừa, ngăn chặn và xử lý các hành vi tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người. Tuy vậy, pháp luật Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện, tính đồng bộ trong hệ thống pháp luật chưa cao và đặc biệt là chưa có các quy định riêng biệt, cụ thể về tội danh tra tấn, về thủ tục điều tra, truy tố đối với tội phạm này trong khi đây là những quy định quan trọng được ghi nhận trong Công ước chống tra tấn.
+Về điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến trình độ kinh tế, xã hội của Việt Nam còn chưa cao cũng là một khó khăn không nhỏ trong quá trình triển khai thực hiện Công ước.
+Về nguồn nhân lực, hiện Việt Nam còn thiếu một đội ngũ chuyên gia về pháp luật quốc tế, có trình độ ngoại ngữ tốt để tác nghiệp và trực tiếp thực hiện các công việc liên quan đến hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp hình sự…, đặc biệt là để thực thi Công ước chống tra tấn. Một tin vui gần đây được lan truyền qua các trang thông tin chính thống, đó là, Việt Nam lần đầu tiên có ứng cử viên chạy đua vào một trong bảy vị trí thành viên của Ủy ban Luật pháp quốc tế được phân bổ cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chiến dịch vận động cho Phó Giáo sư, Tiến sỹ, Đại sứ Nguyễn Hồng Thao ứng cử vào Ủy ban Luật pháp quốc tế vừa chính thức được khởi động sau khi Phái đoàn Việt Nam tại Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới và các tổ chức quốc tế khác tại Geneva (Thụy Sỹ) gửi công hàm giới thiệu ông tới phái đoàn các nước. Đây là một diễn đàn pháp lý quốc tế rất có uy tín, cơ quan chuyên soạn thảo những công ước quốc tế quan trọng, trong đó có các Công ước Luật biển năm 1958. Bên cạnh đó, Ủy ban Luật pháp quốc tế còn tiến hành nghiên cứu về những vấn đề lớn của luật pháp quốc tế – luật về quan hệ giữa các quốc gia.
Kiến nghị
Mặc dù hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam đã có những quy định tương đối phù hợp với những nguyên tắc và tiêu chuẩn cơ bản của Công ước chống tra tấn, nhưng vẫn cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung để ngày càng phù hợp hơn với những yêu cầu của Công ước. Do vậy, tác giả đề xuất mấy kiến nghị sau:
Một là, Hiến pháp năm 2013 đã có quy định cụ thể về cấm tra tấn, Bộ luật Hình sự  2015 cũng chưa hình sự hóa hết các hành vi theo khái niệm tra tấn của Công ước mà chỉ dừng lại ở vấn đề liên quan như nhục hình, bức cung, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của công dân. Hơn thế, khách thể của tội dùng nhục hình và tội bức cung chỉ trong phạm vi điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, chưa bao trùm một số hoạt động như: xác minh, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, tạm giữ, tạm giam, lấy lời khai của người làm chứng, bị hại... Đây là những giai đoạn có thể xảy ra các hành vi tra tấn. Đồng thời, tội bức cung chưa đủ phản ánh đầy đủ mặt khách quan của hành vi nguy hiểm: bắt, ép người bị tạm giữ, người làm chứng, bị hại khai sai sự thật - cấu thành vật chất.
Hai là, nghiên cứu Luật Thi hành án hình sự năm 2010 cho thấy, chưa có quy định về nguyên tắc cấm hành vi tra tấn trong quá trình chấp hành án phạt tù; chưa có sự tách biệt giữa cơ quan điều tra với hệ thống các cơ quan quản lý trại tạm giữ, tạm giam. Do vậy, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thi hành án hình sự năm 2010 với Luật Tạm giữ, tạm giam năm 2015.
Ba là, về “quyền khả thi được bồi thường công bằng và thoả đáng” theo Điều 14[6] Công ước chống tra tấn đối với nạn nhân, thực tế chưa được quy định đầy đủ, cụ thể trong Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009. Do vậy, cần quy định theo hướng đơn giản hoá các thủ tục xác định thiệt hại và yêu cầu bồi thường của nhà nước, đồng thời quy định xem xét bồi thường những thiệt hại cả trực tiếp và gián tiếp, cả về vật chất và tinh thần, qua đó bảo đảm nạn nhân bị tra tấn, đối xử và trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo và hạ nhục có thể được bồi thường một cách nhanh chóng và thỏa đáng.
Bốn là, các BLHS, BLTTHS, Luật Tạm giữ, tạm giam được Quốc hội khóa XIII, thông qua theo tinh thần Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết 83/2014/QH!# là thành công lớn trong công tác lập pháp của Quốc hội, bước tiến dài trong hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, để việc “nội luật hóa” Công ước chống tra tấn tốt hơn, đầy đủ hơn, có thể học tập kinh nghiệm của một số nước đã có hẳn một đạo luật riêng về chống tra tấn và bảo vệ, hỗ trợ nạn nhân của tra tấn như Hoa kỳ, Nam phi, Philippin, Uganda… Ví dụ ở Philippin có Luật Chống tra tấn (Anti – Torture Act, 2009), ở Nam Phi có Luật Phòng ngừa và chống tra tấn (Prevention and Combating of Torture of Persions Act, 2013). Công ước chống tra tấn được Mỹ thông qua vào tháng 10/1994, đến ngày 20/11/1994 chính thức có hiệu lực. Theo đó, mọi hình thức tra tấn đều bị pháp luậtnước này cấm tuyệt đối trong phạm vi lãnh thổ nước Mỹ, từ cấp liên bang đến địa phương, bao gồm cả lực lượng quân đội, giới chấp pháp lẫn dân thường. Những nội hàm của công ước này cũng đã được bao gồm trong nhiều tu chính án trước đó trong Hiến pháp Mỹ, cụ thể là Bản tuyên ngôn Nhân quyền của Mỹ năm 1789. Điều này cũng gợi mở cho Việt Nam trong tương lai không xa có thể xây dựng một đạo luật riêng về chống tra tấn để phù hợp với Công ước chống tra tấn mà chúng ta đã tham gia ký kết, qua đó phát huy tối đa hiệu lực, hiệu quả việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự ở Việt Nam hiện nay.
Được biết, Việt Nam cũng đang thực hiện hợp tác quốc tế trong phòng, chống tra tấn như: Thực hiện các thủ tục đối ngoại liên quan đến việc thực hiện các nghĩa vụ của Việt Nam theo quy định của Công ước; nghiên cứu thiết lập đầu mối phối hợp, mở rộng hợp tác quan hệ với các nước thành viên công ước để trao đổi thông tin, học tập kinh nghiệm về tổ chức, biện pháp, phương tiện và sử dụng trang thiết bị có hiệu quả về phòng, chống tra tấn; tham dự hội thảo, hội nghị, diễn đàn, hội thảo khu vực và quốc tế nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm với các quốc gia thành viên của Công ước chống tra tấn.
Th.S Lê Văn Sua - Tòa án quân sự khu vực 1 - QK9
 
[1] Công ước chống tra tấn được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 10/12/1984 và có hiệu lực từ ngày 26/6/1987.  Công ước quy định các quốc gia thành viên thực hiện các biện pháp cụ thể về lập pháp, hành pháp, tư pháp hoặc các biện pháp hiệu quả khác nhằm ngăn chặn mọi hành vi tra tấn, thông qua các biện pháp phổ biến thông tin, đào tạo các lực lượng thực thi pháp luật, thường xuyên rà soát các quy định về thẩm vấn và giam giữ.  Các quốc gia tham gia Công ước cũng có nghĩa vụ trừng trị những hành vi tra tấn bằng các hình phạt thích đáng, đồng thời có các biện pháp hỗ trợ nạn nhân. Công ước cũng khuyến khích các quốc gia thành viên hỗ trợ lẫn nhau về thủ tục tố tụng hình sự đối với những hành vi phạm tội nói trên, kể cả việc cung cấp các bằng chứng cần thiết nếu có. Kể từ khi bắt đầu có hiệu lực, đến nay đã có 154 quốc gia phê chuẩn Công ước chống tra tấn.
[2]Nếu một Quốc gia thành viên chỉ cho phép dẫn độ khi có điều ước quốc tế về dẫn độ mà nhận được yêu cầu dẫn độ của một Quốc gia thành viên khác không có điều ước quốc tế về dẫn độ với mình thì quốc gia đó có thể coi Công ước này là cơ sở pháp lý cho việc dẫn độ đối với những hành vi phạm tội này. Việc dẫn độ sẽ phải tuân thủ những điều kiện khác do pháp luật của quốc gia được yêu cầu dẫn độ quy định.”
[3]Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.”
[4] Điều 2
 Giao Chính phủ đầu tư kinh phí để bảo đảm việc thực hiện các quy định về chỉ định người bào chữa, ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can, sao chép, số hóa tài liệu trong hồ sơ vụ án hình sự, giám định tư pháp và hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
Giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn trình tự, thủ tục thực hiện ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can; sử dụng, bảo quản, lưu trữ kết quả ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử.
Giao Bộ trưởng Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ trưởng Bộ Tài chính và Bộ trưởng Bộ Nội vụ xây dựng đề án về cơ sở vật chất, bộ máy, cán bộ và lộ trình cụ thể thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.
Giao Bộ trưởng Bộ Công an quyết định cụ thể nơi có điều kiện để thực hiện việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh hoạt động hỏi cung bị can kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016. Chậm nhất đến ngày 01 tháng 01 năm 2019 thì thực hiện thống nhất việc ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh việc hỏi cung bị can trên phạm vi toàn quốc.
[5]Không bị ép buộc phải chứng minh chống lại chính mình hoặc buộc tự thú là mình có tội.”
[6] Điều 14.
1.   Mỗi Quốc gia thành viên phải bảo đảm trong hệ thống pháp luật của mình rằng các nạn nhân của hành động tra tấn sẽ được cứu chữa và có quyền khả thi được bồi thường công bằng và thoả đáng, kể cả được cung cấp những điều kiện để phục hồi một cách đầy đủ đến mức có thể. Trường hợp nạn nhân chết do bị tra tấn, những người phụ thuộc vào người đó có quyền hưởng bồi thường.
2.   Không một quy định nào trong điều này ảnh hưởng tới bất kỳ quyền được bồi thường nào của nạn nhân hay của người khác có thể có theo pháp luật quốc gia.