Bán hàng đa cấp (BHĐC) ra đời ở Mỹ từ những năm 40 của thế kỷ XX. Trải qua các giai đoạn phát triển khác nhau, đến nay bán hàng đa cấp đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới và được ghi nhận là một phương thức phân phối khá tiên tiến và tiêu thụ hàng hóa hiệu quả. Hiệu quả của mô hình bán hàng đa cấp chính là sản phẩm hàng hóa, dịch vụ được đến trực tiếp với người tiêu dùng, do cắt bỏ những chi phí trung gian.
Tại Việt Nam, mô hình kinh doanh đa cấp cũng phát triển và gặt hái nhiều thành công từ những năm 90 của thế kỷ trước, với sản phẩm dịch vụ chính là bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ. Sau những năm 2000, các sản phẩm được phân phối dưới dạng BHĐC đa dạng và phong phú hơn rất nhiều. Với dân số trên 90 triệu người, Việt Nam được xem là thị trường đầy hấp dẫn cho mô hình BHĐC. Các doanh nghiệp chủ yếu hoạt động ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cần Thơ. Theo thông tin từ Cục Quản lý Cạnh tranh, Bộ Công Thương, tính đến thời điểm ngày 9/12/2015, Cục này đã cấp 62 giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp. Trong đó có nhiều công ty được báo giới cũng như người dân biết đến nhiều như: Công ty TNHH Thiên Ngọc Minh Uy, Công ty TNHH Amway Việt Nam, Công ty TNHH Aim Star Network Việt Nam, Công ty TNHH Mỹ phẩm Thường Xuân; Công ty TNHH Tam Sinh Yotofo Việt Nam, Công ty Cổ phần Liên kết Sản xuất – Thương mại Việt Nam (Công ty Liên Kết Việt), Công ty TNHH Unicity Việt Nam, Công ty Cổ phần Tập đoàn liên kết Việt Nam, Công ty Cổ phần Đầu tư sản xuất và thương mại MLM Việt Nam, Công ty Cổ phần Liên kết Tri Thức, Công ty Cổ phần Liên Minh Tiêu Dùng Việt Nam, Công ty TNHH Network Hoàng Kim, Công ty TNHH Phong cách sống Kim Cương Việt Nam, Công ty TNHH Homeway Việt Nam, Công ty Cổ phần Japan Life Việt Nam, Công ty TNHH Ogano Gold Việt Nam, Công ty Cổ phần Queenet Quốc Tế,… Số lượng người tham gia vào hoạt động BHĐC khoảng gần 1,4 triệu người, về mặt xã hội, BHĐC đã tạo thêm hàng triệu công ăn, việc làm cho người dân, đóng góp hàng nghìn tỉ đồng cho ngân sách nhà nước mỗi năm. Tuy nhiên, không ít người tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp lại thiếu kiến thức chuyên môn về sản phẩm, chạy theo lợi nhuận, theo doanh số, thổi phồng công dụng của sản phẩm, đó là chưa kể đến việc bán hàng hóa kém chất lượng ảnh hưởng xấu đến mô hình BHĐC, quyền lợi của người tiêu dùng bị lợi dụng, xâm phạm. Rất nhiều sản phẩm thực phẩm chức năng không rõ nguồn gốc xuất xứ, hiệu quả bị thổi phồng đã được tung ra thị trường bằng hình thức BHĐC với chiết khấu rất cao 30 – 50% cho người bán hàng. Với siêu lợi nhuận, rất nhiều người đã bất chấp tất cả để dụ dỗ, lôi kéo thúc ép người thân, bạn bè, họ hàng tham gia mạng lưới BHĐC. Đặc biệt, đã có rất nhiều công ty BHĐC vi phạm các quy định của pháp luật, tiến hành các hoạt động kinh doanh có dấu hiệu lừa đảo những người tham gia. Gần đây nhất, ngày 19/02/2016, Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, khởi tố 7 bị can là lãnh đạo và tổng đại lý của Công ty Liên Kết Việt.
Lần đầu tiên thuật ngữ “bán hàng đa cấp” được ghi nhận trong hệ thống pháp luật Việt Nam tại khoản 11
[1] Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004, bên cạnh Luật Cạnh tranh 2004, BHĐC được điều chỉnh bởi Nghị định số 110/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp (viết tắt Nghị định 110/2005/NĐ-CP), Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh, Thông tư số 19/2005/TT-BTM ngày 08/11/2005 của Bộ Thương mại hướng dẫn một số nội dung quy định tại Nghị định số 110/2005/NĐ-CP và Thông tư số 35/2011/TT-BCT ngày 23/9/2011 của Bộ Công thương sửa đổi, bổ sung Thông tư số 19/2005/TT-BTM. Mặc dù là văn bản quy phạm pháp luật đầu tiên và cao nhất điều chỉnh đối với hoạt động BHĐC nhưng Luật Cạnh tranh năm 2004 chỉ đưa ra khái niệm về BHĐC và quy định cấm một số hành vi BHĐC bất chính bị cấm mà chưa đưa ra cơ chế quản lý đối với hoạt động này. Nghị định 110/2005/NĐ-CP chính thức thiết lập một cơ chế quản lý đối với hoạt động BHĐC từ trung ương đến địa phương với sự tham gia của Bộ Công Thương (thông qua Cục Quản lý cạnh tranh) và Ủy ban nhân dân các tỉnh (thông qua các Sở Công Thương). Theo Nghị định 110/2005/NĐ-CP, các doanh nghiệp muốn tổ chức BHĐC thì phải đăng ký với Sở Công Thương và sau đó mở rộng hoạt động ra địa bàn nào thì thông báo với Sở Công Thương tỉnh đó. Một trong những điều kiện quan trọng để doanh nghiệp được đăng ký hoạt động BHĐC đó là phải ký quỹ tối thiểu 5% vốn điều lệ nhưng không thấp hơn một tỷ đồng. Để đảm bảo hiệu quả của cơ chế quản lý tại Nghị định 110/2005/NĐ-CP, Nghị định 120/2005/NĐ-CP quy định chế tài xử lý đối với hành vi BHĐC bất chính với mức tiền phạt cao nhất là 100 triệu đồng.
Sau gần 10 năm thực hiện, các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý BHĐC đã bộc lộ một số bất cập, hoạt động BHĐC xuất hiện nhiều biến tướng theo chiều hướng tiêu cực, nhiều chủ thể lợi dụng các khe hở của pháp luật để thực hiện các hành vi bất chính khiến cho hoạt động BHĐC ngày càng trở nên xấu đi trong mắt cộng đồng xã hội và gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động này. Từ thực tiễn đó, Nghị định số 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động BHĐC, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014 (viết tắt Nghị định 42/2014/NĐ-CP). Nghị định này thay thế cho Nghị định 110/2005/NĐ-CP. Mà theo đó, nhiều nội dung được quy định trong Nghị định 42/2014/NĐ-CP theo hướng thắt chặt quản lý đối với hoạt động BHĐC. Song song đó, Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ, quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh (viết tắt Nghị định 71/2014/NĐ-CP) thay thế Nghị định số 120/2005/NĐ-CP, mà theo đó, cũng nâng cao mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động BHĐC lên đến 200 triệu đồng và bổ sung quy định xử lý đối với nhiều hành vi mới được quy định tại Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185 /2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/01/2016 (viết tắt Nghị định 124/2015/NĐ-CP). Tuy nhiên từ thực tiễn cho thấy mức xử phạt vi phạm của nhiều hành vi vi phạm xoay quanh hoạt động BHĐC của doanh nghiệp và người tham gia BHĐC mà theo quy định của pháp luật còn quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe, cho nên các đối tượng sẵn sàng vì lợi nhuận mà chịu phạt để được tồn tại hoặc thiếu những nội dung quy định cụ thể trong hoạt động kiểm tra, giám sát hoạt động BHĐC của cơ quan quản lý nhà nước theo thẩm quyền khi tiến hành hoạt động này, nên nhiều bất cập phát sinh cần được khắc phục. Cụ thể:
Thứ nhất, liên quan đến hành vi vi phạm quy định về BHĐC, tại Điều 36
[2] Nghị định 71/2014/NĐ-CP chỉ quy định xử phạt đối với doanh nghiệp BHĐC, không quy định việc xử phạt đối với người tham gia BHĐC. Theo khoản 1 Điều 5 Nghị định này:
“Mức tiền phạt tối đa đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh khác là 100.000.000 đồng đối với cá nhân và 200.000.000 đồng đối với tổ chức.”.Thực tiễn cho thấy, quy định xử phạt như trên là quá nhẹ, chưa đủ sức răn đe phòng ngừa vi phạm. Ví dụ, qua kiểm tra phát hiện doanh nghiệp BHĐC A có những hành vi vi phạm, như:
1.Hoạt động bán hàng đa cấp mà không đảm bảo các điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
2. Không thực hiện thủ tục đề nghị thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi;
3. Ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán hàng đa cấp;
4. Thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến hoạt động đào tạo người tham gia bán hàng đa cấp;
5. Hoạt động bán hàng đa cấp ở tỉnh nơi doanh nghiệp không có trụ sở chính khi chưa có xác nhận của Sở Công Thương tỉnh
7. Thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến Sở Công Thương nơi tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo;
8. Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải mua một số lượng hàng hóa để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
Như vậy, với 8 lỗi sai phạm trên của doanh nghiệp BHĐC A, nếu theo quy định của pháp luật hiện hành thì mức xử phạt tối đa đối với doanh nghiệp BHĐC A cũng không quá 200.000.000 đồng, nên họ sẵn sàng nộp phạt để tiếp tục vi phạm, vì sự vi phạm đó hoàn toàn có lợi đối với họ!
Mặt khác, BHĐC là một phương thức kinh doanh phức tạp, dễ phát sinh những biến tướng, vi phạm, gây mất ổn định môi trường kinh doanh và thiệt hại cho người tiêu dùng. Thực tế vẫn còn một bộ phận các doanh nghiệp BHĐC lợi dụng kẽ hở của pháp luật trong việc kiểm soát chưa đồng bộ, triệt để của cơ quan chức năng, đã có những hoạt động kinh doanh trái pháp luật, như kinh doanh thương mại điện tử không đúng với bản chất công việc, huy động vốn người tham gia, đầu tư tài chính, đầu tư ảo, nhượng quyền thương mại online, kinh doanh hàng hóa trá hình…Chẳng hạn, Công ty Thế Giới Mới (hoạt động BHĐC) đã tung ra một chiêu thức rất mới, đó là, các nhà phân phối của công ty sẽ được
đồng hưởng 2% doanh số bán hàng theo đơn vị phần vốn trên toàn quốc đến khi nào thu hồi đủ vốn tích lũy thì thôi. Để trở thành một nhà phân phối hay nhà đầu tư tại Công ty Thế Giới Mới, ngoài các điều kiện như đủ 18 tuổi, có người giới thiệu… thì người tham gia phải lựa chọn các gói như: Gói khởi động là 5 triệu, gói chuyên nghiệp là 9,6 triệu, gói bạc 192 triệu, gói vàng 480 triệu, gói Kim cương 960 triệu. Trong trường hợp này người tham gia đã đăng ký gói 9,6 triệu đồng để mua hàng. Điều đáng nói ở đây là trong phiếu đặt hàng theo hướng dẫn của Công ty không ghi rõ cụ thể là loại hàng hóa gì, mà chỉ ghi chung chung là “thực phẩm chức năng”, nên người tham gia không biết rõ loại thực phẩm chức năng mà mình đã đăng ký là loại gì về thương hiệu, thành phần, nguồn gốc xuất xứ, nhà sản xuất,…. Do vậy, rất có thể là một hình thức đầu tư tài chính trái phép. Khác với các hình thức BHĐC thực phẩm chức năng mà nhiều người được biết từ trước đến nay đó là chia % hoa hồng rất lớn có thể là 30 – 50% cho các nhà phân phối, nhưng với hình thức các nhà phân phối của Công ty Thế Giới Mới sẽ được
đồng hưởng 2% doanh số bán hàng theo đơn vị phần vốn trên toàn quốc đến khi nào thu hồi đủ vốn tích lũy thì thôi. Theo quan điểm của tác giả, cách làm của Công ty Thế Giới Mới đã “lách” hoàn toàn các điều cấm tại Điều 5 Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Thực tế, Công ty này không ép người, không dụ dỗ, không lôi kéo người muốn tham gia BHĐC, mà họ hoàn toàn tự nguyện tham gia để được chia lợi nhuận “
đồng hưởng 2% doanh số bán hàng trên toàn quốc”. Người bán hàng tức là nhà phân phối cũng không phải dụ dỗ người khác tham gia để được hưởng hoa hồng mà chính người mua hay còn gọi là nhà đầu tư muốn tham gia để được cùng hưởng 2% lợi nhuận nói trên.
Tuy nhiên, sự tinh vi ở đây chính là chính sách phân chia lợi nhuận mà Công ty Thế Giới Mới cho các nhà phân phối được hưởng. Các nhà phân phối, hay nhà đầu tư cứ nghĩ rằng
đồng hưởng 2% doanh thu trên toàn quốc là lớn. Nhưng thực chất, Công ty có bán được bao nhiêu sản phẩm đi nữa thì các nhà phân phối cũng chỉ được hưởng không quá 2% giá trị của chính số tiền mà họ đã bỏ ra. Giả sử số tiền họ bỏ ra mua một phần vốn tương đương 9,6 triệu đồng, dù Công ty Thế Giới Mới có bán được sản phẩm hàng nghìn tỷ đồng thì nhà phân phối cũng chỉ được trả 2% của 9,6 triệu đồng mà thôi. Còn phần của Công ty đương nhiên được hưởng đến 98% doanh thu. Đây là bất cập rõ nét nhất cần được cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.
Thứ hai, trách nhiệm kiểm tra, giám sát các cơ quan quản lý nhà nước về BHĐC được quy định tại Chương 6 Nghị định 42/2014/NĐ-CP, cụ thể:
- Cơ quan Quản lý cạnh tranh thuộc Bộ Công Thương có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Công Thương thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp trong phạm vi cả nước trong các nội dung:
…
+Hướng dẫn, phối hợp với các Sở Công Thương và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác tiến hành kiểm tra, giám sát hoạt động bán hàng đa cấp;
+Trực tiếp kiểm tra, giám sát hoạt động bán hàng đa cấp khi cần thiết; xử lý theo thẩm quyền hoặc thông báo, chuyển cơ quan có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm quy định của pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp;
-Sở Công Thương có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện quản lý nhà nước đối với hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương trong các nội dung:
+Thanh tra, kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền hoạt động bán hàng đa cấp tại địa phương;
+Xử lý theo thẩm quyền hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
Từ những quy định này, yêu cầu đặt ra là vai trò quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước phải được tăng cường, để ngăn chặn các hành vi phi pháp, giảm thiểu tối đa rủi ro, thiệt hại cho người dân. Thực tế đã có nhiều bài học kinh nghiệm, nhưng có lẽ các cơ quan quản lý vẫn chưa thật sự chú ý đến lĩnh vực này, cũng có thể do khả năng về quản lý thị trường của một số cơ quan còn hạn chế, vì thế vẫn cứ xảy ra việc lợi dụng mô hình kinh doanh đa cấp để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của người dân. Trong những vụ việc gây “chấn động” dư luận về BHĐC, vừa xảy ra tại Công ty Liên kết Việt, người chịu thiệt trước tiên thuộc về người dân, người tham gia BHĐC trực tiếp, nhưng trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, theo quan điểm của tác giả cũng cần phải làm rõ để bổ sung quy định vào pháp luật trong thời gian tới.
Bên cạnh đó, công tác phối hợp với cơ quan chuyên môn tổ chức các chương trình tập huấn về công tác quản lý bán hàng đa cấp cho các cơ quan quản lý địa phương chưa được Cục Quản lý cạnh tranh quan tâm thường xuyên. Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin, liên lạc giữa các cơ quan chức năng để tăng cường tham vấn, trao đổi kinh nghiệm và hướng dẫn kịp thời các vấn đề thực tiễn trong công tác quản lý BHĐC còn nhiều hạn chế. Nếu thực thi đúng luật, các doanh nghiệp BHĐC nói riêng và hoạt động BHĐC tại Việt Nam nói chung sẽ ngày càng phát triển, người tiêu dùng có cơ hội sử dụng sản phẩm, dịch vụ tốt, nhưng phải thừa nhận rằng hoạt động kinh doanh hàng đa cấp còn nhiều phức tạp, gây nhiều tranh cãi trong xã hội. Chính vì vậy, người tiêu dùng cần có thông tin, hiểu bản chất vấn đề thì mới tránh được những hành vi lừa đảo, Nghị định 42/2014/NĐ-CP với nhiều quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giám sát của cơ quan nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp BHĐC, trong đó có quy định
“cấm kinh doanh theo mô hình kim tự tháp”. Đây được xem là hình thức hoạt động BHĐC bất chính phổ biến hiện nay. Theo Hiệp hội BHĐC Việt Nam, để phân biệt mô hình BHĐC chân chính và mô hình kim tự tháp, thông qua sẽ có 7 câu hỏi sau:
1.Chi phí tham gia có cao một cách bất hợp lý?
2.Có phải người tham gia được nhận thưởng chủ yếu nhờ vào việc tuyển dụng những người khác cùng tham gia?
3.Liệu việc nhận thưởng chủ yếu dựa trên doanh số bán hàng và dịch vụ?
4.Sản phẩm và dịch vụ có hợp pháp không?
5.Người tham gia có phải mua sản phẩm nhiều hơn khả năng bán hoặc sử dụng của mình?
6.Mô hình có cho phép trả hàng tồn kho?
7.Có hợp đồng bằng văn bản cung cấp các điều khoản quan trọng và thời gian hủy hợp đồng cụ thể?
Do vậy, đề nghị cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong lĩnh vực BHĐC, cần tăng cường:
+ Phổ biến tuyên truyền pháp luật đến người dân và các cơ sở kinh doanh, buôn bán trên địa bàn.
+Nâng cao năng lực kiểm tra kiểm soát thị trường trong lĩnh vực hoạt động BHĐC.
+ Công tác kiểm tra, giám sát nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh, đảm bảo quyền lời người tiêu dung.
+ Sự phối hợp với các lực lượng chức năng ở các địa phương để gia tăng hoạt động giám sát, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về BHĐC.
Thứ ba, theo khoản 3 Điều 3 Nghị định số 42/2014/NĐ-CP:
“Người tham gia bán hàng đa cấp là người giao kết hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với doanh nghiệp bán hàng đa cấp.”. Điều 19 của Nghị định quy định người tham gia bán hàng đa cấp là cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Những trường hợp sau không được tham gia bán hàng đa cấp:
“1. Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc có tiền án về các tội sản xuất, buôn bán hàng giả, quảng cáo gian dối, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng, các tội về lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ trái phép tài sản.
2. Người nước ngoài không có Giấy phép lao động tại Việt Nam do cơ quan có thẩm quyền cấp.”
Ngoài ra, người tham gia BHĐC nếu có một trong những hành vi được liệt kê tại Điều 92
[3] Nghị định 124/2015/NĐ-CP thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định này. Tuy nhiên, từ thực tiễn cho thấy việc lập các thủ tục để tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đối với người tham gia BHĐC theo quy định tại các khoản 1, khoản 2, khoản 3 Điều 92 Nghị định 124/2015/NĐ-CP là điều rất khó khăn và không đơn giản khi thực hiện, bởi lực lượng thanh tra các chuyên ngành thuộc lĩnh vực: An toàn vệ sinh thực phẩm; Trồng trọt và Bảo vệ thực vật; Chăn nuôi và Thú y; Thủy sản; Quản lý chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản ;…theo biên chế số lượng hiện tại quá ít, Thanh tra viên thực thi công vụ nói chung, kiểm tra hoạt động BHĐC nói riêng không nhiều và không thường xuyên do địa bàn phụ trách quá rộng, số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh BHĐC trên địa bàn ngày càng lớn. Do vậy, dù thực tế hành vi vi phạm của người tham gia BHĐC xảy ra khá nhiều, với thời gian tương đối dài, nhưng việc phát hiện xử lý chưa kịp thời, chưa triệt để, như hành vi bán hàng đa cấp khi chưa được cấp thẻ thành viên; Thông tin không trung thực hoặc không chính xác về hàng hóa được chào bán; lôi kéo, dụ dỗ người khác tham gia vào mạng lưới BHĐC;…
Mặt khác, với sức mạnh lan truyền thông tin qua các trang mạng xã hội, các đoạn video ngắn mà nội dung giới thiệu hình ảnh, phương thức kinh doanh mang tính kích thích tâm lý “
làm giàu nhanh” của nhiều người, nên chỉ trong thời gian ngắn thu hút hàng vạn lượt người ấn nút “like” và nhiều người trong số đó đã rời bỏ công ty BHĐC mà mình đang tham gia để nhanh chống trở thành nhà đầu tư của thương nhân BHĐC – chủ nhân đoạn video trên. Vậy hành vi “chia sẻ” đoạn video đó trên facebook cá nhân của nhà phân phối có phải là hành vi “
lôi kéo, dụ dỗ” người khác… theo quy định bị xử phạt vi phạm hành chính tại điểm b khoản 5 Điều 92 Nghị định 124/2015/NĐ-CP không? Theo quan điểm của người viết, đây là hình thức “biến tướng” của hành vi lôi kéo người khác, là vi phạm điều cấm của pháp luật, nhưng để xử lý vi phạm hành vi này rất cần sự quy định cụ thể của pháp luật, như hiều thế thế nào là lôi kéo, dụ dỗ,…
Thứ tư, chỉ với quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm về BHĐC, mà thực tế hiện tại có đến hai Nghị định chứa đựng nội dung này đang được áp dụng, đó là, Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 của Chính phủ, quy định chi tiết Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định số 124/2015/NĐ-CP ngày 19/11/2015 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 185 /2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có nhu cầu tìm hiểu quy định pháp luật về lĩnh vực này, cũng như giúp cán bộ thực thi công vụ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi xử lý vụ việc cụ thể, qua đó tuyên truyền phổ biến quy định của pháp luật có liên quan khi người dân thắc mắc, thiết nghĩ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu ban hành văn bản hợp nhất chứa đựng toàn bộ các quy phạm pháp luật có liên quan đến BHĐC cũng như quy định xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi của tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm lĩnh vực này của hai Nghị định trên.
Tóm lại:
Hoạt động BHĐC tuy mới mẻ ở thị trường Việt Nam nhưng tại nhiều nước trong khu vực và trên thế giới nó đã có lịch sử khá lâu. Tuy vẫn còn những tranh cãi xung quanh mô hình này nhưng việc nó vẫn được duy trì, phát triển cũng minh chứng đây không phải hoạt động xấu. Nhưng tại Việt Nam để có thể thanh lọc thị trường, trả BHĐC về với bản chất vốn có cần phải có thời gian, sự đồng hành của các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và người tiêu dùng. Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Trưởng Ban Chỉ đạo phòng, chống tội phạm của Chính phủ, Trưởng Ban Chỉ đạo 389 quốc gia về chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả đã có chỉ đạo
“Bộ Công thương chủ trì, phối hợp các bộ, ngành liên quan và các địa phương kiểm tra, rà soát hoạt động của các tổ chức kinh doanh theo phương thức đa cấp; phát hiện, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm quy định của Nghị định số 42/2014/NĐ-CP. Bộ Công an chỉ đạo các lực lượng chức năng tổ chức nắm tình hình, điều tra cơ bản và đấu tranh với những đường dây, ổ nhóm lợi dụng hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp chiếm đoạt tài sản của người tham gia kinh doanh, xử lý nghiêm theo quy định pháp luật, góp phần răn đe, giáo dục phòng ngừa chung, bảo đảm an ninh, trật tự…”. Người dân thì cũng phải bình tĩnh hơn với những chiêu thức tinh vi, lách luật của một số người lợi dụng chính sách cởi mở của nhà nước về phát triển kinh doanh. Không bao giờ có chuyện không làm gì mà lại trở nên giàu có. Mỗi đồng tiền được tạo nên từ giá trị lao động, rất vất vả khó nhọc, nếu người dân cứ ảo tưởng không làm gì mà cũng giàu có thì rất dễ bị lừa, nhất là
nhưng hình thức đầu tư lợi nhuận cao đều phải thật cẩn trọng, kẻo mắc bẫy.
Th.S Lê Văn Sua
Tòa án quân sự khu vực 1 – QK9
[1] . Bán hàng đa cấp là phương thức tiếp thị để bán lẻ hàng hóa đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Việc tiếp thị để bán lẻ hàng hóa được thực hiện thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau;
b) Hàng hóa được người tham gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia;
c) Người tham gia bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng đa cấp cấp dưới trong mạng lưới do mình tổ chức và mạng lưới đó được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp thuận.
[2] Điều 36. Hành vi vi phạm quy định về bán hàng đa cấp
1. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Hoạt động bán hàng đa cấp mà không đảm bảo các điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
b) Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp bổ sung, thay đổi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi, bổ sung liên quan đến hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
c) Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bị mất hoặc bị rách, nát;
d) Cung cấp thông tin gian dối trong hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
đ) Không triển khai hoạt động bán hàng đa cấp trong thời hạn 12 tháng liên tục kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp quá 12 tháng liên tục;
e) Ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
g) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến hoạt động đào tạo người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
h) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến việc cấp, đổi, thu hồi thẻ thành viên bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
i) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ công bố công khai tại trụ sở và cung cấp cho người có dự định tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp các thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật;
k) Không thường xuyên giám sát hoạt động của người tham gia bán hàng đa cấp để bảo đảm người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện đúng Quy tắc hoạt động, Chương trình trả thưởng của doanh nghiệp;
l) Không khấu trừ tiền thuế thu nhập cá nhân của người tham gia bán hàng đa cấp để nộp vào ngân sách nhà nước trước khi chi trả hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác cho người tham gia bán hàng đa cấp;
m) Không quản lý người tham gia bán hàng đa cấp qua hệ thống thẻ thành viên theo quy định của pháp luật;
n) Không thông báo hoặc thông báo không đúng, không đầy đủ cho người tham gia bán hàng đa cấp những hàng hóa thuộc diện không được doanh nghiệp mua lại trước khi người đó tiến hành mua hàng;
o) Ký hợp đồng với người tham gia bán hàng đa cấp không bằng hình thức văn bản hoặc không bao gồm đầy đủ các nội dung cơ bản theo quy định của pháp luật.
2. Phạt tiền từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Không thực hiện đúng quy định về đối tượng kinh doanh theo phương thức đa cấp hoặc kinh doanh theo phương thức đa cấp đối với hàng hóa chưa đăng ký với cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
b) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ được pháp luật quy định khi tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tiếp tục hoạt động bán hàng đa cấp sau thời gian tạm ngừng;
c) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến cơ quan có thẩm quyền khi chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp;
d) Hoạt động bán hàng đa cấp ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi doanh nghiệp không có trụ sở chính khi chưa có xác nhận của Sở Công Thương tỉnh, thành phố đó về việc tiếp nhận hồ sơ thông báo hoạt động;
đ) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến Sở Công Thương nơi tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo theo quy định của pháp luật;
e) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mua lại hàng hóa của người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
g) Trả cho người tham gia bán hàng đa cấp tổng giá trị hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác trong một năm vượt quá 40% doanh thu bán hàng đa cấp trong năm đó của doanh nghiệp bán hàng đa cấp;
h) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ pháp luật quy định khi chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp;
i) Rút khoản tiền ký quỹ khi chưa có văn bản đồng ý của Cơ quan cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp trừ trường hợp doanh nghiệp rút khoản tiền đã ký quỹ vào ngân hàng thương mại để thực hiện thủ tục đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp mà không được cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
k) Không thực hiện thay đổi văn bản xác nhận ký quỹ hoặc thực hiện thủ tục thay đổi văn bản xác nhận ký quỹ nhưng không thông báo đến cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có sự thay đổi liên quan tới các nội dung cơ bản của văn bản xác nhận ký quỹ;
l) Không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ báo cáo định kỳ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Phạt tiền doanh nghiệp bán hàng đa cấp từ 60.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
a) Kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải đặt cọc hoặc đóng một khoản tiền nhất định dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
c) Yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp phải mua một số lượng hàng hóa dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
d) Yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải trả thêm một khoản tiền dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền duy trì, phát triển hoặc mở rộng mạng lưới bán hàng đa cấp của mình;
đ) Hạn chế một cách bất hợp lý quyền phát triển mạng lưới của người tham gia bán hàng đa cấp dưới bất kỳ hình thức nào;
e) Cho người tham gia bán hàng đa cấp nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác từ việc dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp;
g) Từ chối chi trả không có lý do chính đáng các khoản hoa hồng, tiền thưởng hay các lợi ích kinh tế khác mà người tham gia bán hàng đa cấp có quyền hưởng;
h) Yêu cầu người tham gia bán hàng đa cấp phải tuyển dụng mới hoặc gia hạn hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với một số lượng nhất định người tham gia bán hàng đa cấp để được quyền hưởng hoa hồng, tiền thưởng hoặc các lợi ích kinh tế khác;
i) Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo liên quan tới các nội dung trong chương trình đào tạo cơ bản phải trả tiền hoặc phí dưới bất kỳ hình thức nào, trừ chi phí hợp lý để mua tài liệu đào tạo;
k) Ép buộc người tham gia bán hàng đa cấp phải tham gia các hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo về các nội dung không thuộc chương trình đào tạo cơ bản của doanh nghiệp;
l) Yêu cầu người tham gia hội nghị, hội thảo, khóa đào tạo về các nội dung không thuộc nội dung cơ bản của chương trình đào tạo phải trả tiền hoặc phí cao hơn mức chi phí hợp lý để thực hiện hoạt động đó;
m) Thu phí đối với việc cấp, đổi thẻ thành viên cho người tham gia bán hàng đa cấp dưới bất kỳ hình thức nào;
n) Không cam kết cho người tham gia bán hàng đa cấp trả lại hàng hóa và nhận lại khoản tiền đã chuyển cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật;
o) Cản trở người tham gia bán hàng đa cấp trả lại hàng hóa theo quy định của pháp luật;
p) Cung cấp thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp, về tính chất, công dụng của hàng hóa, về hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp;
q) Duy trì nhiều hơn một vị trí kinh doanh đa cấp, hợp đồng bán hàng đa cấp mã số kinh doanh đa cấp hoặc các hình thức khác tương đương đối với cùng một người tham gia bán hàng đa cấp;
r) Kinh doanh theo mô hình kim tự tháp;
s) Mua bán hoặc chuyển giao mạng lưới người tham gia bán hàng đa cấp cho doanh nghiệp khác trừ trường hợp mua lại, hợp nhất hoặc sáp nhập doanh nghiệp;
t) Yêu cầu, xúi giục người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện hành vi bị cấm theo quy định của pháp luật.
4. Phạt tiền gấp hai lần mức quy định tại Khoản 3 Điều này đối với các hành vi quy định tại Khoản 3 Điều này trong trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện trên phạm vi từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên.
5. Ngoài việc bị phạt tiền theo quy định tại Khoản 1, Khoản 2, Khoản 3 và Khoản 4 Điều này, doanh nghiệp vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc một số hình thức xử phạt bổ sung và biện pháp khắc phục hậu quả sau:
a) Thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp đối với hành vi quy định tại Điểm d, Điểm đ Khoản 1 Điều này và hành vi quy định tại Khoản 3 Điều này trừ trường hợp kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
b) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm bao gồm cả tịch thu khoản lợi nhuận thu được từ việc thực hiện hành vi vi phạm;
c) Buộc cải chính công khai.
[3] Điều 92. Hành vi vi phạm về hoạt động bán hàng đa cấp
1. Phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người tham gia bán hàng đa cấp có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Thực hiện hoạt động bán hàng đa cấp khi chưa được cấp thẻ thành viên theo quy định;
b) Không xuất trình thẻ thành viên khi giới thiệu hàng hóa hoặc tiếp thị bán hàng;
c) Không cung cấp đầy đủ những thông tin về doanh nghiệp và hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp của doanh nghiệp theo quy định khi bảo trợ một người khác tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp.
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người tham gia bán hàng đa cấp có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Không tuân thủ quy định trong quy tắc hoạt động, chương trình trả thưởng của doanh nghiệp trong hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
b) Cung cấp thông tin không trung thực hoặc không chính xác về hàng hóa được chào bán.
3. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người tham gia bán hàng đa cấp có hành vi yêu cầu người muốn tham gia bán hàng đa cấp trả một khoản tiền nhất định, nộp tiền đặt cọc hoặc phải mua một lượng hàng nhất định dưới bất kỳ hình thức nào để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp.
4. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người tham gia bán hàng đa cấp có hành vi cung cấp thông tin sai lệnh hoặc gây nhầm lẫn về lợi ích của việc tham gia bán hàng đa cấp hoặc tính chất, công dụng của hàng hóa hoặc hoạt động của thương nhân bán hàng đa cấp để dụ dỗ người khác tham gia bán hàng đa cấp.
5. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người tham gia bán hàng đa cấp có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Tổ chức hội thảo, hội nghị khách hàng, hội thảo giới thiệu sản phẩm hoặc đào tạo mà không được thương nhân bán hàng đa cấp ủy quyền bằng văn bản;
b) Lôi kéo, dụ dỗ, mua chuộc người tham gia bán hàng đa cấp của thương nhân khác tham gia vào mạng lưới của thương nhân bán hàng đa cấp mà mình đang tham gia;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, địa vị xã hội để yêu cầu người khác tham gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp hoặc mua hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp.
6. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với thương nhân bán hàng đa cấp có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Không đáp ứng đầy đủ các điều kiện đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật trong quá trình hoạt động bán hàng đa cấp;
b) Không thực hiện thủ tục đề nghị sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi liên quan đến hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định;
c) Không thực hiện thủ tục đề nghị cấp lại Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp bị mất, bị rách hoặc bị tiêu hủy theo quy định;
d) Cung cấp thông tin gian dối trong hồ sơ đề nghị cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
đ) Giao kết hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với cá nhân không đủ điều kiện tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
e) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến hoạt động đào tạo người tham gia bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
g) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ liên quan đến việc cấp, đổi, thu hồi thẻ thành viên bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
h) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ việc công bố công khai tại trụ sở và cung cấp cho người có dự định tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp của thương nhân các thông tin, tài liệu theo quy định của pháp luật;
i) Không thực hiện việc giám sát thường xuyên hoạt động của người tham gia bán hàng đa cấp để bảo đảm người tham gia bán hàng đa cấp thực hiện đúng quy tắc hoạt động, chương trình trả thưởng của doanh nghiệp;
k) Không khấu trừ tiền thuế thu nhập cá nhân của người tham gia bán hàng đa cấp để nộp vào ngân sách nhà nước trước khi chi trả hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác cho người tham gia bán hàng đa cấp;
l) Không quản lý người tham gia bán hàng đa cấp qua hệ thống thẻ thành viên theo quy định của pháp luật;
m) Không thông báo hoặc thông báo không đúng, không đầy đủ cho người tham gia bán hàng đa cấp những hàng hóa thuộc diện không được doanh nghiệp mua lại trước khi người đó tiến hành mua hàng;
n) Ký kết hợp đồng với người tham gia bán hàng đa cấp không bằng hình thức văn bản hoặc không bao gồm đầy đủ các nội dung cơ bản theo quy định của pháp luật;
o) Không thực hiện thu hồi và nộp lại Chứng chỉ đào tạo viên trong thời hạn 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định thu hồi Chứng chỉ đào tạo viên theo quy định.
7. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với thương nhân bán hàng đa cấp có một trong các hành vi vi phạm sau đây:
a) Không thực hiện đúng quy định về đối tượng kinh doanh theo phương thức đa cấp hoặc kinh doanh theo phương thức đa cấp đối với hàng hóa chưa đăng ký với cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định của pháp luật;
b) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ được pháp luật quy định khi tạm ngừng hoạt động bán hàng đa cấp hoặc tiếp tục hoạt động bán hàng đa cấp sau thời gian tạm ngừng;
c) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến cơ quan có thẩm quyền khi chấm dứt hoạt động bán hàng đa cấp;
d) Tổ chức hoạt động bán hàng đa cấp tại tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khi chưa có xác nhận bằng văn bản của Sở Công Thương tỉnh, thành phố đó về việc tiếp nhận hồ sơ thông báo hoạt động bán hàng đa cấp;
đ) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ thông báo đến Sở Công Thương nơi tổ chức hội nghị, hội thảo, đào tạo theo quy định của pháp luật;
e) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mua lại hàng hóa đã bán cho người tham gia bán hàng đa cấp khi người tham gia bán hàng đa cấp có yêu cầu theo quy định của pháp luật;
g) Trả cho người tham gia bán hàng đa cấp tổng giá trị hoa hồng, tiền thưởng và các lợi ích kinh tế khác trong một năm vượt quá 40% doanh thu bán hàng đa cấp trong năm đó của doanh nghiệp bán hàng đa cấp;
h) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ pháp luật quy định khi chấm dứt hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp;
i) Rút khoản tiền ký quỹ trong quá trình thương nhân hoạt động bán hàng đa cấp khi chưa có văn bản đồng ý của cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định;
k) Không thực hiện việc ký quỹ hoặc cung cấp văn bản xác nhận nộp tiền ký quỹ mới cho cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp khi có thay đổi trụ sở sang tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khác;
l) Không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ báo cáo định kỳ về hoạt động bán hàng đa cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;
m) Không thông báo với Sở Công Thương các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi doanh nghiệp có hoạt động bán hàng đa cấp sau khi sửa đổi, bổ sung Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp;
n) Thông báo tổ chức hội thảo, hội nghị, đào tạo nhưng thực hiện không đúng như nội dung đã thông báo.
8. Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi kinh doanh theo phương thức đa cấp mà không đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
9. Phạt tiền gấp hai lần mức tiền phạt đối với hành vi vi phạm quy định tại Khoản 8 Điều này trong trường hợp hành vi vi phạm được thực hiện trên địa bàn từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trở lên.
10. Biện pháp khắc phục hậu quả:
a) Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này;
b) Buộc cải chính thông tin sai sự thật hoặc gây nhầm lẫn đối với hành vi vi phạm quy định tại Điểm c Khoản 1, Điểm b Khoản 2 và Khoản 4 Điều này.”