Theo quy định pháp luật thì các bên phải thực hiện đúng và đủ các nghĩa vụ đó. Tuy nhiên, trên thực tế, không phải lúc nào các chủ thể cũng thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Do đó, các tranh chấp về việc thực hiện quyền và nghĩa vụ trong hoạt động kinh doanh, thương mại khó có thể tránh khỏi. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia hợp đồng, cũng như tạo điều kiện hoạt động đồng bộ cho toàn bộ nền kinh tế, các tranh chấp đó cần được giải quyết kịp thời, đúng đắn. Về nguyên tắc khi tranh chấp trong kinh doanh, thương mại xảy ra, để đảm bảo nguyên tắc tự nguyện thỏa thuận trong kinh doanh, pháp luật cho phép các bên gặp nhau tự bàn bạc tìm cách giải quyết. Trong trường hợp các bên không thỏa thuận được với nhau và có yêu cầu thì tranh chấp kinh doanh, thương mại được giải quyết tại Trọng tài hoặc tại Tòa án nhân dân giải quyết theo thủ tục tố tụng quy định trong Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) được Quốc hội thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004 và có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2005.
1. Những nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện
Nguyên tắc cơ bản trong trong một đạo luật là tổng hợp những tư tưởng, quan điểm chỉ đạo mang tính khái quát, xuyên suốt trong cả đạo luật. Nội dung của các quy định tiếp theo chỉ là sự cụ thể hóa các tư tưởng, quan điểm này. Một số nguyên tắc cơ bản trong BLTTDS như sau:
1.1. Nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự
Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS, nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự được quy định như sau:
“1. Đương sự có quyền quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự. Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó.
2. Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thoả thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội”.
Về nguyên tắc các quan hệ kinh tế là những quan hệ được xác lập một cách tự nguyện, xuất phát từ ý chí và nguyện vọng của các bên mà không có bất cứ sự cưỡng ép, đe dọa nào trong quá trình xác lập, thực hiện. Nói cách khác, sự xác lập các quan hệ kinh tế hoàn toàn do các bên tự quyết định, và được Nhà nước bảo đảm nếu không trái với các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội . Chính vì thế, khi phát sinh tranh chấp, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; nhưng ngược lại, họ cũng có quyền từ bỏ quyền lợi của mình đã bị xâm phạm cho dù đã có yêu cầu Nhà nước bảo vệ. Nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của các đương sự được thể hiện trong suốt các giai đoạn của quá trình tố tụng: họ có thể khởi kiện hoặc không khởi kiện; trong quá trình giải quyết vụ việc, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Việc thực hiện quyền này của đương sự không chỉ dừng lại việc giải quyết theo thủ tục sơ thẩm, thủ tục phúc thẩm mà còn được thực hiện cả trong các giai đoạn của quá trình thi hành bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, thực trạng khi giải quyết tại Toà án nhân dân nguyên tắc này nhiều khi vẫn bị Toà án vi phạm, như: giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự hoặc không giải quyết hết yêu cầu đương sự, thậm chí có trường hợp giải quyết sai so với yêu cầu của đương sự dẫn đến đương sự khiếu nại kéo dài, vụ án bị Toà án cấp trên huỷ để giải quyết lại.
1.2. Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật
Quyền bình đẳng trước pháp luật là quyền cơ bản của công dân đã được ghi nhận trong Hiến Pháp 1992. Quyền này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản pháp luật, trong đó có BLTTDS: “Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, trước Toà án không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp. Mọi cơ quan, tổ chức đều bình đẳng không phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Các đương sự đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toà án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.” (Điều 8 BLTTDS). Việc cụ thể hoá quyền bình đẳng trước pháp luật trong tố tụng kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng vì nó còn thể hiện sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Khi các doanh nghiệp, người tham gia tố tụng thì không phân biệt đó là doanh nghiệp Nhà nước, công ty, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân… Các bên đều có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Tuy nhiên trong thực tế không phải lúc nào đương sự cũng thực hiện được quyền này, nhiều trường hợp do trình độ hiều biết của đương sự dẫn đến họ không thực hiện được hết quyền của mình, như: vấn đề khởi kiện, cung cấp chứng cứ hay bào chữa trước toà án... dẫn đến chịu phán quyết bất lợi cho họ hoặc có trường hợp xuất phát ngày từ việc vi phạm trong quá trình tiến hành tố tụng của Toà án hoặc quy định của pháp luật chưa phù hợp dẫn đến bất bình đẳng cho các đương sự. Đây là vấn đề lớn, để khắc phục phải tiến hành đồng bộ từ giai đoạn xây dựng pháp luật, cải cách cơ cấu tổ chức của Toà án, nâng cao trình độ của các thẩm phán và trình độ hiểu biết và tuân thủ pháp luật của các cá nhân, tổ chức hoạt động trong vấn đề kinh doanh.
1.3. Nguyên tắc Tòa án không tiến hành điều tra mà chỉ xác minh thu thập chứng cứ
Nguyên tắc này thể hiện bản chất dân sự trong việc giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Khác với giải quyết các vụ án hình sự, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại thì Tòa án không tiến hành điều tra mà đương sự phải cung cấp chứng cứ, Tòa án chỉ xác minh, thu thập chứng cứ trong những trường hợp nhất định (Điều 6 BLTTDS).
Việc quy định đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu của mình, trong trường hợp đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ và có yêu cầu thì Thẩm phán mới tự mình thu thập chứng cứ hoặc trong các trường hợp khác mà pháp luật có quy định. Quy định như vậy là phù hợp song việc áp dụng nguyên tắc này trên thực tế gặp nhiều khó khăn. Trong BLTTDS không quy định biện pháp chế tài mà chỉ quy định chung chung nếu không cung cấp chúng cứ thì bị bất lợi và không có quy định về thời hạn bắt buộc đương sự phải cung cấp chứng cứ nếu không cung cấp thì chứng cứ đó không có giá trị hoặc phải chịu chế tài như: phạt tiền..., vì vậy, thực tế có trường hợp đương sự đang giữ chứng cứ hoặc có khả năng thu thập chứng cứ nhưng lại không thu thập chứng cứ để cung cấp cho Toà án, chỉ đến khi thấy có lợi mới cung cấp, thậm chí có trường hợp để đến giai đoạn xét xử phúc thẩm mới xuất trình chứng cứ các hoặc sau khi bản án có hiệu lực pháp luật mới xuất trình chứng cứ, kèm theo đơn khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm dẫn đến Tòa án bị thụ động trong việc xét xử.
Liên quan đến việc thu thập và cung cấp chứng cứ trong tố tụng dân sự, Tại Điều 7, BLTTDS quy định “Cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung cấp đầy đủ cho đương sự, Toà án chứng cứ trong vụ án mà cá nhân, cơ quan, tổ chức đó đang lưu giữ, quản lý khi có yêu cầu của đương sự, Toà án; trong trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho đương sự, Toà án biết và nêu rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ). Tuy nhiên, thực tế nhiều trường hợp khi có vấn đề liên quan đến cơ quan quản lý hữu quan, Tòa án có văn bản yêu cầu các cơ quan này cung cấp tài liệu theo quy định của pháp luật, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau nên khó thực hiện được ngay hoặc thậm chí không được thực hiện được do chưa có quy định nào cụ thể hướng dẫn trách nhiệm cung cấp chứng cứ của các cơ quan hữu quan.
1.4. Nguyên tắc hòa giải
Nguyên tắc hòa giải trong tố tụng kinh tế được quy định tại Điều 10 BLTTDS, theo đó: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”.
Bản chất của quan hệ kinh tế được thiết lập trên cơ sở tự nguyện và quyền tự định đoạt của đương sự, do đó việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này được thực hiện theo những biện pháp nhất định, trong đó hòa giải là một biện pháp quan trọng và là nguyên tắc bắt buộc trong tố tụng dân sự. Hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng, được thực hiện nhằm mục đích phát huy truyền thống đoàn kết, tương trợ giữa các bên tham gia quan hệ kinh tế, nâng cao kết quả giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Đồng thời làm tốt hòa giải sẽ hạn chế những tốn kém về tiền bạc, thời gian của Nhà nước, công sức của cán bộ Nhà nước cũng như của công dân, hạn chế những khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực tư pháp. BLTTDS cũng quy định cụ thể việc hòa giải được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm, từ khi chuẩn bị xét xử đến khi bắt đầu xét xử tại phiên tòa, trừ những vụ án không được hòa giải như yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản Nhà nước, hoặc những vụ án kinh tế phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội.
Việc hòa giải là thủ tục bắt buộc khi giải quyết các vụ án kinh tế, đặc biệt là cấp sơ thẩm, nhưng không được hướng dẫn, đào tạo có bài bản cho các Thẩm phán. Việc hòa giải hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm của các Thẩm phán. Xu hướng chung của các Thẩm phán là hướng tới việc làm rõ đúng sai giữa các doanh nghiệp; chưa hoặc chưa biết quan tâm đúng mức đến vấn đề mà các đương sự hướng tới là lợi nhuận (nhiều hay ít nhưng phải có lợi) đó là điều kiện tiên quyết để đi tới xu hướng nhân nhượng hợp tác trong kinh doanh của các bên đương sự. Nếu việc hòa giải không thành có thể dẫn đến căng thẳng, khi hòa giải không thành thì mâu thuẫn sẽ tăng lên bội phần và việc thúc đẩy sự thương lượng tự thỏa thuận giữa các đương sự trong các giai đoạn tố tụng tiếp sau sẽ kém hiệu quả.
1.5. Nguyên tắc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời
Về nguyên tắc khi giải quyết các vụ việc thương mại phải nhanh chóng, kịp thời đảm bảo khắc phục kịp thời cho bên bị vi phạm. Trong BLTTDS quy định cụ thể thời hạn ở các giải đoạn tố tụng, như thời hạn thụ lý, thời hạn thu thập chứng cứ và đưa vụ việc ra xét xử, thời hạn phát hành quyết định, bản án, thời hạn kháng cáo, khiếu nại và giải quyết theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm... Phần lớn Toà án các cấp đều giải quyết vụ việc trong thời hạn luật định. Tuy nhiên, trong thực tế có một số trường hợp vi phạm thời hạn dẫn đến việc giải quyết không kịp thời như: vi phạm thời gian phát hành quyết định, bản án, thời gian gian thu thập chứng cứ.... Nguyên nhân việc vi phạm phần lớn do quy định thời hạn trong BLTTDS chưa hợp lý và trình độ thẩm phán còn hạn chế dẫn đến không đáp ứng với yêu cầu về thời hạn tố tụng.
2. Quy định của pháp luật hiện hành về thẩm quyền xét xử các vụ án kinh tế, vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện
2.1. Thẩm quyền theo vụ việc
Theo quy định của Điều 29 BLTTDS thì những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án bao gồm:
“1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi nhuận bao gồm:
a) Mua bán hàng hoá;
b) Cung ứng dịch vụ;
c) Phân phối;
d) Đại diện, đại lý;
đ) Ký gửi;
e) Thuê, cho thuê, thuê mua;
g) Xây dựng;
h) Tư vấn, kỹ thuật;
i) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường sắt, đường bộ, đường thuỷ nội địa;
k) Vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển;
l) Mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác;
m) Đầu tư, tài chính, ngân hàng;
n) Bảo hiểm;
o) Thăm dò, khai thác.
2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận.
3. Tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty.
4. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định”.
Quy định này nhìn chung là phù hợp và khắc phục được những hạn chế của quy định trước đây về thẩm quyền theo vụ việc của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế. Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này vẫn gặp một số vướng mắc như sau:
Thứ nhất, trường hợp cá nhân đã nộp tiền mua phần vốn góp của thành viên Công ty nhưng chưa được đăng ký để trở thành thành viên Công ty TNHH, nay có tranh chấp thì có là tranh chấp giữa thành viên Công ty với Công ty hoặc giữa thành viên Công ty với nhau không hay tranh chấp giữa cá nhân với công ty?
Thứ hai, chưa có giải thích thế nào là “tranh chấp đầu tư, tài chính, bảo hiểm” theo quy định tại khoản 1 Điều 29 BLTTDS? hay thế nào là tranh chấp giữa thành viên công ty với nhau liên quan tới “hoạt động” của công ty theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS. Khái niệm “hoạt động” được hiểu theo phạm vi rộng hay phạm vi hẹp?....
Thứ ba, tuy đã có hướng dẫn tiểu mục 3.5 mục 3 phần I Nghị quyết số 01/2005 về tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, tranh chấp giữa thành viên của công ty với nhau tuy nhiên việc áp dụng trên thực tế còn nhiều lúng túng khi các tòa án xác định có phải là tranh chấp kinh doanh thương mại giữa thành viên công ty với công ty không. Ví dụ, trong quá trình điều hành hoạt động của công ty, lợi dụng cương vị quản lý của mình, giám đốc Công ty đã chiếm dụng vốn của Công ty để sử dụng cho hoạt động kinh doanh riêng của mình (không thuộc trường hợp chiếm đoạt được quy định trong Bộ luật hình sự), Công ty khởi kiện vụ án để đòi lại số tiền bị chiếm thì có phải là loại tranh chấp kinh doanh thương mại giữa thành viên công ty với công ty không?
Về những vấn đề trên, có nhiều quan điểm giải quyết khác nhau, cụ thể như sau:
Về vấn đề thứ nhất, có quan điểm cho rằng đây là tranh chấp về mua bán phần vốn góp giữa cá nhân người mua với Công ty hoặc giữa cá nhân người mua với cá nhân khác là thành viên của Công ty chứ không phải là tranh chấp giữa thành viên Công ty với Công ty hoặc giữa các thành viên của Công ty với nhau, vì cá nhân người mua trên chưa là thành viên của Công ty. Nhìn chung đối với loại quan hệ mua bán này, người mua và người bán đều nhằm mục đích lợi nhuận. Vì vậy, theo quy định tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 phần I của Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, các tranh chấp loại này tuy không thuộc trường hợp được quy định tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự, nhưng cũng là loại tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa Kinh tế (loại được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giao thêm ngoài các vụ việc được quy định tại Điều 29, 30 Bộ luật tố tụng dân sự. Nếu người mua và người bán đều có đăng ký kinh doanh, thì đây là loại tranh chấp về đầu tư được quy định tại điểm m khoản 1 Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự và thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Nếu người mua hay người bán, hoặc cả người mua và người bán đều không có đăng ký kinh doanh, thì vụ án đó thuộc thẩm quyết giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân cấp huyện..).
Về vấn đề thứ hai, hiện nay chưa có văn bản nào của Tòa án nhân dân tối cao cũng như của các cơ quan có thẩm quyền giải thích, hướng dẫn áp dụng quy định này. Tuy nhiên, khi giải quyết các vấn đề liên quan, thì cần chú ý đến các Luật chuyên ngành đặc biệt là Luật đầu tư, Luật doanh nhiệp… và văn bản hướng dẫn các luật này để xác định tùy từng loại việc.
Về vấn đề thứ ba, cần phải khẳng định đây là tranh chấp dân sự về vay, mượn tài sản chứ không thuộc loại tranh chấp về kinh doanh, thương mại theo quy định tại khoản 3 Điều 29 BLTTDS.
Tuy nhiên, các vấn đề nêu trên cần phải quy định rõ hơn trong BLTTDS và trước mắt cần phải có văn bản hướng dẫn để thống nhất trong quá trình áp dụng pháp luật.
2.2. Về vấn đề xác định thẩm quyền của Tòa án các cấp
Việc đầu tiên khi thụ lý vụ việc đó là xác định xem vụ việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án không? Nếu có, thì phải xác định Tòa án nhân dân cấp huyện (quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) có thẩm quyền giải quyết đối với những loại vụ việc nào và Tòa án nhân dân cấp tỉnh (tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) có thẩm quyền giải quyết đối với những loại vụ việc nào.
Theo quy định tại Điều 33 khoản 1 điểm b BLTTDS thì Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm các tranh chấp về kinh doanh, thương mại bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý; ký gửi, cho thuê, thuê mua; xây dựng, tư vấn, kỹ thuật; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa. Tuy nhiên theo quy định tại Điều 3 Nghị quyết số 32/2004/QH11 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS thì kể từ ngày BLTTDS có hiệu lực (01/01/2005), những Tòa án cấp huyện có đủ điều kiện thì được giao thực hiện ngay thẩm quyền mới; đối với những Tòa án cấp huyện chưa có đủ điều kiện thì vẫn tiếp tục thực hiện thẩm quyền xét xử như trước khi BLTTDS có hiệu lực, là giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp hợp đồng kinh tế mà giá trị tranh chấp dưới 50 triệu đồng, trừ trường hợp có nhân tố nước ngoài (Điều 13 khoản 1 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế). Việc xác định Tòa án cấp huyện nào được thực hiện thẩm quyền mới được quy định tại Nghị quyết số 293A/2007/UBTVQH12 ngày 27 tháng 9 năm 2007 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền xét xử các vụ án hình sự quy định tại khoản 1 Điều 170 của Bộ luật tố tụng hình sự và thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 của Bộ luật tố tụng dân sự cho các Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
Theo quy định tại Điều 34 thì Tòa án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm mọi tranh chấp kinh, doanh thương mại, trừ các tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Cụ thể bao gồm các tranh chấp về: vận chuyển hàng hoá, hành khách bằng đường hàng không, đường biển; mua bán cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá khác; đầu tư, tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty; các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại mà pháp luật có quy định; Các tranh chấp kinh doanh, thương mại mà đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài, hoặc cần phải ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án nước ngoài cũng thuộc thẩm quyền của Tòa án cấp tỉnh. Đồng thời Tòa án cấp tỉnh cũng có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân cấp huyện quy định tại Điều 33 khoản 1 điểm b BLTTDS mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
Về thẩm quyền theo cấp của Tòa án, hiện tại cũng có vướng mắc sau: Tại điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005 có hướng dẫn: “Toà kinh tế có nhiệm vụ, quyền hạn giải quyết các tranh chấp và các yêu cầu về kinh doanh, thương mại quy định tại Điều 29 và Điều 30 của BLTTDS; các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận”. Tại điểm b khoản 1 Điều 33 của BLTTDS quy định thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện: Tranh chấp về kinh doanh, thương mại quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h và i khoản 1 Điều 29 của Bộ luật này. Như vậy Tòa án nhân dân cấp huyện được giải quyết: các tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận như điểm b tiểu mục 1.1 mục 1 Phần I Nghị quyết số 01/2005 không? Về vấn đề này, Tòa án nhân dân cấp huyện hiện nay đã được tăng thẩm quyền, những tranh chấp về kinh doanh, thương mại mà một hoặc các bên không có đăng ký kinh doanh, nhưng đều có mục đích lợi nhuận cũng nằm trong khả năng giải quyết của Tòa án nhân dân cấp huyện. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể nên mỗi Tòa án áp dụng một cách khác nhau, không thống nhất.
2.3. Thẩm quyền theo lãnh thổ
Theo quy định tại Điều 35 thì Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
“1. Thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự của Toà án theo lãnh thổ được xác định như sau:
a) Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở, nếu bị đơn là cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
b) Các đương sự có quyền tự thoả thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Toà án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của nguyên đơn, nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức giải quyết những tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29 và 31 của Bộ luật này;
c) Toà án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản”.
Theo quy định tại điểm b thì khi xảy ra tranh chấp các bên có quyền thỏa thuận bằng văn bản để nguyên đơn khởi kiện tại Tòa án nơi mình cư trú hoặc có trụ sở. Trong thực tế có vướng mắc khi ký kết hợp đồng, các bên thỏa thuận: chọn Tòa án giải quyết tranh chấp. Chẳng hạn, Công ty A có trụ sở ở quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh ký hợp đồng mua bán gạo với Công ty B có trụ sở tại quận Hoàng Mai Thành phố Hà Nội. Trong hợp đồng hai bên thỏa thuận nếu có tranh chấp mà thương lượng không được thì đưa ra Tòa án thành phố Hồ Chí Minh để giải quyết. Thỏa thuận này không có nội dung khởi kiện tại trụ sở hoặc nơi cư trú của nguyên đơn. Sau này Công ty A khởi kiện Công ty B tại Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh để đòi Công ty B trả tiền hàng còn thiếu, thì có hai quan điểm: Có quan điểm cho rằng Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh không có thẩm quyền. Có quan điểm cho rằng Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền giải quyết vì đối chiếu với các quy định pháp luật không có gì sai trái. Về vấn đề này, chưa có hướng dẫn cụ thể; tuy nhiên, có quan điểm cho rằng trong những trường hợp như vậy, nếu một bên khởi kiện tại Tòa án nơi mình cư trú hoặc có trụ sở trùng với Tòa án hai bên đã lựa chọn trong hợp đồng mà phía bị đơn không phản đối thì Tòa án thụ lý giải quyết.
2.4. Thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn
Trong thực tế, nếu chỉ xác định thẩm quyền của Tòa án theo vụ việc, và lãnh thổ thì sẽ phát sinh những vụ việc có nhiều Tòa án cùng có thẩm quyền giải quyết hoặc có trường hợp không thể xác định được Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Vì vậy để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong những trường hợp này, Điều 36 BLTTDS quy định có thể xác định thẩm quyền của Tòa án theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Cụ thể khi yêu cầu giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại, nguyên đơn có quyền lựa chọn Tòa án trong các trường hợp sau đây:
- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết;
- Nếu tranh chấp phát sinh từ hoạt động của chi nhánh tổ chức thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi tổ chức có trụ sở hoặc nơi tổ chức có chi nhánh giải quyết;
- Nếu bị đơn không có nơi cư trú, làm việc, trụ sở ở Việt Nam hoặc vụ án về tranh chấp việc cấp dưỡng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc giải quyết;
- Nếu tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi mình cư trú, làm việc, có trụ sở hoặc nơi xảy ra việc gây thiệt hại giải quyết;
- Nếu tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi hợp đồng được thực hiện giải quyết;
- Nếu các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở ở nhiều nơi khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi một trong các bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở giải quyết;
- Nếu tranh chấp bất động sản mà bất động sản có ở nhiều địa phương khác nhau thì nguyên đơn có thể yêu cầu Toà án nơi có một trong các bất động sản giải quyết.
Tuy nhiên, khi áp dụng quy định này vào thực tiễn thì các Tòa án lúng túng chưa xác định được thứ tự ưu tiên: nguyên tắc nào trước, nguyên tắc nào sau hoặc ưu tiên sự lựa chọn của các bên, dẫn đến nhiều vụ án phải chuyển đi chuyển lại do có quan điểm khác nhau về việc vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa án nào?
Trường hợp vướng mắc khác, khi ký kết hợp đồng kinh tế, các bên thường thỏa thuận nếu có tranh chấp phát sinh thì yêu cầu Tòa án (ví dụ: Toà kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh giải quyết), tuy nhiên trong trường hợp thỏa thuận này bị vô hiệu do không đúng thẩm quyền (tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định tại Điều 29 và điểm b khoản 1 Điều 33 BLTTDS thì thuộc thẩm quyền của TAND cấp huyện…). Đối với các trường hợp này Toà án trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn và hướng dẫn họ làm đơn khởi kiện tại TAND cấp huyện nơi có trụ sở của bị đơn. Tuy nhiên, thực tế vận dụng điều khoản lựa chọn Toà án nơi có trụ sở của bị đơn gặp một số vướng mắc:
Ví dụ 1: Doanh nghiệp A. có trụ sở tại thành phố Hồ Chí Minh ký hợp đồng với B. có trụ sở tại tỉnh ĐakLak, trong hợp đồng mua bán hàng hóa các bên có thỏa thuận nếu có tranh chấp các bên có quyền khởi kiện tại Toà kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Khi có tranh chấp các bên đã yêu cầu Toà kinh tê TAND thành phố Hồ Chí Minh giải quyết. Căn cứ theo quy định tại Điều 29, điểm b khoản 1 Điều 33 của BLTTDS, Toà kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn hướng dẫn họ làm đơn khởi kiện tại Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh nơi có trụ sở của bị đơn. Sau khi nguyên đơn gửi đơn khởi kiện cho Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh ĐakLak (nơi có trụ sở của bị đơn), thì Tòa án nhân dân cấp huyện đó lại cho rằng Toà kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh mới có thẩm quyền giải quyết nên đã trả lại đơn khởi kiện để nguyên đơn khởi kiện tại Toà án nơi các bên đã lựa chọn… Nguyên đơn lại nộp đơn khởi kiện Toà kinh tế Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã vận dụng chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận nơi có trụ sở của nguyên đơn giải quyết.
3. Quy định về thủ tục thụ lý, chuẩn bị xét xử, xét xử và xem xét theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm trong BLTTDS, vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hoàn thiện
3.1. Khởi kiện và thụ lý vụ án kinh tế
3.1.1. Khởi kiện vụ án kinh tế
Khởi kiện vụ án kinh tế là yêu cầu Tòa án giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Quyền khởi kiện vụ án kinh tế thuộc về các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật kinh tế. Các chủ thể này hoàn toàn bình đẳng về địa vị pháp lý, có quyền tự định đoạt. Khi xảy ra tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa họ thì họ có quyền khởi kiện vụ án kinh tế.
BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.” (Điều 161). Đối với cá nhân, họ chỉ có quyền khởi kiện khi họ có đủ năng lực chủ thể, trong trường hợp họ bị mất năng lực hành vi, hoặc bị hạn chế năng lực hành vi thì quyền khởi kiện của họ được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp. Cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị các chủ thể khác xâm phạm. Đơn khởi kiện là hình thức biểu đạt yêu cầu của người khởi kiện đến Tòa án nhằm giải quyết tranh chấp trong kinh doanh, thương mại. Đơn khởi kiện phải thể hiện rõ nội dung vụ việc và những yêu cầu của người khởi kiện đối với Tòa án, và là cơ sở quan trọng để Tòa án xem xét, quyết định thụ lý vụ án kinh tế. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải làm đơn khởi kiện. Về hình thức, đơn khởi kiện phải được người khởi kiện ký tên hoặc điểm chỉ nếu người khởi kiện là cá nhân; nếu là cơ quan, tổ chức khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức ký tên và đóng dấu vào phần cuối đơn. Về nội dung, đơn khởi kiện phải có các nội dung sau:
- Ngày, tháng, năm làm đơn khởi kiện;
- Tên Toà án nhận đơn khởi kiện;
- Tên, địa chỉ của người khởi kiện;
- Tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích được bảo vệ, nếu có;
- Tên, địa chỉ của người bị kiện;
- Tên, địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nếu có;
- Những vấn đề cụ thể yêu cầu Toà án giải quyết đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;
- Họ, tên, địa chỉ của người làm chứng, nếu có;
- Tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp;
- Các thông tin khác mà người khởi kiện xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án.
3.1.2. Thụ lý vụ án kinh tế và án phí
Thụ lý vụ án kinh tế là thủ tục pháp lý khẳng định sự chấp nhận của Tòa án đối với việc giải quyết vụ án. Sau khi nghiên cứu đơn khởi kiện của người khởi kiện, Tòa án sẽ tiến hành thụ lý vụ án nếu vụ án đó thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án và không thuộc các trường hợp phải trả lại đơn. Tòa án trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:
- Thời hiệu khởi kiện đã hết;
- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các bên có liên quan phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc giải quyết vụ việc. Trong trường hợp này Tòa án sẽ không nhận đơn khởi kiện và không thụ lý vụ án vì như vậy sẽ làm mất đi hiệu lực của quyết định giải quyết của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, và lãng phí thời gian, công sức của cơ quan Nhà nước. Trong trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin thay đổi mức bồi thường thiệt hại hoặc vụ án đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà cho thuê, cho mượn mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi kiện thì Tòa án tiếp tục nhận đơn xém xét thụ lý vụ án;
- Chưa có đủ điều kiện khởi kiện. Trường hợp này có thể xảy ra do nhiều nguyên nhân như yêu cầu của người khởi kiện không rõ ràng, không có căn cứ pháp lý; người khởi kiện không có đủ chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho việc quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại… Tòa án sẽ tiếp tục nhận đơn khởi kiện khi có đủ điều kiên khởi kiện;
- Hết thời hạn Tòa án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mà người khởi kiện không thực hiện yêu cầu đó. Đây là những trường hợp mà đơn khởi kiện không tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về nội dung và hình thức. Khi Tòa án đã yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn mà họ không thực hiện yêu cầu đó đúng thời hạn thì coi như họ đã từ bỏ việc khởi kiện;
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong trường hợp này, Tòa án sẽ hướng dẫn cá nhân, cơ quan, tổ chức đến nộp đơn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền giải quyết vụ việc đó;
- Hết thời hạn nộp tạm ứng án phí mà người khởi kiện không đến Tòa án làm thủ tục thụ lý vụ án, trừ trường hợp có lý do chính đáng. Thời hạn nộp tạm ứng án phí cũng là thời gian để người khởi kiện tự xem xét lại việc khởi kiện xem có thật cần thiết hay không. Nếu việc khởi kiện không còn cần thiết nữa, người khởi kiện có thể thể hiện sự từ bỏ việc khởi kiện của mình bằng hành vi không nộp tiền tạm ứng án phí.
Án phí là một khoản tiền mà các đương sự phải trả cho Tòa án khi Tòa án giải quyết vụ tranh chấp trong kinh doanh, thương mại giữa các bên. Số tiền án phí các đương sự phải chịu do Tòa án xác định tùy theo từng vụ án, căn cứ trên mức độ lỗi, lợi ích của các bên từ vụ tranh chấp và theo khung án phí do Chính phủ quy định.
Khi khởi kiện, nguyên đơn phải nộp tiền tạm ứng án phí, và là một điều kiện để Tòa án thụ lý vụ án để giải quyết. Còn vấn đề nguyên đơn có phải chịu án phí hay không, tỷ lệ là bao nhiêu do Tòa án quy định vào cuối quá trình tố tụng.
Thực hiện các quy định trên, trong thực tiễn có một số vướng mắc sau:
Trong quá trình áp dụng quy định về người đại diện trong BLTTDS thường có nhiều sai sót. Có những sai sót là do lỗi chủ quan của thẩm phán như xác định người đại diện là nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ việc dân sự, còn không xác định địa vị tố tụng của người được đại diện trong các bản án, quyết định hoặc coi cả hai đều là đương sự. Người đại diện theo uỷ quyền sẽ có quyền và nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi uỷ quyền nhưng giấy uỷ quyền ghi không rõ, hoặc chỉ uỷ quyền cho đến theo dõi, nghe Toà phán quyết thì Toà án lại cho họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện… Tuy nhiên, cũng có những sai sót là do luật chưa quy định thật rõ ràng gây khó khăn, vướng mắc khi áp dụng. Ví dụ khi nào người đại diện được ký vào đơn khởi kiện thay người đại diện, khi nào không được ký. Tại Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 và Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao có đề cập đến vấn đề đại diện và quyền ký đơn khởi kiện nhưng cũng chưa đề cập rõ hết các vấn đề, dẫn đến vẫn có lúng túng, sai sót và tại Công văn số 38/KHXX ngày 29-03-2007 Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn rõ thêm mới giải tỏa được lúng túng của thẩm phán. Theo ý kiến chúng tôi những vấn đề nêu trên sau này nên quy định rõ hơn trong BLTTDS. Đối với trường hợp đại diện theo uỷ quyền nên quy định theo hướng nếu người uỷ quyền đã uỷ quyền toàn bộ cho người đại diện (là cá nhân, cơ quan, tổ chức) kể cả quyền khởi kiện thì người đại diện có quyền ký đơn khởi kiện thay cho người khởi kiện thì sẽ thuận tiện hơn cho các bên đương sự.
Về xác định tư cách của đương sự, người đại diện. Nhiều tòa án còn lúng túng khi xác định tư cách của đương sự trong một số trường hợp cụ thể. Ví dụ: người bị kiện là đơn vị trực thuộc pháp nhân (đơn vị hạch toán báo sổ nhưng từ ký hợp đồng không có ủy quyền của pháp nhân, không hạch toán báo sổ về pháp nhân, tức pháp nhân không biết) thì không xác định được ai là bị đơn? Hoặc sau khi thụ lý vụ án, bị đơn xuất trình tài liệu về việc nguyên đơn đã bán toàn bộ khoản nợ (đang kiện đòi bị đơn) cho người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn (thường là luật sư, văn phòng luật sư, công ty mua bán nợ…) thì giải quyết như thế nào? Người mua nợ có đươc làm đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn không? Xác định tư cách đương sự như thế nào? Nếu hợp đồng mua bán có trước khi thụ lý vụ án hoăc sau khi thụ lý vụ án.
3.2. Chuẩn bị xét xử
Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý vụ án đến ngày Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Thời hạn chuẩn bị xét xử là khoảng thời gian cần thiết để Tòa án tiến hành lập hồ sơ vụ án, xác minh, thu thập chứng cứ, hòa giải vụ án, và xem xét để đưa vụ án ra xét xử. Đây là công việc bắt buộc trước khi đưa vụ án ra xét xử và cần phải có thời gian nhất định. Đối với những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thì thời hạn chuẩn bị xét xử là 02 tháng. Trong trường hợp vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án có thể gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá 01 tháng. Việc quy định thời hạn như vậy nhằm đảm bảo yêu cầu giải quyết vụ án một cách nhanh chóng và kịp thời.
Trong thời gian chuẩn bị cho công tác xét xử, Tòa án tiến hành các công việc chủ yếu sau:
Một là, trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho Viện kiểm sát cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án.
Hai là, Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. Theo đó, Tòa án có quyền yêu cầu đương sự cung cấp, bổ sung chứng cứ, hoặc cung cấp những vấn đề cần thiết. Yêu cầu cơ quan Nhà nước, tổ chức hữu quan, cá nhân cung cấp bằng chứng có ý nghĩa cho việc giải quyết vụ án; yêu cầu người làm chứng trình bày về những vấn đề cần thiết; xác minh tại chỗ tình hình vụ án; trưng cầu giám định, yêu cầu cơ quan chuyên môn định giá hoặc lập hội đồng định giá tài sản có tranh chấp.
Ba là, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Tòa án tiến hành hòa giải tất cả các vụ án dân sự; đây là một thủ tục bắt buộc phải tiến hành, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được. Khi vụ án ở trong trường hợp không thể hòa giải được thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử mà không cần hòa giải. Các vụ án kinh doanh, thương mại sau đây không tiến hành hòa giải được:
- Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt;
- Đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính đáng.
Khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phải triệu tập tất cả các đương sự, phổ biến cho tất cả các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên có liên hệ đến quyền và nghĩa vụ của mình, phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện với nhau về việc giải quyết vụ án. Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề giải quyết tranh chấp thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Hết thời hạn 07 ngày kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về thỏa thuận đó thì thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Việc hòa giải thành một vụ án kinh doanh, thương mại không chỉ là giải quyết mâu thuẫn giữa các đương sự mà còn đơn giản hóa thủ tục, tiết kiệm thời gian và công sức cho các đương sự. Trong trường hợp các đương sự không thể thỏa thuận với nhau được, thì Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Kết thúc giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa được quyền ra một trong các quyết định sau:
- Đưa vụ án ra xét xử;
- Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;
- Đình chỉ việc giải quyết vụ án.
Việc tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án được quy định cụ thể tại Điều 189 và Điều 192 BLTTDS.
Nhìn chung, việc áp dụng quy định nêu trên trong việc giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại không có nhiều vướng mắc. Tuy nhiên, có một số tòa án, như Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An cho rằng thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án kinh doanh, thương mại là hai tháng theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 BLTTDS là quá ngắn (kể cả gia hạn một tháng), đối với những vụ việc phức tạp có nhân tố nước ngoài, đề nghị sửa thời hạn xét xử là bốn tháng như thời hạn vụ án dân sự.
Theo quan điểm chúng tôi cần phân loại những vụ án đơn giản và vụ án phức tạp, vụ án đặc biệt phức tạp (tiêu chí phân loại cụ thể sau), trên cơ sở đó quy định thủ tục rút gọn khi giải quyết các vụ án “đơn giản” và rút ngắn thời gian giải quyết vụ án (khoảng 10 ngày), còn đối với vụ án phức tạp thì cần giữ thời gian giải quyết như hiện nay là phù hợp; riêng đối với một số vụ việc cụ thể có nhân tố nước ngoài (đặc biệt phức tạp) thì cần được bổ sung để gia hạn nhưng nhìn chung để đảm bảo nguyên tắc giải quyết tranh chấp được giải quyết kịp thời, nhanh chóng phù hợp với yêu cầu của hoạt động kinh doanh, thương mại.
3.3. Xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án kinh tế và xem xét vụ việc kinh tế theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm
Qua khảo sát thực tiễn và nghiên cứu BLTTDS chúng tôi thấy rằng, quá trình áp dụng BLTTDS vào thực tiễn giải quyết vụ án kinh tế còn một số vướng mắc và cần phải sửa đổi, cụ thể như sau:
3.3.1. Về sự có mặt của đương sự tại Toà án
Tại khoản 2 Điều 59, khoản 2 Điều 60, khoản 2 Điều 61, khoản 2 Điều 199, BLTTDS đều quy định nguyên đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan… mà đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì được coi là từ bỏ việc khởi kiện, từ bỏ yêu cầu độc lập.
Quy định khoản 2 Điều 60, khoản 2 Điều 199, khoản 2 Điều 200, khoản 2 Điều 201 và khoản 3 Điều 202 BLTTDS đều thể hiện nếu bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt thì Toà án giải quyết vắng mặt bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nhưng khoản 1 Điều 199, khoản 1 Điều 200, khoản 1 Điều 201 BLTTDS thì đều quy định nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì mới hoãn phiên toà là mâu thuẫn, không rõ ràng dẫn đến gây lúng túng cho các thẩm phán trong quá trình áp dụng. Mặc dù Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã giải thích rõ, nhưng vẫn có thẩm phán cho rằng nếu nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt lần thứ nhất không có lý do chính đáng thì được xử vắng mặt, gần đây khi Toà án nhân dân tối cao lấy ý kiến của các Toà án địa phương về các vấn đề vướng mắc, lúng túng, nhiều địa phương tiếp tục nêu vấn đề này. Vì vậy, khi sửa đổi, bổ sung BLTTDS cần sửa lại các điều nói trên theo hướng bỏ cụm từ “có lý do chính đáng” và quy định theo hướng: nếu nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt thì hoãn phiên toà.
Tại khoản 1 Điều 202 quy định: “nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên toà có đơn đề nghị Toà án xét xử vắng mặt” thì được xử vắng mặt, có nhiều thẩm phán đưa ra các thắc mắc là xét xử theo thủ tục nào ? có cần phải mở phiên toà không ? vì vậy chúng tôi đề nghị cần thêm câu “…được xét xử vắng mặt theo thủ tục chung”.
Tại điểm e khoản 2 Điều 58 quy định khi tham gia tố tụng đương sự có các quyền, nghĩa vụ sau đây… “tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án”… và khoản 1 Điều 202 cho phép các đương sự có đơn xin xử vắng mặt thì Toà án sẽ xử vắng mặt. Do đó, nhiều thẩm phán lúng túng, vướng mắc khi gặp trường hợp cả hai đương sự có đơn xin ly hôn và xin Toà án giải quyết vắng mặt, đương sự đã gửi tài liệu, chứng cứ kèm theo có xác nhận của đại sứ quán, lãnh sự quán (đương sự ở nước ngoài) hoặc có xác nhận của chính quyền địa phương (trường hợp ở trong nước) thì Toà án có quyền thụ lý, giải quyết vắng mặt họ không ? Những quy định chung nói trên chưa bao hàm được các trường hợp này, vì vậy BLTTDS cần bổ sung cụ thể hơn các trường hợp có đơn xin vắng mặt như thế nào thì được thụ lý, giải quyết.
3.3.2. Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng
Theo quy định tại khoản 1 Điều 150 BLTTDS “Việc cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng được thực hiện theo quy định của Bộ luật này thì được coi là hợp lệ”. Nếu bị đơn là doanh nghiệp nước ngoài không có đại diện tại Việt Nam, thủ tục cấp, tống đạt hoặc thông báo văn bản tố tụng thông thường được thực hiện thông qua hoạt động ủy thác tư pháp cho cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài hoặc ủy thác cho Tòa án nước ngoài. Để có thể xét xử vắng mặt bị đơn thuộc loại này, các Tòa án cũng vẫn phải thực hiện đủ bốn lần thông báo hoặc tống đạt hợp lệ đó thông qua ủy thác tư pháp. Đây là việc hết sức khó khăn, vất vả và kết quả hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhiệt tình, thiện chí của cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (có nhiều vụ án các Lãnh sự quán Việt Nam ở nước ngoài không thực hiện quyết định ủy thác và cũng không hồi âm cho Tòa án có ủy thác biết tình hình) hoặc thiện chí của Tòa án nước ngoài. Do vậy, cần có văn bản quy định sự phối hợp giữa các cơ quan tố tụng với các cơ quan thực hiện việc uỷ thác chặt chẽ thì mới đảm bảo đúng tiến độ theo quy định pháp luật và có hiệu quả.
3.3.3. Về sự khai báo của người làm chứng tại phiên tòa xét xử
Tại khoản 7, 8 và khoản 9 Điều 66 BLTTDS có quy định: người làm chứng phải bồi thường thiệt hại và chịu trách nhiệm trước pháp luật do những khai báo sai sự thật gây thiệt hại cho đương sự hoặc cho người khác; bị dẫn giải người làm chứng đến phiên toà nếu vắng mặt không có lý do chính đáng; người làm chứng khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, từ chối khai báo hoặc khi được Toà án triệu tập mà vắng mặt không có lý do chính đáng thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Những quy định này quá chung chung và mới ở dạng nguyên tắc nên khi giải quyết các vụ việc không áp dụng được. Thực tế người làm chứng khai báo sai sự thật, khai gian dối rất nhiều trong các vụ việc dân sự. Có trường hợp lúc đầu nhân chứng khai theo một hướng sau đó lại thay đổi lời khai theo hướng khác, thậm chí ngược hẳn lại và có dấu hiệu bị đương sự bên kia tác động nên khai báo không thống nhất, từ chối khai báo, không đến phiên toà, không đến Toà án theo giấy triệu tập, gây rất nhiều khó khăn cho các Toà án trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Mặc dù tại phần thứ 8, từ Điều 384 đến Điều 390 BLTTDS quy định xử lý hành chính một số hành vi và Điều 307, Điều 308, Điều 309 Bộ luật hình sự có quy định về việc xử lý hình sự, nhưng trên thực tế hầu như không xử lý được. Nguyên nhân là chưa có các quy định hướng dẫn chi tiết, cụ thể, cách thức, phương pháp, biện pháp, hình thức, mức độ xử lý như thế nào nên những quy định trên chỉ tồn tại trên giấy. Vì vậy, khi sửa BLTTDS cần có hẳn một chương quy định thật cụ thể, nếu cần thì có nghị định hướng dẫn chi tiết hơn về phương pháp, cách thức xử lý hành chính và Thông tư liên tịch hướng dẫn về xử lý hình sự các hành vi đó thì những quy định này mới được thực hiện trên thực tế.
3.3.4. Phạm vi xét xử phúc thẩm
Tại Điều 263 BLTTDS quy định: Tòa án cấp phúc thẩm chỉ có quyền xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc liên quan đến việc xem xét lại nội dung kháng cáo, kháng nghị. Còn những phần không có kháng cáo, kháng nghị, hoặc không có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị thì Hội đồng xét xử phúc thẩm không được quyền xem xét và quyết định về những phần này. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử cấp phúc thẩm phát hiện quyết định, bản án của Toà án cấp phúc thẩm vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhưng vẫn không có quyền huỷ mà lại phải kiến nghị cấp giám đốc thẩm, tình trạng này dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết vụ án, không khắc phục sai sót kịp thời ảnh hưởng đến quyền lợi của nhà nước và của đương sự. Do vây, cần bổ sung điều 263 nêu trên, Tòa án cấp phúc thẩm có quyền xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị.
3.3.5. Về thủ tục xem xét vụ việc kinh tế theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm
Hiện nay BLTTDS quy đinh về thủ tục xem xét vụ việc kinh tế theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm chung chung, không quy định rõ thủ tục nộp đơn của đương sự, về thủ tục xem xét đơn và giải quyết đơn dẫn đến việc khiếu kiện tràn lan gây ra việc khiếu kiện kéo dài, khăn trong công tác giải quyết đơn khiếu nại. Do vậy, thời gian tới cần có quy định chặt chẽ, cụ thể, hợp lý để đảm bảo việc xem xét vụ việc kinh tế theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm có hiệu quả, cần quy định cụ thể các vấn đề sau:
- Cần quy định quy chế, thủ tục nộp đơn khiếu nại chặt chẽ. Việc viết đơn phải theo mẫu, như : yêu cầu khiếu nại, lý do khiếu nại, các chứng cứ cần thiết cho rằng bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bị sai lầm cần kháng nghị... ;
- Quy định cụ thể về trình tự và thẩm quyền trả lời đơn khiếu nại của đương sự ;
- Theo Điều 288 BLTTDS quy định "Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành việc kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật". Quy định này chung chung trong thực tế có tình trạng gần hết thời hạn xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì đương sự khiếu nại dẫn đến cơ quan pháp luật không kịp giải quyết đơn, việc khiếu nại và việc khiếu nại tràn lan. Vì vậy cần phải sửa lại theo hướng như sau: Đương sự có quyền khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm một năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật. Người có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm chỉ được tiến hành việc kháng nghị trong thời hạn ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp luật.
Kết luận
Thực tiễn công tác giải quyết tranh chấp thương mại tại Tòa án các cấp cho thấy, một trong những nguyên nhân dẫn đến có sai lầm trong các bản án, quyết định dân sự là việc Thẩm phán hiểu và vận dụng pháp luật khi xét xử, việc ban hành văn bản pháp luật có những điểm chưa đầy đủ và chưa phù hợp với thực tiễn, trong khi đó công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và của Toà án nhân dân tối cao lại không kịp thời hoặc chỉ hướng dẫn dưới dạng công văn, kết luận của Chánh án tại Hội nghị tổng kết, nên tính ổn định của các hướng dẫn đó rất hạn chế và không có tính pháp lý bắt buộc. Vì vậy, trong thời gian tới cần sửa đổi, bổ sung những quy định pháp luật sao cho phù hợp thực tiễn, cần nhanh chóng ban hành văn bản giải thích, hướng dẫn thống nhất về luật nội dung và luật hình thức (thủ tục tố tụng) trong công tác xét xử để các ngành, các cơ quan, các Thẩm phán hiểu và áp dụng. Đồng thời, cần nghiên cứu và sớm ban hành các tập án lệ. Đây chính là tài liệu để cho Tòa án các cấp vận dụng khi xét xử những vụ án có nội dung tương tự, đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật và xét xử thống nhất./.
Nguyễn Minh Đức